Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở tỉnh thanh hóa từ năm 1...

Tài liệu Quá trình thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở tỉnh thanh hóa từ năm 1958 đến năm 1960

.PDF
100
543
126

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ______________________________ NGUYỄN THỊ LÊ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THANH HÓA TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1960 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội, 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ______________________________ NGUYỄN THỊ LÊ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THANH HÓA TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1960 Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Quỳnh Nga Hà Nội, 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Quỳnh Nga. Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, Tháng 1 năm 2015 Học viên Nguyễn Thị Lê i LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô trong Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, gia đình, bạn bè – những người luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, phòng lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy Thanh Hóa, phòng lưu trữ Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Thư viện Quốc gia Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được khai thác và sử dụng nguồn tư liệu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Lê Thị Quỳnh Nga, người đã nhiệt tình định hướng, hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Hà Nội, Tháng 1 năm 2015 Học viên Nguyễn Thị Lê ii MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỦ TRƯƠNG HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG ......................................... 6 1.1. Chính sách khôi phục kinh tế nông nghiệp, hoàn thành cải cách ruộng đất và từng bước xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp. ........................... 6 1.2. Chủ trương của Đảng về hợp tác hóa, xây dựng chế độ sở hữu tập thể trong những năm 1958-1960 ...................................................................... 12 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 21 Chương 2: THANH HÓA THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP TRONG NHỮNG NĂM 1958-1960 ....................................... 22 2.1. Thanh Hóa thực hiện chính sách nông nghiệp và bước đầu xây dựng HTX trước năm 1958.............................................................................. 22 2.1.1. Thực hiện chính sách nông nghiệp trong kháng chiến chống Pháp ........ 22 2.1.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo khôi phục kinh tế nông nghiệp, từng bước tiến tới đổi công, vần công, hợp tác xã nông nghiệp (19541957) .............................................................................................................. 31 2.2. Thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở Thanh Hóa trong những năm 1958-1960 ...................................................................................... 36 2.2.1. Chủ trương phát triển tổ đổi công tiến lên xây dựng các HTX từ bậc thấp đến bậc cao.............................................................................................. 36 2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ................................................................... 49 Chương 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ................... 61 3.1. Một số nhận xét chung .............................................................................. 61 3.1.1. Từ tư duy từng bước đến tiến nhanh sang con đường hợp tác hóa trong nông nghiệp ........................................................................................... 61 3.1.2. Thanh Hóa đã tập trung phát triển nhanh hợp tác hóa trong nông nghiệp ..... 64 3.2. Một số kinh nghiệm lịch sử ....................................................................... 67 3.2.1. Xây dựng HTX phải tôn trọng quy luật hình thành của xã hội mới ........ 67 3.2.2. Cần phát huy tính tích cực của mô hình HTX trong những điều kiện lịch sử cụ thể ................................................................................................... 69 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 75 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 83 iii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCH : Ban chấp hành CNXH : Chủ nghĩa xã hội CTQG : Chính trị quốc gia Hn : Hà Nội HTX : Hợp tác xã HSLT : Hồ sơ lưu trữ Nxb : Nhà xuất bản TCN : Thủ công nghiệp UBHC : Ủy ban hành chính UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa iv LỜI MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng CNXH ở miền Bắc từng bước đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể thông qua việc phát triển các mô hình HTX, trong những năm 1958-1960, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã lãnh đạo nhân dân thực hiện quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở địa phương, xây dựng các mô hình HTX từng bước đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể. Cuộc vận động phát triển mô hình hợp tác hóa đã được triển khai rộng khắp trong toàn tỉnh và được nhân dân tham gia đã tạo nên một diện mạo mới về quan hệ sản suất, chuyển từ mô hình làm ăn cá thể sang mô hình hợp tác hóa làm ăn tập thể. Bên cạnh những thành tích đạt được phong trào hợp tác hóa cũng đã nổi lên một số những nhân tố bất cập. Nghiên cứu chủ trương phát triển nông nghiệp nói chung và thực hiện hợp tác hóa nói riêng giai đoạn 1958-1960 không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn có giá trị thực tiễn to lớn. Nhìn lại quá trình thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng ở tỉnh Thanh Hóa không chỉ cho chúng ta tái hiện lại kinh tế nông nghiệp mà còn thấy được đường lối, chính sách của Trung ương Đảng và Đảng bộ, chính quyền Thanh Hóa trong quá trình lãnh đạo công cuộc khôi phục kinh tế sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc và tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Những tổng kết và đánh giá sẽ góp phần vào việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Với những lý do đó, tôi chọn đề tài Quá trình thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1958 đến năm 1960 làm đề tài cho luận văn của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu về phong trào hợp tác hóa ở miền Bắc nước ta trong những năm kháng chiến chống Mỹ có các công trình nghiên cứu như: Chử Văn Lâm – Nguyễn Thái Huyền (1992), Hợp tác hóa nông nghiệp Việt Nam – lịch sử - vấn đề - triển vọng, Nxb Sự thật, Hà Nội đã nêu lên những chủ trương, chính sách của Đảng nhằm phát triển phong trào hợp tác hóa, tập thể hóa 1 nông nghiệp ở miền Bắc, quá trình tiến hành tập thể hóa nông nghiệp ở miền Bắc, những hạn chế và bất ổn của mô hình tập thể hóa nông nghiệp ở các địa phương trên cơ sở đó chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế của phong trào hợp tác hóa. Ngoài ra công trình còn cho thấy những ý kiến khác nhau trong Đảng về vấn đề hợp tác hóa. Tác phẩm Nông nghiệp Việt Nam (1945 – 1995) do Nxb Thống kê xuất bản năm 1995 của tác giả Nguyễn Sinh Cúc đã nghiên cứu về nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam trong suốt 50 năm, trong đó có thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc (1958 – 1975). Tác gỉả đã nêu lên được những chủ trương của Đảng về phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp và những nguyên nhân khiến cho phong trào hợp tác bị suy yếu và tan vỡ. Tác giả Hồ Văn Vĩnh – Nguyễn Quốc Thái (2005), Mô hình phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, đã bàn về mô hình phát triển HTX nông nghiệp ở nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, trong đó nêu lên những chủ trương của Đảng về xây dựng HTX nông nghiệp, quá trình thành lập các HTX nông nghiệp ở miền Bắc và những yếu kém của phong trào HTX. Tác giả Đinh Thu Cúc, Quá trình từng bước củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc nước ta, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 175 và Bước đầu tìm hiểu về quá trình hình thành tư tưởng làm chủ tập thể của người nông dân Việt Nam đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 167 (1976) đã bàn về quyền sở hữu tư liệu sản xuất trong HTX bậc thấp, HTX bậc cao, những thay đổi trong quan hệ sản xuất, ý thức lao động trong xây dựng HTX, cách tổ chức và quản lý HTX; công tác phân phối và dân chủ trong HTX, những mặt hạn chế yếu kém trong tư tưởng của nông dân về tập thể và con đường hợp tác hóa. Trần Đức Cường (1979), Quá trình chuyển HTX sản xuất nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao ở miền Bắc Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 187 đã bàn về quá trình cải tạo nông nghiệp theo hình thức HTX bậc thấp, quá trình chuyển HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao, những bất cập trong quá trình thực hiện. Nguyễn Đình Lê (1999), Biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc thời kỳ 1954 – 1975, Nxb VHTT đã nghiên cứu quá trình biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội 2 miền Bắc. Qua đó phản ánh về quá trình xây dựng và phát triển phong trào HTX, tập thể hóa ở miền Bắc. Nhìn chung, các công trình này đã nêu lên chủ trương của Đảng trong phát triển HTX ở miền Bắc, quá trình xây dựng các HTX ở miền Bắc, những hạn chế và yếu kém trong phong trào HTX thời kỳ này. Bên cạnh những công trình nghiên cứu chung về phong trào HTX, ở Việt Nam còn có các công trình nghiên cứu về phong trào HTX tại các địa phương như: Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo, tổ chức hợp tác hóa nông nghiệp (1954-1975), tác giả Lại Phương Thảo, Luận văn thạc sỹ, 1996; Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo xây dựng và phát triển HTX (1958-1975), Tác gải Phạm Thị Kim Lan, Luận văn Thạc sỹ, 2006; Sự chỉ đạo đổi mới quản lý HTX nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú từ năm 1968 đến năm 1986, Tác giả Nguyễn Quỳnh Phương, Luận văn Thạc sỹ, 2012; Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo phát triển sản xuất nông nghiệp (1954-1960), Tác giả Nguyễn Thị Thùy Dung, Luận văn Thạc sỹ, 2012. Các công trình đã đề cập vấn đề tập thể hóa ở miền Bắc, về phát triển các loại hình HTX trong phong trào tập thể hóa ở miền Bắc. Nghiên cứu về nông nghiệp Thanh Hóa có các công trình: tác giả Nguyễn Văn Tri, Quá trình đổi mới nông nghiệp và nông thôn Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, 1993; BCH hội nông dân tỉnh Thanh Hóa, Lịch sử phong trào nông dân và Hội nông dân Thanh Hóa 1930-1992, Nxb CTQG, 1993; Tỉnh ủy Thanh Hóa, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, tập 1 (1930-1954), tập 2, 1999-2000… Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công trình nào mô tả cụ thể về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa trong việc xây dựng và phát triển phong trào hợp tác hóa. Những kết quả của những công trình nghiên cứu trên đây đã cung cấp cho tôi những kiến thức về phong trào hợp tác hóa, tập thể hóa nông thôn miền Bắc trong những năm chống Mỹ. Đó là những cơ sở quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài: “Quá thực hiện trình chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1958 đến năm 1960” nhằm tìm hiểu một cách hệ thống về 3 sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hóa trong khôi phục và phát triển kinh tế nông nghiệp, từng bước tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp. Từ đó đánh giá những thành tựu và hạn chế của Đảng bộ Thanh Hóa trong quá trình lãnh đạo, phát triển nông nghiệp và góp phần làm rõ thêm quá trình thực thi đường lối chính sách về nông nghiệp, nông thôn của Đảng trong lịch sử. *Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài: “Quá trình thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1958 đến năm 1960” hướng đến giải quyết những nhiệm vụ: - Thu thập tài liệu, thống kê, phân tích và phê phán - Trình bày bối cảnh lịch sử đất nước và Thanh Hóa trước năm 1958 - Hệ thống hóa đường lối, chủ trương, chính sách tập thể hóa của Trung ương Đảng - Trình bày hiện thực hóa đường lối của Trung ương tại địa phương Thanh Hóa giai đoạn 1958 – 1960 để rút ra nhận xét và kinh nghiệm lịch sử. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: - Chủ trương của Trung ương Đảng và quá trình thực thi hợp tác hóa nông nghiệp tại tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 1958 – 1960. * Phạm vi nghiên cứu: - Chủ trương của Trung ương Đảng về tập thể hóa, hợp tác hóa. - Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa trong việc xây dựng các HTX trong những năm 1958 - 1960. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử như phương pháp lô gic, phương pháp phân tích tổng hợp và phương pháp thống kê. Nguồn tài liệu sử dụng khi làm luận văn bao gồm: - Nhóm tài liệu lưu trữ của Văn phòng Trung ương Đảng, Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Văn phòng tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa, Chi cục lưu trữ Thanh Hóa. - Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam bàn về vấn đề tập thể hóa, HTX. 4 - Các sách chuyên khảo, các bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử bàn về HTX ở Việt Nam - Các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ có liên quan đến vấn đề HTX. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa những chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về hợp tác hóa và phát triển phong trào hợp tác hóa trong những năm 1958-1960. - Trên cơ sở các nguồn tư liệu lịch sử, đặc biệt là nguồn tư liệu lưu trữ, luận văn góp phần trình bày rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, có hiệu quả của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về việc thực hiện nhiệm vụ hợp tác hóa nông nghiệp thời kỳ 1958 – 1960. Qua đó làm rõ được bản lĩnh chính trị, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và những hạn chế, khiếm khuyết của BCH Đảng bộ Thanh Hóa trong quá trình chỉ đạo cách mạng tại thời điểm đặc biệt quan trọng với nhiều nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn, phức tạp, lần đầu xuất hiện trong sự nghiệp cách mạng. - Tài liệu tham khảo về phong trào hợp tác hóa ở tỉnh Thanh Hóa 7. Bố cục của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Quá trình hình thành chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp của Trung ương Đảng Chương 2: Thanh Hóa thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp trong những năm 1958-1960 Chương 3: Nhận xét chung và kinh nghiệm lịch sử 5 Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỦ TRƯƠNG HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG 1.1. Chính sách khôi phục kinh tế nông nghiệp, hoàn thành cải cách ruộng đất và từng bước xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp. Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, lần đầu tiên năm 1950, khi chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II của Đảng, đường lối chuẩn bị tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam được đặt ra một cách sâu sắc. Trong báo cáo “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH của Tổng Bí thư Trường Chinh đã khẳng định con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam là CNXH, quyết không thể có con đường nào khác. Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hôi, nước Việt Nam phải trải qua ba giai đoạn: a) Giai đoạn tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố nhà nước dân chủ nhân dân. b) Giai đoạn xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, triệt để thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. c) Giai đoạn làm xong nhiệm vụ dân chủ nhân dân, gây đầy đủ điều kiện để tiến lên CNXH [43, tr.88] Giai đoạn thứ ba là một giai đoạn rất quan trọng, nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn này là đẩy mạnh kỹ nghệ hóa, phát triển kỹ nghệ nặng, phát triển thật rộng bộ phận kinh tế nhà nước, tập thể hóa nông nghiệp dần dần, thực hiện những kế hoạch dài hạn để gây thêm và củng cố cơ sở cho CNXH. Những bước cụ thể của giai đoạn này phải tùy theo điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngoài nước khi đó mà quyết định. Song một điều chắc chắn là chừng nào ta chưa chuẩn bị cơ sở kinh tế đầy đủ và chưa làm cho số đông quần chúng nhân dân nhận ra CNXH là cần thiết thì chủ nghĩa đó chưa thể thực hiện được [43, tr. 92]. Có thể thấy, đến Đại hội Đảng lần thứ II, mô hình đi lên CNXH ở nước ta mới được Trung ương Đảng bàn tới. Để đi lên CNXH, cách mạng Việt Nam phải đi qua ba giai đoạn và mỗi giai đoạn cách mạng có một nhiệm vụ trong tâm riêng. Giai 6 đoạn đầu nhiệm vụ trọng tâm là giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là thực hiện nhiệm vụ cách mạng ruộng đất, giai đoạn ba là phát triển kinh tế nhà nước và tập thể hóa nông nghiệp, gây dựng mọi điều kiện đưa nước ta lên CNXH. Trung ương Đảng cũng nhận định việc thực hiện tập thể hóa phải được tiến hành dần dần và từng bước. Trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vẫn là kinh tế dân chủ nhân dân với nhiều thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế HTX, kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân và bộ phận tư bản nhà nước. Đảng không chủ trương đánh đổ kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế cá thể. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kinh tế tư nhân còn tồn tại và phát triển trong một thời gian dài. Do đó cần có chính sách đúng mực với bộ phận sản xuất nhỏ và kinh tế tư bản tư nhân. Đối với kinh tế của nông dân lao động và của tiểu thương, tiểu chủ, phải đặc biệt giúp đỡ và hướng dẫn vào con đường HTX. Đối với tư bản dân tộc, cũng phải giúp đỡ, khuyến khích họ bỏ vốn kinh doanh các ngành nghề có ích cho nền kinh tế quốc dân” [43, tr.108]. Sau năm 1954, khi hòa bình lập lại, miền Bắc bắt tay vào khôi phục kinh tế trong điều kiện hết sức khó khăn, gay gắt của một xã hội vốn là thuộc địa vừa trải qua chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong bối cảnh đó, tháng 9/1954 Bộ Chính trị đã ra nghị quyết “Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”, lần đầu tiên bàn cụ thể về phục hồi nền kinh tế quốc dân và chính sách kinh tế miền Bắc sau hòa bình lập lại. Nghị quyết đã khẳng định miền Bắc phải có thời gian nhất định để phục hồi nền kinh tế, phục hồi nền kinh tế quốc dân lên trên mức trước chiến tranh, làm cơ sở để tiếp tục nâng cao và phát triển sản xuất. Nghị quyết xác định phục hồi nên kinh tế quốc dân, trước hết cần nắm vững việc phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, đó là “cơ sở của việc cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo lương thực cho nhân dân, phồn thịnh kinh tế, mở rộng việc giao lưu hàng hóa”. Đồng thời cũng cần tiếp tục mở rộng, đẩy mạnh cải cách ruộng đất để tạo điều kiện cơ bản cho phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp. Để củng cố miền Bắc về mọi mặt, Trung ương Đảng chủ trương hoàn thành cải cách ruộng đất ở toàn miền Bắc, đồng thời tiến hành khôi phục kinh tế, nâng cao sản xuất để hàn gắn vết thương chiến tranh. Tăng cường từng bước bộ phận kinh tế quốc doanh trước tiên là mậu dịch quốc doanh và bắt đầu xây dựng bộ phận kinh tế 7 HTX, trước hết là HTX cung tiêu ở nông thôn và HTX tiêu thụ ở thành thị. Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thời kỳ cách mạng, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành triệt để những nhiệm vụ của cách mạng dân chủ nhân dân, đồng thời tạo cơ sở ban đầu đưa miền Bắc từng bước đi vào con đường xã hội chủ nghĩa. Ngày 30/6/1955, Trung ương Đảng ra chỉ thị số 31 – CTTW Về vấn đề củng cố và phát triển phong trào đổi công trong đó bàn đến con đường của cách mạng Việt Nam sau khi tiến hành xong cải cách ruộng đất: “Sau cải cách ruộng đất, sức sản xuất ở nông thôn đã được giải phóng và nông dân rất hăng hái sản xuất. Nhưng cứ để cho nông dân cứ sản xuất riêng rẽ hay khuyến khích nông dân đi vào tập thể? Nhất định ta chọn con đường tổ chức nông dân lại, con đường duy nhất hợp với quyền lợi trước mắt và quyền lợi lâu dài của nông dân, đưa họ đi đến một đời sống ấm no, hạnh phúc. Không đi theo con đường đó mà chỉ muốn làm ăn riêng lẻ thì sản suất sẽ sút kém, một số trở thành phú nông và đa số nông dân cá thể sẽ dần dần trở lại nghèo đói [44, tr. 418-419]. Trung ương Đảng cũng xác định việc đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể phải đi từng bước, có kế hoạch rõ ràng. Bước đầu của việc xây dựng nền kinh tế tập thể là vận động nông dân làm đổi công, tiến tới lập HTX, khi nào nhà nước có máy móc cung cấp cho nông thôn thì HTX càng tiến lên nữa. Nhưng từ nay đến ngày tươi đẹp đó, phải đấu tranh lâu dài và gian khổ, kiên nhẫn giáo dục nông dân đi dần vào con đường sản xuất tập thể [44, tr. 419]. Để đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể thì bước đầu là tiến hành củng cố và phát triển các tổ đổi công. Phong trào đổi công được xem là mấu chốt trong việc tổ chức và lãnh đạo sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn này [42, tr. 420]. Thời kỳ này có hai hình thức tổ đổi công là tổ đổi công từng vụ, từng việc và tổ đổi công thường xuyên, trong đó tổ đổi công thường xuyên được xây dựng ở nơi tổ đổi công từng vụ, từng việc đã được phát triển. Xây dựng tổ đổi công phải dựa trên 3 nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản trị dân chủ. Tháng 8 năm 1955, Hội nghị lần thứ 8 BCH Trung ương Đảng khóa II đã xác định rõ mục đích, yêu cầu, phương châm, điều kiện khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc. Hội nghị cũng chỉ rõ thời hạn trong vòng hai năm khôi phục 8 kinh tế, căn bản đưa nền sản xuất lên ngang bằng mức trước chiến tranh. Hội nghị cũng đã chỉ rõ khôi phục kinh tế nhằm hàn gắn những vết thương chiến tranh là phương châm chính khôi phục kinh tế nhưng đồng thời phát triển ở mức độ nhất định. Mọi công tác kinh tế phải góp phần vào việc củng cố miền Bắc, đồng thời phải chiếu cố miền Nam một cách thích đáng. Khôi phục kinh tế nhằm phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp là chính, là đầu mối cho mọi lĩnh vực khôi phục: “Trong việc khôi phục kinh tế phải đặc biệt chú trọng việc khôi phục sản xuất nông nghiệp bao gồm sản xuất lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp; phải dựa vào khôi phục sản xuất nông nghiệp để khôi phục các ngành khác, khôi phục cả nền kinh tế quốc dân” [44, tr.536]. Trên cơ sở khẳng định tính chất đặc biệt trọng yếu của sản xuất nông nghiệp “là mấu chốt của việc khôi phục nền kinh tế quốc dân, mấu chốt của toàn bộ công tác kinh tế tài chính của chúng ta. Sản xuất nông nghiệp liên quan đến đời sống của nông dân, bởi đại đa số nhân dân nước ta … [44, tr.537] Báo cáo của đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị đã xác định đường lối phát triển nông thôn sau cải cách ruộng đất của ta là hướng dẫn kinh tế nông nghiệp tiến dần từng bước lên CNXH, qua vận động HTX để chuyển dần kinh tế cá thể lên kinh tế tập thể có tính chất xã hội chủ nghĩa. Con đường của nông thôn từ sau cải cách ruộng đất đến lúc thực hiện nông nghiệp xã hội chủ nghĩa là một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp. Phải đi dần từng bước, không thể nóng vội. Với khẩu hiệu nắm vững lãnh đạo, tiến dần từng bước sau cải cách ruộng đất để xây dựng nền kinh tế tập thể cần nắm ba việc: - Vận động tổ đổi công - Vận động HTX mua bán - Vận động HTX tín dụng [44, tr.515]. Việc phát triển ba cuộc vận động đó và làm cho có kết quả tốt thì sẽ hạn chế được sự bóc lột của phú nông và kinh tế HTX sẽ thắng kinh tế phú nông. Dần dần từ chỗ thí nghiệm HTX nông nghiệp tiến đến phát triển HTX nông nghiệp. Sau này nước nhà công nghiệp hóa, nhà nước có đủ máy cày, máy bừa, máy gặt đập liên hợp, máy bơm nước, vv... cho HTX nông nghiệp thuê thì nhiều HTX nông nghiệp 9 có thể hợp nhất lại thành nông trường tập thể. Lúc dó nông nghiệp sẽ xã hội hóa [44, tr515-516]. Báo cáo cũng nêu rõ: “Sau cải cách ruộng đất phải tích cực tổ chức nông dân lại để phát triển sản xuất nông nghiệp. Phải giáo dục, giúp đỡ nông dân tự nguyện, tự giác đi vào con đường làm ăn tập thể, là con đường đem lại cho nông dân đời sống ấm no. Phải nắm vững công tác trung tâm ở nông thôn sau sau cải cách ruộng đất là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là sản xuất lương thực, đồng thời tùy khả năng mà chăm lo đẩy mạnh các ngành khác trong nông nghiệp: cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp” [44, tr.540]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa II đã xác định “đường lối củng cố miền Bắc của ta là: củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc đến CNXH” [43, tr. 577]. “Chủ trương của ta đối với nông thôn sau cải cách ruộng đất là lãnh đạo nông dân sản xuất và đấu tranh để dần dần tiến lên CNXH, ngăn ngừa nông dân đi vào con đường tư bản chủ nghĩa. Muốn đi đến mục đích đó, ta cần phải kết hợp công tác tổ chức kinh tế và công tác giáo dục chính trị, thông qua các hình thức hợp tác, tương trợ từ thấp đến cao, dần dần làm cho nông dân tự nguyện, tự giác đi vào con đường làm ăn tập thể.[44,tr.581] Trung ương Đảng chủ trương đưa nông dân dần dần từng bước đi vào con đường làm ăn tập thể: tăng cường giáo dục đảng viên và quần chúng nông dân, hướng dẫn họ đi vào con đường hợp tác, tương trợ để thực hiện sản xuất có lãnh đạo, có tổ chức, làm cho thu hoạch của nông dân thêm dồi dào, đời sống của họ thêm cải thiện, góp phần làm cho kinh tế nhà nước ngày càng phồn thịnh…. Củng cố và phát triển rộng rãi và có lãnh đạo những hình thức đổi công từng việc, từng vụ. Ở những nơi đã có cơ sở đổi công thì phổ biến hình thức đổi công thường xuyên một cách có kế hoạch. Giữ vững ba nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản trị dân chủ. Nơi nào có kinh nghiệm đổi công, có cơ sở đổi công thường xuyên và có cốt cán lãnh đạo thì làm thí nghiệm một số HTX sản xuất. Trong cuộc vận động hợp tác tương trợ, phải chống hai khuynh hướng sai lầm là hoặc cưỡng bách, mệnh lệnh, hoặc buông trôi, không lãnh đạo [44, tr.582]. 10 Ngày 27/3/1956, Ban Bí thư Trung ương đã ra chỉ thị số 15/CT-TW Về việc tổ chức HTX tín dụng ở nông thôn, với mục đích “để nông dân đoàn kết giúp đỡ nhau trong việc vay mượn nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn để sản xuất và những khó khăn về đời sống hàng ngày, đấu tranh với bọn cho vay nặng lãi, đặng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo con đường tương trợ hợp tác đề ra [45,tr.100]. HTX vay mượn tổ chức theo phương châm “Làm từng bước một cách vững chắc, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, có trọng tâm, trọng điểm, có kế hoạch lãnh đạo chặt chẽ, làm đến đâu củng cố đến đó. Trong khi lãnh đạo thực hiện “phải nắm vững đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn và quán triệt 3 nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản trị dân chủ” [45, tr. 100]. Tháng 3 năm 1957, Hội nghị Trung ương mở rộng lần thứ 12 đã đề ra nhiệm vụ chính của các ngành trong năm 1957, trong đó đặt ra những nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp trong năm 1957: đẩy mạnh sản xuất lương thực là chủ yếu, hết sức phát triển cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, phát triển các nghề phụ ở nông thôn, khôi phục ruộng hoang, hoàn thành và xây dựng thêm các công trình thủy nông, củng cố đê ở những nơi xung yếu… Ra sức khôi phục và phát triển tổ đổi công, nhất là tổ đổi công thường xuyên, củng cố và phát triển HTX mua bán, HTX vay mượn, đối với hợp tác sản xuất nông nghiệp, phải lấy củng cố làm chính, đảm bảo thu hoạch của xã viên cao hơn thu hoạch của nông dân, cá thể [46, tr.114-116]. Tháng 12 năm 1957, sau khi hoàn thành kế hoạch ba năm khôi phục kinh tế và cải cách ruộng đất, Hội nghị lần thứ 13 của BCH Trung ương Đảng họp mở rộng, xác định nhiệm vụ của các mạng Việt Nam là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH. Miền Bắc nước ta đang tiến dần lên CNXH. Quy luật kinh tế cơ bản của CNXH là không ngừng khuyến khích phát triển sản xuất, đảm bảo đời sống của người lao động ngày càng khá hơn, thực hiên nguyên tắc phân phối theo lao động Có thể nói, đến trước Hội nghị 14 (11/1958) tư duy của Đảng về con đường đi lên CNXH của nước ta là một con đường cách mạng lâu dài, phải tiến hành từng bước một. Việc xây dựng nền kinh tế tập thể phải được tiến hành dần dần từng bước không thể nóng vội. Trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, vẫn đảm 11 bảo tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản và cá thể bên cạnh kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Với tư duy đó, những năm 1955-1957 trong hoàn cảnh trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp kém, việc phát huy vai trò của hộ gia đình nông dân và hình thức hợp tác lao động giản đơn giữa các hộ nông dân là phù hợp và có hiệu quả. Trong 3 năm 1955-1957, 85% diện tích đất bỏ hoang vì chiến tranh ở miền Bắc được khôi phục, số lượng đàn trâu bò tăng lên. Một tiềm năng mới bắt đầu được khai phóng, một thế làm ăn mới được mở ra. 1.2. Chủ trương của Đảng về hợp tác hóa, xây dựng chế độ sở hữu tập thể trong những năm 1958-1960 Sau cải cách ruộng đất, hơn hai triệu hộ nông dân đã có ruộng nhưng đồng thời họ cũng trở thành hai triệu đơn vị sản xuất độc lập, nó tạo nên lối làm ăn nhỏ lẻ, manh mún. Trước tình hình đó, Đảng đã chủ trương cần phải tiến hành hợp tác hóa, nhằm cải tạo các thành phần kinh tế cá thể, đưa các thành phần cá thể vào con đường làm ăn tập thể. Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 14 (11/1958) đã chủ trương bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa trong ba năm 1958-1960 và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh. Đi đôi với cải tạo phải ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Báo cáo Về nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1958-1960) và cải tạo kinh tế quốc dân đã chỉ rõ: Để đưa cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến lên và đẩy mạnh phát triển kinh tế, trong những năm sắp đến, nhiệm vụ trọng tâm là phải ra sức cải tạo nông nghiệp, cải tạo thủ công nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo CNXH, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của sức sản xuất. Vấn đề quan trọng bậc nhất là phải ra sức tổ chức nông dân lại, dựa trên cơ sở hợp tác hóa mà đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và dựa trên cơ sở nông nghiệp được cải tạo và phát triển mà đẩy mạnh công cuộc phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân. Đó là một bước quá độ cần thiết để tiến lên xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố miền Bắc vững mạnh, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà [47, tr.459]. 12 Căn cứ tình hình của đất nước và yêu cầu chuyển tiếp từ thời kỳ phát triển kinh tế, Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu cho kế hoạch ba năm 19581960 là: 1. Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm, nhằm giải quyết vấn đề lương thực, giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng và hết sức chú trọng tăng thêm các tư liệu sản xuất. 2. Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo CNXH, chủ yếu nhất là đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh. 3. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, nhất là nhân dân lao động và tăng cường củng cố quốc phòng [47, tr. 461-462]. Hội nghị cũng đã chỉ rõ: Hợp tác hóa là yêu cầu phát triển khách quan của nông nghiệp và nông dân, là một nhiệm vụ kinh tế và chính trị căn bản của Đảng ta trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là cuộc cách mạng to lớn nhất ở nông thôn, cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất rất sâu rộng ở nước ta để làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với sức sản xuất và để thúc đẩy sức sản xuất phát triển. Trong phong trào hợp tác hóa thì hợp tác hóa nông nghiệp là then chốt để phát triển nông nghiệp, biến nông nghiệp thành chỗ dựa để phát triển kinh tế; là lực lượng chủ yếu để thúc đẩy toàn bộ phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa [47, tr. 467]. Song song với việc phát triển công nghiệp quốc doanh, phải hết sức chú trọng cải tạo thủ công nghiệp theo CNXH, đưa thợ thủ công đi vào con đường hợp tác tương trợ từ thấp đến cao, phát huy mọi khả năng tiềm tàng của thủ công nghiệp, đẩy mạnh sản xuất theo yêu cầu phát triển kinh tế có kế hoạch, biến thủ công nghiệp thành cánh tay đắc lực của công nghiệp quốc doanh [47, tr.478]. Kết hợp với việc đẩy mạnh hợp tác hóa, phải ra sức vận động nông dân cải tiến kỹ thuật, áp dụng rộng rãi toàn bộ kỹ thuật theo phương châm: đủ nước, nhiều phân, giống tốt, cày sâu, cấy dày. Trong các biện pháp kỹ thuật, nước là khâu quan trọng nhất. Có đủ nước mới đảm bảo diện tích cày cấy và tăng vụ, mới có điều kiện để tăng năng suất bằng cách cày sâu, bừa kỹ, bón nhiều phân và cấy dày. Mục tiêu 13 phấn đấu là phải đảm bảo chống hạn, tích cực mở rộng diện tích ruộng đất được tưới nước và giải quyết phần lớn nạn úng thủy. Phương hướng chủ yếu là phải dựa vào sức dân, phát triển rộng rãi các công trình thủy lợi hạng nhỏ và hạng vừa của nông dân, của các địa phương, Nhà nước làm một số công trình hạng lớn. Song song với công tác thủy lợi, cần phải phát động phong trào tìm phân, trữ phân, khai thác nguồn phân có thể sử dụng được. Việc chọn giống cũng là một khâu quan trọng trong việc trồng trọt. Phải xúc tiến việc nghiên cứu và phổ biến các giống tốt, trồng ngắn ngày, mau ăn, thích hợp với điều kiện cày cấy từng vùng. Báo cáo Về nhiệm vụ và kế hoạch ba năm (1958-1960) phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chung cho phát triển nông nghiệp toàn miền Bắc nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ những nhiệm vụ chung đó, BCH Trung ương đã có những chỉ thị, thông tri để cụ thể hóa, đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, phấn đấu hoàn thành kế hoạch ba năm (1958-1960). Tháng 7/1956, cải cách ruộng đất đã cơ bản hoàn thành, đánh dấu sự xóa bỏ chế độ chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và giải phóng sức sản xuất của giai cấp nông dân miền Bắc. Sự kiện này đã đánh dấu việc thực hiện thành công khẩu hiệu “người cày có ruộng” của Đảng, làm thỏa lòng mong ước ngàn đời của người nông dân. Tuy nhiên, người nông dân có ruộng đất trong tay, vẫn gặp phải nhiều khó khăn: trình độ kỹ thuật canh tác thấp và lạc hậu, ruộng đất manh mún, giống vốn hạn hẹp, thời tiết khắc nghiệt, họ không đủ khả năng chống đỡ. Trước tình hình đó, việc tổ chức sản xuất hợp lý và hướng dẫn kỹ thuật chu đáo, quản lý chặt chẽ thì năng suất lao động và kết quả mùa vụ có thể được nâng cao. Bên cạnh đó, yêu cầu tiến lên CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà cũng đòi hỏi nông nghiệp miền Bắc phải nhanh chóng hợp tác hóa. Thực hiện chủ trương của Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 14, ngày 8/12/1958, Ban Bí thư ra chỉ thị số 118 – CT/TW Về việc đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, đảm bảo hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ sản xuất đông – xuân đã khẳng định để tiến hành hành hợp tác hóa nông nghiệp cần đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố tổ đổi công làm cơ sở cho việc xây dựng các HTX nông nghiệp. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan