Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ kinh tế thái lan nhật bản từ sau khủng hoảng tài chính châu á 1997...

Tài liệu Quan hệ kinh tế thái lan nhật bản từ sau khủng hoảng tài chính châu á 1997

.PDF
102
11
60

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n --------------------------------------- NguyÔn QuÕ Th-¬ng Quan hÖ kinh tÕ th¸i lan – nhËt b¶n tõ sau Khñng ho¶ng tµi chÝnh ch©u ¸ 1997 LuËn v¨n th¹c sÜ Chuyªn nghµnh quan hÖ quèc tÕ M· sè : 60.31.40 Ng-êi h-íng dÉn khoa häc : pgs. Ts. Hoµng Kh¾c Nam Hµ néi - 2010 1 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Thái Lan nằm trong khu vực Đông Nam Á, luôn được coi là nước có nền kinh tế phát triển và có vai trò lớn trong hợp tác khu vực, cũng như những hợp tác của khu vực với bên ngoài. Nhật Bản là một trong số những quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới và được suy tôn là “hiện tượng thần kỳ” của Châu Á. Thành công của Nhật Bản được các nhà nghiên cứu đánh giá là một điển hình về sự kết hợp nhuần nhuyễn tinh hoa văn hoá phương Đông và khoa học công nghệ hiện đại phương Tây. Đối với Việt Nam cả hai nước Thái Lan, Nhật Bản đều là hai nước láng giềng gần gũi. Vì vậy, trước hết việc nghiên cứu dù ở bất kỳ lĩnh vực nào của Thái Lan, Nhật Bản đều hết sức cần thiết đối với Việt Nam. Đó sẽ là cơ hội để chúng ta có thêm hiểu biết về hai nước láng giềng quan trọng này. Như chúng ta đã biết, Thái Lan từ xưa đến nay vẫn luôn được coi là quốc gia có đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt và đặc biệt chú trọng phát triển ngoại giao với các nước lớn trong đó có Nhật Bản. Trong thời gian gần đây, nhất là từ khi hình thành cộng đồng Đông Á, quan hệ của Thái Lan và Nhật Bản càng trở nên phát triển. Liệu có phải chính nhờ đường lối đối ngoại đúng đắn, việc lựa chọn đối tác tin cậy, chính xác là một trong những nhân tố giúp Thái Lan có được sự phát triển kinh tế vượt trội hơn so với các nước trong khu vực hay không và ngay cả khi vấp phải cuộc khủng hoảng kinh tế thì Thái Lan cũng đã nhanh chóng vượt qua được? Nghiên cứu về quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản chính là để góp phần cắt nghĩa hiện tượng này. Ngoài ra, khi nghiên cứu quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản chúng ta hiểu thêm về thực chất quan hệ đối ngoại của hai nước, từ đó có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm cho bản thân Việt Nam trong việc hoạch định chính sách đối ngoại trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, ở Việt Nam từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Do tính cấp thiết của vấn đề cả về mặt khoa học, lẫn thực tiễn nên tôi quyết định lựa chọn vấn đề Quan hệ kinh tế Thái Lan - 2 Nhật Bản từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 làm đề tài luận văn của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề Quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay hiện là vấn đề mang tính thời sự và còn khá mới mẻ. Vì vậy, việc nghiên cứu xung quanh vấn đề này còn rất ít. Hiện tại, chúng tôi mới chỉ tiếp cận được với một số công trình viết về quan hệ kinh tế Thái Lan – Nhật Bản ở những giai đoạn trước khủng hoảng tài chính như công trình Hiệp ước Hữu nghị Nhật Bản – Thái Lan thời kỳ chiến tranh của tác giả người Nhật Yoshikawa Toshiharu. Công trình đề cập đến một số Hiệp ước giữa Thái Lan và Nhật Bản trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã sử dụng đất Thái Lan cho những mục đích quân sự tại khu vực Đông Nam Á và thái độ ủng hộ, lo ngại cho chủ quyền quốc gia hay né tránh của Thái Lan trong vấn đề này… Công trình Quan hệ Thái Lan - Nhật Bản, xem xét từ Hiệp định và những thoả thuận trong vòng 100 năm do tác giả người Thái Lan Phắt cha ri Xỉ rô rốt chủ biên, đã đề cập một cách khá chi tiết về quan hệ Thái Lan – Nhật Bản từ năm 1877 đến năm 1977 thông qua các Hiệp định và thỏa thuận mà hai nước đã ký kết với nhau trong vòng 100 năm ở hầu hết các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, tài chính, luật pháp, văn hóa, xã hội…Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đã cho công bố những bài nghiên cứu về vấn đề này như bài viết Quan hệ của Nhật Bản với Vương quốc Xiêm (Thái Lan) thế kỷ XVI – XVII của tác giả Nguyễn Văn Kim đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, năm 2002, số 2 (38) hay bài viết của tác giả Nguyễn Văn Tận: Liên minh Thái – Nhật trong cuộc chiến thế giới thứ hai, những vấn đề lịch sử và luận giải đăng trong Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, năm 2005, số 3 (57), công trình…Tất 3 cả những công trình này đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc có một cái nhìn tổng thể về quan hệ Thái Lan – Nhật Bản trong quá khứ để từ đó có thể hiểu và lý giải được những bước phát triển trong quan hệ Thái Lan – Nhật Bản ở những giai đoạn tiếp theo và hiện nay. Ngoài những công trình kể trên, chúng tôi còn được tiếp xúc với những công trình nghiên cứu mang tính tổng thể trong đó có một vài phần đề cập đến hoặc có liên quan đến quan hệ giữa Thái Lan và Nhật Bản như công trình Nhật Bản với chính sách đối tác kinh tế Nhật Bản - ASEAN (CEP) của nhà nghiên cứu Thái Lan Sịripon Vătchavănkhu. Công trình đã đề cập khá chi tiết về chính sách đối tác kinh tế Nhật Bản – ASEAN. Đó là việc xây dựng một thị trường thương mại tự do giữa Nhật Bản và ASEAN, tạo điều kiện để Nhật đầu tư vào ASEAN và đây sẽ là mối quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi. Để chính sách này trở thành hiện thực và có hiệu quả đối với các bên, trước mắt Nhật Bản sẽ ký Hiệp định song phương với từng nước trong ASEAN… Ngoài ra, công trình Chính sách đối ngoại của Thái Lan từ thời kỳ khủng hoảng kinh tế đến thế kỷ mới của tác giả Praphắt Thêpchatri cũng đã có một vài phần viết về chính sách đối ngoại của Thái Lan đối với các nước lớn trong đó có Nhật Bản. Khi Thái Lan vấp phải khủng hoảng kinh tế thì Nhật Bản là một trong những nước đã giúp đỡ Thái Lan nhiều nhất. Vì vậy chính sách đối ngoại của Thái Lan từ sau khủng hoảng đến thế kỷ mới lại một lần nữa nhấn mạnh tới vai trò của các nước lớn trong đó có Nhật Bản. Tiêu biểu nhất là công trình Vai trò của Nhật Bản đối với Thái Lan sau khủng hoảng kinh tế của tập thể tác giả Viện nghiên cứu Đông Á, trường Đại học Thăm ma xạt. Công trình gồm 4 phần. Phần đầu nói về những vấn đề kinh tế của Nhật Bản và bài học đối với Thái Lan. Phần thứ hai nói về những cải cách chính trị của Nhật Bản và bài học đối với Thái Lan. Phần thứ ba nói về vai trò của Nhật Bản về mặt văn hóa xã hội đối với Thái Lan, trong đó có đề cập đến một số viện trợ và 4 một số khoản cho vay của Nhật Bản dành cho Thái Lan. Phần cuối cùng là những định hướng trong quan hệ kinh tế giữa Thái Lan và Nhật Bản trong những năm đầu thế kỷ 21. Trước hết, các tác giả đã tổng kết lại quá trình quan hệ giữa Thái Lan và Nhật Bản trong vài thập kỷ cuối của thế kỷ 20 trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư và sau đó đề ra một số phương hướng trong quan hệ hai nước ở thế kỷ 21. Đối với chúng tôi công trình này thực sự hữu ích vì nó đã giúp chúng tôi có được cái nhìn tổng thể về vai trò và những ảnh hưởng của Nhật Bản đối với Thái Lan cũng như tái hiện phần nào mối quan hệ Thái Lan – Nhật Bản trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giai đoạn cuối thế kỷ 20 và những mục tiêu trong thế kỷ 21. Ngoài những công trình kể trên, chúng tôi còn được tiếp cận với một số nguồn tư liệu khác trên các bản tin Kinh tế, tài liệu tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam và một số nguồn tư liệu khai thác trên mạng Internet… 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận chủ yếu mà tôi sử dụng trong công trình này là nhận thức luận Mác xít, coi cơ sở kinh tế vật chất là yếu tố có vai trò quyết định căn bản đối với các hiện tượng chính trị, xã hội. Phương pháp biện chứng và lôgic cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu, đi từ bối cảnh lịch sử chung, trình bày quá trình hình thành và phát triển của các vấn đề bằng các sự kiện điển hình, phân chia các giai đoạn phát triển bằng các mốc lịch sử theo thời gian, sau đó rút ra kết luận khái quát và các phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế. Ngoài ra, khi tiếp cận vấn đề này tôi còn cần sử dụng đến một số phương pháp liên ngành từ các bộ môn khác có liên quan như: thống kê, so sánh… 4. Nguồn tư liệu 5 Để thực hiện đề tài luận văn này chúng tôi đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu như một số Hiệp định, Hiệp ước đã được ký kết giữa hai nước và một số tài liệu thứ cấp khác như các công trình khoa học đã được công bố trên sách, báo, tạp chí nghiên cứu về quan hệ Thái Lan - Nhật Bản của các tác giả Việt Nam, Thái Lan và Nhật Bản, (phần lớn là bằng tiếng Thái Lan), quan hệ Việt Nam - Thái Lan , quan hệ Việt Nam - Nhật Bản… phần lớn của các tác giả Việt Nam. Ngoài ra một số thông tin được khai thác trên các báo, tạp chí và mạng Internet… 5. Đóng góp của luận văn Do đây là đề tài khá mới mẻ ở Việt Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này nên luận văn sẽ cung cấp cho bạn đọc một số thông tin trên các lĩnh vực như: tiến trình phát triển quan hệ Thái Lan và Nhật Bản, những bước thăng trầm trong quan hệ giữa hai nước, quan hệ kinh tế giữa Thái Lan và Nhật Bản cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI… Ngoài ra, luận văn cũng đã hệ thống hoá được một khối lượng khá phong phú và tương đối cập nhật các tư liệu liên quan tới vấn đề quan hệ Thái Lan - Nhật bản. Những tư liệu này được thu thập từ rất nhiều nguồn, nhiều nơi khác nhau, cả tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Thái. Hy vọng rằng bản luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy và nghiên cứu cho những người có quan tâm tới vấn đề này. 6. Bố cục luận văn Luận văn được chia thành ba chương. Chương 1: Những nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ Thái Lan – Nhật Bản từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay. Trong chương này chúng tôi đề cập tới các vấn đề như bối cảnh quốc tế, bối cảnh khu vực, chiến lược phát triển của mỗi nước trong thế kỷ 21 và tiến trình phát triển quan hệ Thái Lan – Nhật Bản, trong đó nhấn mạnh đến 6 quan hệ Thái Lan – Nhật Bản trong và sau thời kỳ chiến tranh lạnh cũng như vai trò của Nhật Bản đối với Thái Lan trong khủng hoảng tài chính Châu Á. Đây là những nhân tố khách quan và chủ quan đã ảnh hưởng và làm tiền đề cho xu hướng phát triển mối quan hệ giữa hai nước từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay. Chương 2: Tình hình quan hệ kinh tế Thái Lan – Nhật Bản sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay Đây là chương chính của luận văn. Trong chương này chúng tôi đề cập đến quá trình ký kết Hiệp định hợp tác kinh tế giữa Thái Lan và Nhật Bản. Đây là Hiệp định hợp tác kinh tế lớn nhất giữa hai nước kể từ trước đến nay. Bên cạnh đó chương 2 còn đề cập đến một số chương trình hợp tác kinh tế quan trọng giữa Thái Lan và Nhật Bản từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay trên các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, tiền tệ, dịch vụ… Tất cả các chương trình hợp tác này đã tác động không nhỏ tới số lượng xuất nhập khẩu, số lượng các dự án đầu tư và số vốn đầu tư… giữa hai nước. Vì thế, phần cuối của chương 2, chúng tôi đã đề cập tới các kết quả hợp tác kinh tế giữa Thái Lan và Nhật Bản trên các mặt: thương mại, đầu tư, quan hệ ODA. Chương 3: Triển vọng quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản Trong chương 3 chúng tôi đề cập đến một số thuận lợi và khó khăn trong quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật bản, qua đó để thấy được triển vọng quan hệ giữa hai nước trong tương lai và từ đó rút ra một số bài học và kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quan hệ quốc tế và hoạch định chính sách Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do nhiều điều kiện còn hạn chế như năng lực nghiên cứu khoa học, sự khan hiếm nguồn tài liệu, khó khăn trong công tác điền dã, điều tra… nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Vậy chúng tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn. 7 Chương 1: Những nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ Thái Lan Nhật Bản sau khủng hoảng kinh tế Châu Á đến nay 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực 1.1.1. Bối cảnh quốc tế Có thể nói rằng quan hệ quốc tế cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 có rất nhiều thay đổi, thời điểm này được coi là thời điểm cải cách của toàn bộ hệ thống quốc tế. Một số thay đổi trong hệ thống quốc tế đã hình thành sau thời kỳ chiến tranh lạnh, khi mà Liên bang Xô Viết vốn là một siêu cường sau thế chiến II đã tan rã vào năm 1991, kéo theo đó là sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, là những khủng hoảng cả về chính trị, kinh tế, xã hội và sắc tộc. Cùng với nó, là sự tan rã của những nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Như vậy, trên thế giới chỉ còn lại một cực là Mỹ. Mỹ trở thành siêu cường duy nhất cho tới ngày 11/9/2001, khi xuất hiện sự kiện khủng bố kinh hoàng và bất ngờ. Sự kiện này đã làm thay đổi quan niệm về một nước Mỹ bất khả xâm phạm và tạo nên những hoài nghi về vấn đề an ninh và quyền lực của nước Mỹ. 8 Có thể nhận định về quan hệ quốc tế cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 mang một số đặc điểm cơ bản sau:  Vai trò của đường biên giới giảm sút Hệ thống kinh tế, thương mại và tài chính giữa các nước giảm rào cản. Quá trình này được hình thành ngay từ thập kỷ 80 xuất phát từ ảnh hưởng của cuộc cách mạng tin học và khoa học công nghệ, khi mà người ta có thể liên lạc cũng như nhận tin tức giữa các nước, các khu vực trên thế giới một cách nhanh chóng, tức thời. Ngay cả những vấn đề như sự biến động của ngoại tệ hay đầu tư với số lượng lớn cũng có thể được thông tin ra khắp thế giới qua hệ thống vi tính, đồng thời sản xuất và thương mại của các nước cũng đi theo hướng của một nền kinh tế tự do và dần dần đã được phổ biến trên khắp thế giới. Vì vậy, cùng với sự hình thành của một nền kinh tế tự do và sự phát triển của tin học, kinh tế thương mại và tài chính giữa các nước dần giảm đi rào cản. Với đặc điểm này, chính phủ các nước chắc chắn sẽ dần giảm đi khả năng quản lý nền kinh tế, tài chính và thông tin trong phạm vi quốc gia của mình như trước đây. Thay vào đó, toàn cầu hóa sẽ là thách thức đối với quyền lực nhà nước, điều chưa từng xảy ra trong lịch sử. Và điều đó sẽ làm cho các nhà nước cần phải có sự thay đổi để bảo vệ quyền lực và sự tồn tại của mình.  Mỹ trở thành siêu cường quân sự duy nhất thế giới Mỹ được đánh giá là siêu cường quân sự duy nhất trên thế giới và là nước duy nhất tự cho mình quyền được đưa lực lượng quân đội đến những điểm nóng ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Tuy nhiên trong những năm đầu thế kỷ 21, nội bộ nước Mỹ cũng gặp phải không ít những vấn đề về mặt kinh tế và xã hội. Những năm đầu thế kỷ 21, một loạt các công ty xuyên quốc gia của Mỹ bị phá sản như công ty Enron, World com, Tyco, Imclone, Global Crossing, Adelphia đã gây nên những tổn thất to lớn cho không chỉ những 9 công ty kể trên mà cho cả xã hội. Đó là nạn thất nghiệp, các công ty không còn khả năng để trả tiền đền bù, lương hưu và trợ cấp thất nghiệp cho nhân viên. Tuy nhiên một vấn đề gây nhiều tổn thất và đau đầu nhất cho Mỹ đó là vấn đề khủng bố quốc tế mà chủ yếu nhằm vào Mỹ và người dân Mỹ kể cả người dân trong nước và cả những người Mỹ hoạt động kinh doanh, đầu tư hoặc đi du lịch… ở nước ngoài. Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 đã làm chết và mất tích tới 6 nghìn người, lớn nhất trong các vụ khủng bố kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nước Mỹ sau vụ khủng bố ngày 11/9 đã tuyên bố: Vụ khủng bố 11/9 vừa qua chính là hành động gây chiến nhằm vào nước Mỹ và nước Mỹ sẽ đáp trả vụ khủng bố này cho dù phải tốn bao nhiêu thời gian đi chăng nữa. Tiếp theo đó, ngày 7/10/2001 Mỹ đã cùng với Anh đưa máy bay tới thủ đô Kabul và nhiều địa điểm khác của Apganixtan với danh nghĩa là để bảo vệ đất nước tránh nguy cơ khủng bố. Hiện tại, rất nhiều quốc gia đã không còn tin tưởng vào hành động của Mỹ và những công ty xuyên quốc gia của Mỹ, kể cả ở châu Mỹ la tinh, Trung Á và Đông Nam Á, do đó Mỹ không thể tự cho rằng Mỹ là quốc gia lãnh đạo duy nhất trên thế giới mà các nước khác buộc phải nghe theo.  1 Sự phân chia thành các khu vực thương mại Chủ nghĩa khu vực trong hoạt động thương mại ngày càng trở nên rõ nét nhất là khi xuất hiện các khu vực thương mại tự do giữa các nước và các khu vực thương mại tự do này cũng ngày càng cạnh tranh nhau quyết liệt hơn. Có thể nhận thấy điều đó qua việc phát triển của Châu Âu từ một Hiệp hội trở thành Liên Hiệp châu Âu, việc thành lập các khối NAFTA, AFTA, APEC… Mặc dù những khối kinh tế nói trên đều khẳng định rằng họ là những khối 1 [15, tr.12] [16, tr. 10] 10 kinh tế tự do nhưng nhiều nguyên tắc trong các khối kinh tế này lại thể hiện ra rằng đó là những khối kinh tế có nhiều ràng buộc, hạn chế, mang tính chất “thương mại khối”. Tình trạng này thực chất đã làm cho sự cạnh tranh giữa các nước trở nên quyết liệt hơn mà theo nhận định của nhiều chuyên gia thì đây giống như một cuộc chiến kinh tế. Mặc dù vậy, sự xuất hiện của những trung tâm thương mại mang tính khu vực này cũng mang lại những lợi ích trực tiếp cho các khu vực đó là khả năng nâng cao vị thế trong đàm phán. Ngoài ra còn một lợi ích nữa đó là giúp cho các sản phẩm khi sản xuất ra có cơ hội mở rộng thị trường sang nhiều khu vực với một giá thành công bằng, hợp lý hơn.  Nâng cao vị thế của các chủ thể quan hệ quốc tế không phải là nhà nước Mặc dù nhà nước vẫn là một chủ thể quan trọng nhất nhưng hiện nay trong quan hệ quốc tế còn có những chủ thể khác có vị thế quan trọng không kém đó là các tổ chức quốc tế, các cơ quan quốc tế kể cả ở cấp khu vực và thế giới, các công ty xuyên quốc gia hiện có vị trí ngày càng quan trọng hơn trong các giao dịch quốc tế thậm chí nhiều nhà phân tích và nghiên cứu còn cho rằng các công ty xuyên quốc gia hiện đang là những chủ thể cạnh tranh quyền lực với chính phủ nhiều nhất. Mặc dù vậy cũng không thể phủ nhận những lợi ích mà các công ty xuyên quốc gia mang đến cho đất nước như tạo nên sự phát triển của nền công nghiệp và công nghệ hiện đại đã giúp cải thiện công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân kể cả là trong giao thông, liên lạc hay trong rất nhiều lĩnh vực khác nữa. Nhưng các công ty xuyên quốc gia này có số vốn khổng lồ với các chi nhánh, bộ phận ở khắp các khu vực trên thế giới. Việc điều hành, quản lý chính thuộc về công ty mẹ trong đó có các bộ phận quản lý nhỏ được điều xuống các chi nhánh, các công ty con để giám sát các hoạt động của các chi nhánh và các 11 công ty này. Các công ty xuyên quốc gia do có chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới nên việc lưu chuyển dòng vốn, chuyển đổi công nghệ hay quá trình sản xuất khá thuận tiện, dễ dàng. Trong trường hợp nếu ở khu vực nào gặp phải khủng hoảng kinh tế thì công ty xuyên quốc gia cũng vẫn có khả năng chuyển đổi từ nơi có khủng hoảng sang nơi không bị ảnh hưởng của khủng hoảng. Như vậy, cho dù có xảy ra khủng hoảng kinh tế cấp khu vực thì những công ty xuyên quốc gia vẫn có khả năng tồn tại vững vàng. Ngoài ra, công ty xuyên quốc gia khi đột ngột rút một nguồn vốn lớn tại một quốc gia nào đó thì có khả năng sẽ làm rối loạn thị trường chứng khoán của nước đó do lượng vốn mà họ có trong tay là khổng lồ. Có thể thấy được điều này trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại một số nước châu Á, đặc biệt là ở Thái Lan, khủng hoảng tài chính trở nên nặng nề hơn cũng có một lý do là do các công ty xuyên quốc gia đã nhanh chóng rút vốn làm cho thị trường tài chính ở nước này càng thêm rối loạn.  Sự mở rộng vấn đề an ninh quốc tế An ninh quốc tế hiện tại (tính từ khoảng giữa thập kỷ 80 đến nay) không phải chỉ trong vấn đề quân sự hay các hành động quân sự như trong hơn 50 năm qua. Việc nghiên cứu các chiến lược trong thời điểm hiện nay được hiểu một cách sâu rộng hơn trước, không chỉ là những vấn đề về sức mạnh quân sự. Vấn đề an ninh ở mỗi quốc gia cũng không chỉ có nghĩa là việc chạy đua vũ trang hay việc chống lại sự xâm lược của các thế lực bên ngoài. Sự mâu thuẫn không chỉ có nghĩa là mâu thuẫn về mặt quân sự, Nhà nước cũng không hẳn là nơi có quyền lực duy nhất trong việc giải quyết các vấn đề trên. Hiện nay, nguy cơ đối với an ninh của đất nước không phải chỉ là sự can thiệp của các thế lực quân sự bên ngoài mà những nguy cơ đối với nền an ninh của quốc gia xuất phát từ rất nhiều vấn đề như vấn đề kinh tế, sự xuống cấp của môi trường, buôn lậu, mua bán trái phép chất gây nghiện, vận 12 chuyển tiền trái phép, nhập cư, di cư trái phép, bệnh truyền nhiễm, khủng bố, biểu tình chính trị và tham ô, tham nhũng… Tất cả những vấn đề trên đều có những ảnh hưởng nhất định tới an ninh quốc gia.  Vấn đề đói nghèo ở các nước đang phát triển Các nước đang phát triển trong giai đoạn hiện nay phần lớn gặp phải tình trạng thiếu thốn do xuất phát từ những nguyên nhân sau: - Nguyên nhân từ lịch sử: phần lớn các nước đang phát triển hiện nay đều xuất phát từ những nước trước đây là thuộc địa của đế quốc trong một thời gian dài. Điều này đã làm cho những nước là thuộc địa bị cạn kiệt về tài nguyên thiên nhiên do bị các nước đế quốc khai thác nguồn tài nguyên với số lượng lớn. Người dân phần lớn không được học hành và nghèo khó. - Nguyên nhân từ chính trị: Người dân ở những nước này phần lớn thiếu kiến thức về chính trị và quản lý. - Nguyên nhân từ nền kinh tế trong nước: sự chênh lệch giàu nghèo trong những quốc gia này là khá lớn. Vì thế, người giàu đã sử dụng quyền lực kinh tế của mình để thống trị số đông người nghèo. Cũng vì lẽ đó mà người giàu luôn lo lắng khi kinh tế của họ giảm đi thì quyền lực cũng giảm theo. Do vậy, họ luôn tìm cách vơ vét lợi ích nhiều nhất cho bản thân mà không đếm xỉa đến lợi ích của xã hội, của số đông người dân khác sẽ như thế nào. Những nhà nước kiểu này sẽ phát sinh nạn tham nhũng trong giới chính trị gia hết thời kỳ này nối tiếp sang thời kỳ khác. Chính trị gia sẽ hợp tác rộng rãi với các thương gia, thương nhân gây ra những tiêu cực, bất bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. Tình hình kinh tế trong nước và kinh tế đối ngoại của những nước đang phát triển càng bị thua thiệt so với những nước công nghiệp phát triển. 13 Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi các vấn đề như kinh tế, thương mại, chính trị, quân sự và nhiều vấn đề khác đều có sự giao thoa lẫn nhau và có nhiều biến đổi nhanh chóng thì các nước đang phát triển càng cần thiết phải nghiêm túc cải cách đất nước nhằm theo kịp với những biến đổi của thế giới. Trong quá trình cải cách đất nước cũng cần hết sức chú trọng đến lợi ích quốc gia.  Các nước lớn vẫn nắm giữ vai trò trong việc quy định các nguyên tắc của thế giới mới Các nước lớn là nhóm các nước công nghiệp phát triển, có sức mạnh trong rất nhiều lĩnh vực kể cả trong kinh tế, công nghiệp, kỹ thuật công nghệ và cả trong lĩnh vực quân sự. Vì thế những nước này cũng có quyền lực trong việc định ra các nguyên tắc cho một thế giới mới, từ những nguyên tắc trong kinh tế, thương mại, tiền tệ, môi trường, chống khủng bố, chống ma túy, chuyển giao công nghệ cho tới cả những vấn đề như an ninh thế giới và vũ khí hủy diệt hàng loạt… Hiện nay, các nước lớn vẫn có những ảnh hưởng nhất định tới những quyết định của nhiều tổ chức quân sự, kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế, kể cả tầm thế giới lẫn tầm khu vực và các nước lớn cũng có những ảnh hưởng ít nhiều tới quyết định của nhiều quốc gia trên thế giới bởi lẽ hiện tại, những bước chuyển đổi của nhóm nước này đều có những tác động nhất định và nhanh chóng tới hầu khắp các nước trên thế giới. 1.1.2. Bối cảnh khu vực Giai đoạn cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 khu vực châu Á cũng có những thay đổi đáng kể, tác động không nhỏ tới chính sách đối ngoại của các nước trong khu vực. Giữa năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra, bắt đầu từ Thái Lan và sau đó lan nhanh sang các nước khác ở Châu Á. Mười năm sau cuộc khủng hoảng tài chính, các thị trường tài chính châu Á lại bùng nổ trở lại 14 và một lần nữa khu vực này lại trở thành nơi mà thế giới quan tâm. Một châu Á đang nổi lên đã đạt mức tăng trưởng trung bình hàng năm 8% trong những năm 2005, 2006, 2007, nhanh như trước cuộc khủng hoảng tài chính. Do đó châu Á có vẻ đã phục hồi sau cuộc khủng hoảng. Một số nhà bình luận kinh tế cho rằng nhờ cải cách cơ cấu, những nước từng rơi vào khủng hoảng hiện trở nên động và kiên cường hơn. Điều này được thể hiện rõ hơn vào những năm 2008 – 2009, thời điểm diễn ra khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nước châu Á nhìn chung đã vững vàng hơn. Tuy nhiên, cũng trong thời điểm này Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng còn thấp, dưới 1%, thậm chí có nhiều năm tốc độ 2 tăng trưởng âm . Thái Lan cũng là nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính, tốc độ tăng trưởng chậm trong nhiều năm, thậm chí năm 2001, tốc độ tăng trưởng chỉ khoảng 1,8%. 3 Đông Á cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 vẫn được coi là nơi diễn ra những chính sách sôi động về kinh tế thị trường. Những sự phát triển ngoạn mục của các nước NIEs, sự chuyển nhanh sang kinh tế thị trường của Trung Quốc, Việt Nam… đang có hiệu ứng tích cực đến quá trình cải cách và phát triển nền kinh tế Nhật Bản, Thái Lan. Vai trò nổi bật của khu vực này thể hiện ở chỗ: nếu năm 1980 kinh tế Đông Á chỉ chiếm 20,6% giá trị thương mại thế giới, nhưng năm 1990 đã tăng lên 31,4% và đến năm 2000 đạt khoảng 46%... 4 khiến cho nó trở thành một đối tác quan trọng trong hợp tác kinh tế quốc tế, nhất là hợp tác từ Mỹ và EU. Hợp tác Đông Á được đẩy mạnh hơn bao giờ hết và nếu không có những điều chỉnh chính sách kịp thời, Nhật Bản có thể sẽ mất đi ưu thế của nền kinh tế hàng đầu trong khu vực và Thái Lan có thể mất hi vọng về vai trò đầu tầu trong ASEAN. 2 3 4 [12, tr.3] [9, tr. 11] [11, tr.8] 15 Với việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO và thỏa thuận thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) đã được ký kết vào tháng 11/2002, nền kinh tế ASEAN – Trung Quốc trở thành đối tác tích cực đối với hội nhập khu vực và toàn cầu. Là địa bàn hấp dẫn đầu tư, thương mại của tất cả các nước, Trung Quốc không chỉ là đối tác kinh tế lớn mà còn là đối thủ đáng gờm của Nhật Bản. Trung Quốc sẽ có vai trò đáng kể hơn với ASEAN trong vòng 10 năm tới. Hiệp định ACFTA được hoàn tất và theo cùng với WTO, các quan hệ hợp tác của các đối tác bên ngoài khu vực sẽ đặt trọng tâm vào Trung Quốc bởi từ đây, họ có thể có vai trò ảnh hưởng trên toàn khu vực, trước hết là ở Đông và Đông Nam Á. Đây có thể coi là sức mạnh và thách thức trực tiếp đối với quan hệ hợp tác kinh tế của Nhật với châu Á trong những năm đầu của thế kỷ 21. Nói cách khác, Trung Quốc với khả năng trở thành một trung tâm kinh tế thế giới mới đang tỏ rõ khả năng và sức cạnh tranh mạnh với các trung tâm kinh tế thế giới truyền thống. Với ASEAN và Ấn Độ, hai thực thể kinh tế đang ngày càng có vai trò đáng kể trong châu Á, Nhật Bản dành những ưu tiên đáng kể để củng cố phạm vi ảnh hưởng vốn có và để sử dụng các nước này như là điều kiện thực hiện của chiến lược điều chỉnh cơ cấu và nâng cao vị thế cạnh tranh của nền kinh tế Nhật Bản. Đặc biệt, thành công khiêm tốn của liên kết kinh tế ASEAN được xem như là hình mẫu của tổ chức liên kết kinh tế trong các nước đang phát triển và với vị thế mới của ASEAN trong quan hệ quốc tế, các nước lớn, trong đó có Nhật Bản, đều phải xem nó như là một đối tác kinh tế quan trọng trong điều chỉnh chính sách kinh tế của họ. Hợp tác trong khuôn khổ APEC với mục tiêu tạo thuận lợi và tự do hóa trong hoạt động kinh tế của các nước thành viên, trong đó có Nhật Bản và Thái Lan, đang đặt ra yêu cầu cho Nhật Bản và Thái Lan cũng như các nước thành viên khác là đẩy mạnh các quan hệ hợp tác kinh tế song phương và tích 16 cực tham gia, dẫn dắt các quan hệ hợp tác đa phương trong khu vực. Trong khuôn khổ APEC, Mỹ và Nhật Bản tiếp tục tỏ rõ vai trò quan trọng trong sự điều chỉnh hợp tác khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong điều kiện mới. 1.1.3. Chiến lược phát triển của Nhật Bản và Thái Lan trong thế kỷ 21 Bước vào thế kỷ 21, trước những thay đổi của bối cảnh quốc tế và khu vực, Nhật Bản đã đưa ra một chiến lược phát triển với tên gọi: Chiến lược phát triển mới trong thế kỷ 21 (The New Development Strategy). Trong quan hệ giữa các nước đang phát triển thì mục đích phát triển con người là trọng tâm trong chiến lược, chú trọng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Đề cao việc các nước tự dựa vào sức mình, tự chịu trách nhiệm và tìm kiếm đối tác hợp tác vì sự phát triển của cả hai bên, đặc biệt là các nước ASEAN. Chiến lược của Nhật Bản là tập trung phát triển các lĩnh vực như: sức khỏe cộng đồng, y tế, giáo dục, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Nhật Bản cũng có chiến lược giúp đỡ các nước đang phát triển để các nước này có thể vững vàng và tự lập hơn nữa trước những thay đổi của thế giới và khu vực. Do vậy, Nhật Bản đã thay đổi một số chính sách như chính sách xin – cho được thay thế bằng chính sách cộng tác với những nước đang phát triển, có xem xét đến khả năng tự lực của nước đó. 5 Trong chuyến thăm các nước ASEAN đầu năm 2002, Thủ tướng Nhật Bản Koizumi đã tuyên bố chính sách Đối tác kinh tế toàn diện Nhật Bản – ASEAN, nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa Nhật Bản với ASEAN đó là mối quan hệ bạn bè thật sự cho dù tình hình thế giới có thay đổi thế nào chăng nữa thì Nhật Bản cũng vẫn gìn giữ mối quan hệ tốt đẹp với ASEAN. Trong thế kỷ 21 này, mối quan hệ Nhật Bản và ASEAN được mở rộng và hợp tác chặt chẽ 5 [26, tr. 2] 17 hơn nữa với chính sách hỗ trợ của Nhật Bản đối với những cải cách của từng nước trong ASEAN nhằm mục đích hợp tác cùng phát triển cho một cộng đồng bền vững. Sự hợp tác trong thế kỷ 21 bao gồm: - Thiết lập một mạng lưới kinh tế giữa Nhật Bản và ASEAN - Thúc đẩy hơn nữa hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN trong lĩnh vực an ninh - Hợp tác trong giáo dục và phát triển nguồn nhân lực - Thúc đẩy hợp tác và năm 2003 là năm trọng tâm trong việc trao đổi văn hóa giữa Nhật Bản và ASEAN - Thúc đẩy hợp tác Đông Á 6 Bên cạnh đó, trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, Thái Lan cũng có một số thay đổi trong chính sách đối ngoại. Nếu như thời kỳ trước khủng hoảng tài chính, Thái Lan là một nước có nền kinh tế phát triển mạnh trong khu vực với tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và ổn định trong nhiều năm, Thái Lan có hi vọng sẽ trở thành quốc gia đầu tầu trong ASEAN, sẽ là cầu nối giữa các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Liên minh Châu Âu với ASEAN. Vì thế, trong thời gian này chính sách đối ngoại của Thái Lan là tập trung số một cho mối quan hệ với các nước láng giềng và với Hiệp hội ASEAN, nhằm mở rộng thị trường thương mại, thị trường đầu tư… Tuy nhiên, kể từ sau khủng hoảng tài chính, Thái Lan nhận thấy rằng các nước trong ASEAN không thể có khả năng giúp Thái Lan vượt qua khủng hoảng mà chỉ có những nước lớn, những nước kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Liên minh Châu Âu, mới có thể giúp được Thái Lan. Vì thế, thời gian này Thái Lan đã phải điều chỉnh chính sách đối ngoại 6 Theo báo: Nhà quản lý ra ngày 12, 13/1/2001, tr. 1 - 2 18 cho phù hợp với tình hình thực tế và tương lai lâu dài. Chính sách đối ngoại của Thái Lan đầu thế kỷ 21 là ưu tiên thiết lập mối quan hệ khăng khít trở lại với các nước lớn Mỹ, Nhật Bản và Liên minh Châu Âu, mà đã bị Thái Lan quên lãng khoảng hơn 10 năm cuối thế kỷ 20. Trong mối quan hệ này Thái Lan đặc biệt quan tâm tới việc kêu gọi sự giúp đỡ và viện trợ từ các nước lớn trong việc giúp Thái Lan phục hồi nền kinh tế. Ngoài ra, Thái Lan cũng chú trọng tới việc hợp tác thương mại với các nước này. Thái Lan luôn tìm cách để xuất khẩu được ngày càng nhiều hàng hóa ra nước ngoài. Nếu trước khủng hoảng tài chính Châu Á, Thái Lan đặt hi vọng vào thị trường ASEAN, thì kể từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á, Thái Lan đã nhận thấy rằng không nên quá hi vọng vào thị trường ASEAN mà nên củng cố lại và mở rộng thị trường ở Mỹ, Nhật Bản và khu vực Châu Âu. Thực tế lâu nay thị trường Mỹ vốn vẫn là thị trường quan trọng và lớn số một của Thái Lan, còn thị trường Châu Âu và Nhật Bản vẫn luôn là những thị trường lớn thứ hai. Bên cạnh đó, chính sách khuyến khích đầu tư cũng được nhà nước Thái quan tâm. Chính sách của Thái Lan là luôn tìm cách để không cho vốn đầu chảy ra ngoài mà phải thu hút được vốn đầu tư vào trong nước. Thái Lan không ngừng tạo dựng một môi trường đầu tư thông thoáng, khuyến khích đầu tư, tạo dựng niềm tin đối với các nhà đầu tư đặc biệt là thu hút các nhà 7 đầu tư lớn như Mỹ và Nhật Bản. Như vậy, với bối cảnh quốc tế, khu vực cũng như điều kiện của từng nước Nhật Bản và Thái Lan, có thể thấy rằng việc tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai nước này là hoàn toàn tất yếu. Nó xuất phát từ những ảnh hưởng của xu thế quốc tế và khu vực cũng như nhu cầu thực tế của mỗi quốc gia. 1.2. Tiến trình phát triển quan hệ kinh tế Thái Lan – Nhật Bản 7 [24, tr.43] 19 1.2.1. Quan hệ Thái Lan - Nhật Bản giai đoạn trước khủng hoảng tài chính Châu Á Quan hệ Thái Lan – Nhật Bản được hình thành và phát triển từ lâu. Ngay từ thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản đã đưa các sản phẩm công nghiệp đến bán tại Thái Lan và khi đó các sản phẩm này của Nhật Bản đã cạnh tranh được với các hàng hóa của Anh tại đây. Nhật Bản đã gặt hái được nhiều thành công và thu được nhiều lợi ích trong việc kinh doanh tại Thái Lan thời kỳ này. Tiếp sau đó, trong chiến tranh thế giới thứ hai, mối quan hệ giữa Thái Lan và Nhật Bản ngày càng trở nên gắn bó hơn, nhất là trong mối quan hệ đồng minh chiến tranh. Thái Lan trở thành nơi cung cấp nguyên liệu, tài nguyên cho Nhật Bản, thậm chí còn cho phép Nhật Bản sử dụng lãnh thổ của mình cho những mục đích quân sự. Nhưng cuối cùng, tất cả những mối quan hệ giữa Thái Lan và Nhật Bản được gây dựng qua hai cuộc chiến tranh đều không mang lại kết quả gì tốt đẹp cho xã hội Thái Lan, người dân Thái Lan vẫn luôn phải đối mặt với lạm phát và sự thiếu thốn các nhu yếu phẩm. Tiếp theo đó, trong giai đoạn chiến tranh lạnh, quan hệ chính trị, quân sự giữa hai nước giảm xuống đáng kể nhưng quan hệ kinh tế vẫn được duy trì và củng cố. Cuối thời kỳ chiến tranh lạnh, nhất là những năm 80, hàng hóa từ Nhật Bản nhập khẩu vào Thái Lan với số lượng lớn, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Đầu năm 1980, hàng hoá nhập khẩu vào Thái Lan tăng so với những năm 70 là 33,7% trong đó hàng tiêu dùng nhập khẩu tăng tới 41,3%. Tuy nhiên từ khoảng những năm 1983 đến 1986, hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản vào Thái Lan đã có chiều hướng dịch chuyển, số lượng hàng tiêu dùng giảm xuống chút ít và thay vào đó là số lượng hàng công nghiệp. Đến năm 1986, nhập khẩu từ Nhật Bản vào Thái Lan giảm đi 5%, do số lượng các công ty Nhật Bản đầu tư vào Thái Lan đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên tới năm 1987 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan