LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Học viện Khoa học xã hội, em đã được quý thầy,
cô giáo đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ, truyền đạt kiến thức và giảng dạy cho em
những kiến thức vô c ng quý báu trong quá trình học tập.
Thời gian học tập quá ng n ngủi nhưng những kiến thức mà quý Thầy, Cô đã
truyền đạt tiếp thu được sẽ giúp ích rất nhiều cho em trong công tác quản lý nhà nước
đối với các hoạt động tôn giáo ngày càng được tăng cường, từng bước đi vào chiều
sâu, không ngừng đổi mới và có hiệu quả hơn và sẽ là hành trang quý báu trong suốt
quá trình công tác của em sau này. Đó là lí do để em chọn đề tài "Quá trình hình thành
và phát triển Tổ đình Hội Khánh ở Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương" làm luận văn tốt
nghiệp cho chuyên ngành của mình.
Em xin tri ân các Thầy, cô giáo của Học viên Khoa học xã hội đã truyền đạt
cho em những kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình học tập.
Em chân thành cám ơn cô hướng dẫn Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quỳnh. Cô đã tận
tình truyền đạt cho em những kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn giúp em hoàn thành
tốt luận văn này.
Tôi xin gửi lời cám ơn đến tất cả những anh, chị, em đồng nghiệp trong cơ
quan đã hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận
văn tốt nghiệp.
Trong quá trình làm luận văn không tránh khỏi thiếu sót, em kính mong được
sự giúp đỡ và góp ý của quý Thầy, Cô. Xin chân thành cảm ơn tất cả quý Thầy, Cô
đã tận tình giảng dạy đã giúp em hoàn thành luận văn của mình.
Xin cám ơn!
Bình Dương, ngày 19 tháng 4 năm 2018
Học viên
Nguyễn Thị Nghĩa Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: TỔNG QUAN
1.1. Bối cảnh lịch sử
1
7
7
1.2. Sự phát triển của Phật giáo Đàng trong16
1.3. Một số nội dung của Phật giáo có ảnh hưởng đến đối
sống của người Việt
33
1.4. Tiểu kết chương 1
34
Chƣơng 2: TỔ ĐÌNH HỘI KHÁNH QUA CÁC GIAI ĐOẠNPHÁT TRIỂN 40
2.1. Các vị thiền sư có công đối với sự phát triển của Tổ đình 40
Hội Khánh (từ năm 1741 đến thế kỷ 20)
2.2. Bình đồ kiến trúc và bài trí của ch a Hội Khánh
47
2.3. Giai đoạn tr ng tu
50
2.4. Xây dựng cơ sở giáo dục và tổ chức sinh hoạt đạo của Tổ 55
đình Hội Khánh qua các giai đoạn
2.5. Tiểu kết chương 2
64
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH, ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ VỀ 66
VIỆCBẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA TỔ
ĐÌNH HỘI KHÁNH
3.1. Một số nhận định
66
3.2. Đề xuất và kiến nghị đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị 73
của Tổ đình Hội Khánh
3.3. Tiểu kết chương 3
76
KẾT LUẬN
77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người ngày càng có nhiều nhu cầu
cần được đáp ứng, trong đó, nhu cầu về tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu tinh
thần của các tầng lớp nhân dân.
Bản thân tôn giáo chứa đựng nội dung phong phú về lịch sử, tư tưởng, triết
học, đạo đức, văn hóa, chính trị. Tôn giáo có thể coi là một bộ phận cấu thành của
các lĩnh vực trên. Khi phát triển và du nhập ở mỗi quốc gia, nó đã tạo ra sự phát
triển và trong một nước và giữa các nước với nhau, góp phần làm phong phú nền
tư tưởng, triết học, đạo đức, văn hóa. Trong quá trình truyền giáo, các tôn giáo
cũng góp phần giới thiệu được đất nước, con người và các nền văn hóa ra thế giới
bên ngoài.
Tôn giáo còn là một hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng
ngàn năm nay và sẽ tồn tại lâu dài c ng loài người. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu s c đến đời sống chính trị, văn hóa xã hội, tâm
lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của dân tộc. Chẳng hạn Việt Nam khi du
nhập các tôn giáo như Nho giáo, Đạo giáo thì mang theo những giá trị văn hóa của
Trung Hoa vào nước ta. Còn khi đạo Công giáo vào từ châu Âu, cũng mang theo
cả những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, văn minh của phương Tây lúc đó đến Việt
Nam.
Thực tế trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng và nhà
nước ta luôn lấy tinh thần tự do tôn giáo làm kim chỉ nam để đưa ra các chính sách
tôn giáo ph hợp: “Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được cụ thể hóa bằng các vấn đề cụ thể như
các tôn giáo ở Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ của Hiến pháp và
Pháp luật Nhà nước Việt Nam” (Nghị quyết Đại hội XI của Đảng). Hiện nay ở
nước ta, tôn giáo là vấn đề lớn liên quan đến chính sách đối nội, đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, thu hút sự quan tâm của nhiều ngành nhiều cấp. Các tôn giáo ở
Việt Nam được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện hoạt động theo Hiến pháp và
Pháp luật, khuyến khích các tôn giáo tham gia các hoạt động giáo dục, từ thiện,
nhân đạo theo sự hướng dẫn của các cấp quản lý.
1
Ngày nay ở Việt Nam, các cơ sở tôn giáo ch a, miếu, nhà thờ mà trong số
đó có hàng ngàn cơ sở đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia- đó là
những giá trị văn hóa vật thể, còn những giá trị văn hóa phi vật thể như các lễ hội,
nghi lễ, thánh ca, kịch, tuồng chứa đựng nội dung tôn giáo cũng mang những giá
trị không hề nhỏ.
Ch a Hội Khánh (phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một) - một kiến
trúc Phật giáo, kết cấu gỗ lớn nhất tỉnh Bình Dương, được khởi dựng vào năm
1741. Năm 1861, ch a đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Năm 1868, ch a được xây dựng
lại với quy mô hiện nay, với tổng diện tích khoảng 1.211m2, là di tích lịch sử - văn
hóa quốc gia, g n liền với quá trình khai phá khu vực Bình Dương của người Việt
trong lịch sử. Đặc biệt, ch a còn là nơi hoạt động của Hội Danh dự trong khoảng
những năm 1923- 1926, mà cụ Nguyễn Sinh S c - thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một thành viên sáng lập.
Nét nỗi bật của ngôi cổ tự này là giá trị phong phú về mặt lịch sử, văn hoá,
nghệ thuật kiến trúc, đặc biệt phần lớn những di tích, cổ vật hàng mấy trăm năm
được bảo tồn lưu giữ cho đến nay. Hội Khánh còn được xem là ngôi ch a tiêu biểu
trong số các ngôi ch a cổ ở Bình Dương.
2. Tổng quan tài liệu và tình hình nghiên cứu
2.1. Tổng quan tài liệu
Đã có một số bộ sách và chuyên khảo về v ng đất và con người, v ng đất
mới Nam Bộ nói chung và về ch a Hội Khánh nói riêng như bộ sách:
- Gia định thành thông chí của Trịnh Hòa Đức.
- Đại Nam Nhất thống chí của Quốc sử Triều Nguyễn, được viết vào những năm
đầu Thế kỷ XIX có đề cập đến nhiều ngôi ch a xưa của Bình Dương
- Đầu Thế kỷ XX , chuyên khảo Monographie de la province de Gia Định.
Impr. L. Me1nard 1902 ra đời, là cứ liệu lịch sử quan trọng cho thấy vị trí quan
trọng của Bình Dương trong mối quan hệ với Gia Định xưa, thành phố Hồ Chí
Minh ngày nay. Tập ảnh La Cochinchine. Album ge1ne1ral illustre1 de 456
gravures sur cuivre. Edition photo Nadal. 1925. Saigon, trong đó có ch m ảnh về
Thủ Dầu Một, cung cấp tư liệu quý giá về Phật giáo Bình Dương đầu thế kỷ XX.
2.2. Tình hình nghiên cứu
2
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, lần lượt ra đời nhiều công trình đề cập
đến v ng đất, con người Bình Dương như:
- Miền Đông Nam bộ, lịch sử và Phát triển, nhiều tác giả.
- Sông Bé, di tích lịch sử danh lam thắng cảnh. Sở Văn hóa - Thông tin Bảo tàng tỉnh Sông Bé xuất bản.
- Thủ Dầu Một - Bình Dương đất lành chim đậu nhà xuất bản Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh.
- Sơ khảo Phật giáo tỉnh Bình Dương do Thượng tọa Thích Huệ Thông
thực hiện. Nhà xuất bản Mũi Cà Mau xuất bản.
- Những ngôi chùa ở Bình Dương - quá khứ và hiện tại. Đây là một công
trình chuyên khảo về các di tích Phật giáo do tỉnh hội Bình Dương đã xuất bản
năm 2002, Nhà xuất bản Tôn giáo Hà Nội.
- Năm 2008, Hội khoa học Lịch sử Bình Dương đã cho ra m t công trình"Bình
Dương danh lam cổ tự" giới thiệu 24 ngôi ch a tiêu biểu trong tỉnh, do một tập thể tác
giả điều là những người con của Bình Dương thực hiện.
- Năm 2010, UBND tỉnh Bình Dương đã phát hành Địa chí Bình Dương.
Đây là một cứ liệu quan trọng, chính xác, để tham khảo về tỉnh Bình Dương với
nhiều góc độ khác nhau.
Những công trình của các tác giả nêu trên đã có nhiều đóng góp trong việc
nghiên cứu. Cho thấy vị thế của Bình Dương trong mối quan hệ với Gia Định xưa,
thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, đã cung cấp thông tin phong phú về đất và
người Bình Dương trong lịch sử các tư liệu quý giá về Phật giáo Bình Dương, giúp
các nhà nghiên cứu có thể tham khảo dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quá
trình phát triển, vai trò của Tổ đình Hội Khánh trong lịch sử Phật giáo Bình Dương
và cả nước. Bình Dương là một vùng đất rộng lớn, đang có sự phát triển mạnh mẽ
cả về kinh tế và xã hội. Song song cùng sự phát triển đó là nhu cầu sinh hoạt tôn
giáo đang ngày càng lớn mạnh trong đời sống nhân dân. Do đó, chúng tôi chọn đề
tài: "Quá trình hình thành và phát triển Tổ đình chùa Hội Khánh, thành phố Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương” để triển khai nghiên cứu tìm hiểu. Luận văn hi vọng
mang lại không chỉ cái nhìn toàn cảnh về văn hóa Phật giáo vùng đất Bình Dương,
3
mà còn mong muốn đóng góp những kiến nghị thiết thực trong việc ổn định sinh
hoạt tôn giáo cho nhân dân trong khu vực.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ khi Phật giáo có mặt tại Bình Dương, các Thiền sư c ng các di dân
người Việt theo đạo Phật đã xây dựng ch a và Phát triển Phật giáo ở nhiều lĩnh
vực như văn hóa, kiến trúc, thơ văn... và đặc biệt là đáp ứng đời sống văn hóa tâm
linh của cư dân v ng đất này thông qua việc xây ch a, độ tăng, trong đó có việc
xây dựng ch a Hội Khánh.
Luận văn "Quá trình hình thành và phát triển Tổ đình Hội Khánh ở Thủ Dầu
Một, tỉnh Bình Dương" có mong muốn đóng góp một phần vào tư liệu lịch sử về
quá trình hình thành và phát triển của Tổ đình Hội Khánh, những giá trị văn hóa,
lịch sử, tôn giáo của Tổ đình Hội Khánh đối với Phật giáo ở Đàng trong nói chung
cũng như của tỉnh Bình Dương nói riêng, nêu lên một số đề xuất và kiến nghị đối
với các nhà nghiên cứu và nhà quản lý về sinh hoạt Phật giáo nói chung cũng như
tỉnh Bình Dương nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn làm rõ những đặc điểm của văn hóa Phật giáo v ng Đông Nam Bộ
cũng như những đặc điểm, quy luật về quá trình vận hành, biến đổi của Phật giáo ở
Bình Dương.
Chỉ ra được tính đặc th của ch a Hội Khánh về phương diện lịch sử, văn
hóa, tôn giáo.
Vị trí và vai trò của Tổ đình Hội Khánh trong đời sống văn hóa, tôn giáo
của tỉnh Bình Dương.
Nếu một số kiến nghị, đề xuất đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị của
Tổ đình Hội Khánh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là Tổ đình Hội Khánh, phường Phú
Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương trên nhiều lĩnh vực, từ việc du
4
nhập và phát triển của Phật giáo tỉnh Bình Dương, sinh hoạt Phật giáo tại Tổ đình
Hội Khánh giá trị văn hóa - nghệ thuật của Tổ đình Hội Khánh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài b t đầu từ khi ch a Hội Khánh hình thành
cho đến hiện nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu sơ cấp và thứ cấp như:
phương pháp tổng hợp; thống kê; phương pháp nghiên cứu lịch sử (lịch đại và
đồng đại) những hoạt động biến đổi của ch a Hội Khánh hiện nay trên nhiều lĩnh
vực: tôn giáo, văn hóa, giáo dục, xã hội....
Để hoàn thành được mục tiêu nghiên cứu là khái quát một phần về lịch sử
Phật giáo tỉnh Bình Dương nói chung, đặc điểm Phật giáo của tổđình Hội Khánh
nói chung, góp phần tư liệu vào nghiên cứu Phật giáo khu vực Nam Bộ, luận văn
đã được tiến hành dựa trên các bước như sau:
- Về tài liệu thứ cấp: luận văn tiến hành nghiên cứu sâu về lịch sử Phật
giáoĐàng Trong dựa trên các tài liệu thứ cấp là các luận văn, luậnán, những công
trình là các tác phẩmđã xuất bản, tổng hợp các tư liệu trong và ngoài nước có liên
quan đến lịch sử Phật giáoĐàng Trong, cùng với các tài liệu liên quan đến quá
trình hình thành và phát triển của Phật giáo tỉnh Bình Dương. Thao tác này nhằm
làm rõ mối liên hệ tương quan của tổđình Hội Khánh đối với sự phát triển Phật
giáo của khu vực.
- Về tài liệu sơ cấp: các tài liệu này bao gồm ảnh, tài liệu phỏng vấn trực
tiếp,...do chính tác giả thực hiện và trình bày. Ngoài những tài liệu thứ cấp thu thập
được, tài liệu sơ cấp nàyđóng vai trò quan trọng trong việc giải đáp những thông
tin còn chưa đầyđủ trong tài liệu thứ cấp. Ngoài ra, việc thực hiện phỏng vấn trực
tiếpđược thiết kế nhằmđảm bảo tính chính xác, cập nhật đối với tình hình tôn giáo
nói chung, Phật giáo nói riêng tại khu vực tỉnh Bình Dương – đây vốn dĩ được coi
là vấn đề thời sự mang tính nhạy cảm.
5
6. Ý nghĩa luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Cung cấp cơ sở khoa học về lịch sử và hiện trạng của Tổ đình Hội Khánh,
ngôi danh lam cổ tự của tỉnh Bình Dương (lịch sử - văn hóa - kiến trúc - nghệ thuật)
cho việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Phật giáo của tỉnh.
Cung cấp cơ sở khoa học cho các nhà nghiên cứu trong việc tìm hiểu về
ngôi ch a và Phật giáo Bình Dương. Cung cấp cho các nhà quản lý có cơ sở tiễn để
áp dụng việc quản lý hoạt động tôn giáo, trong đó có Phật giáo trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu tổng quan về ch a Hội Khánh ở Bình Dương giúp phục vụ tốt
cho công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về
văn hóa Phật giáo tỉnh, nhằm tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh hoạt động xã hội, an
sinh xã hội và bảo tồn văn hóa Phật giáo tại Bình Dương nói riêng và Phật giáo nói
chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm ba phần: Mở đầu. Nội dung và Kết luận. Phần Nội dung
được chia thành 3 chương với các nội dung sau:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Ch a Hội Khánh qua các giai đoạn phát triển
Chương 3: Một số nhận định, đề xuất và kiến nghị về việc bảo tồn và phát
huy giá trị của Tổ đình Hội Khánh
Theo Từ điển Phật học Việt Nam của Thích Minh Châu và Minh Chi, thì Tổ
đình là ch a Tổ, ch a chính, nơi trụ trì hiện nay hay là xưa kia của Tổ sư. Tổ sư là
vị sư khai sơn lập ch a, thu nhận học trò, hay là vị sư lập ra một phái tu mới.
Khi Phật giáo chưa có cơ cấu tổ chức giáo hội, mọi sinh hoạt Phật giáo đều
dựa theo từng dòng phái, xuất phát từ bài kệ của các tổ sư. Vì vậy, tổ đình là nơi
xuất phát của dòng phái, các ch a thuộc tổ đình đều đến sinh hoạt chung tại tổ đình
trong những ngày giỗ kỵ, các tu sĩ quan hệ chặt chẽ với nhau theo từng dòng phái.
Hiện nay theo Thông tư 05 của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã
quy định danh xưng Tổ đình phải đạt những tiêu chí như trên.
6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Bối cảnh lịch sử
Tổ đình Hội Khánh là một ngôi ch a cổ được Thiền sư Đại Ngạn (thuộc
dòng Lâm Tế) khai sơn năm Cảnh Hưng thứ 2, đời Lê Hiển Tông, tức năm Tân
Dậu (1741) ở Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Lúc đầu ch a Hội Khánh được xây
trên một ngọn đồi cao, nhưng vào năm 1861 ch a đã bị phá hủy trong chiến tranh.
Ch a được thầy Thích Chánh Đ c cho xây lại dưới chân đồi khoảng 100 m cách vị
trí cũ. Địa chỉ của ch a hiện tại là 29 đường Ch a Hội Khánh, phường Phú
Cường, thành phố Thủ Dầu Một, 30km về phía b c Thành phố Hồ Chí Minh.
Ch a nằm cách đường cái 150m. Sau cổng Tam Quan có chạm rồng phượng,
ch a tọa trên một v ng dất yên tĩnh với nhiều cây cối, đặc biệt là có bốn cây dầu đã
được trồng cách đây hơn một thế kỷ sau khi ch a được xây lại.
D được tr ng tu và mở rộng nhiều lần nhưng ch a vẫn không mất đi vẻ cổ
kính. Nơi tụng kinh và gian phía đông của ch a được xây dựng lại vào năm 1917
và gian phía tây được xây lại vào năm 1984. Chính điện được xây lại năm 1990 và
1991. Vào ngày 29 tháng 2 năm 1992, Hội đồng Trị sự Phật giáo tỉnhSông Bé cho
tr ng tu lại những pho tượng cổ trong ch a.
Diện tích của chính diện c ng với nơi tụng kinh và hai gian phía bên đông
và tây là 700 m². Trong chính diện có tượng Phật Thích Ca, Địa Tạng và những
vị bồ tát khác, tất cả đều làm bằng gỗ mít sơn son thiếp vàng. Ngoài ra có tượng
của 18 vị La Hán xung quanh chính điện. Các tượng được những người thợ trong
v ng Thủ Dầu Một tạo tác vào thế kỷ thứ XIX.
Những khởi s c về mặt Phật học và in ấn kinh điển ở ch a Hội Khánh vào
những năm cuối Thế kỷ XIX là rất quan trọng cho việc truyền bá giáo lý Phật giáo
ở v ng Thủ Dầu Một cho đến ngày nay. Đến đầu Thế kỷ XX, sinh hoạt Phật giáo ở
Thủ Dầu Một đã đi vào nề nếp. Ch a Hội Khánh là trung tâm giảng dạy giáo lý,
cũng như điều hành Phật sự trong Toàn tỉnh.
Trong suốt 250 năm kể từ ngày thành lập ch a đã có 10 vị sư trụ trì. Chín vị
đã mất, được hỏa thiêu và tro được giữ lại tại ch a. Các vị trụ trì quá cố gồm có:
Thích Đại Ngạn, Thích Chân Kính, Thích Chánh Đ c, Thích Trí Tập, Thích Thiện
7
Quới, Thích Từ Văn, Thích Ấn Bửu - Thiện Quới, Thích Thiện Hương và Thích
Quảng Viên. Đương nhiệm trụ trì là Hòa thượng Thích Huệ Thông, hiện là Trưởng
ban Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Dương.
Đã từ lâu, Tổ đình Hội Khánh là một trung tâm tu học Phật giáo trong v ng.
Nhiều vị tăng được đào tạo từ ch a đã ra mở ch a mới và trụ trì ở đó.
Trong số các vị trụ trì, Hòa thượng Thích Từ Văn được coi là một trong những
vị danh tăng dẫn đầu trong phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam Việt Nam.
Năm 1920 Hòa thượng được mời qua Marseille, Pháp để thuyết pháp. Hòa thượng là
một người có công lớn trong việc thiết lập ch a Hội Khánh ở Marseille.
1.1.1 Bối cảnh kinh tế - văn hóa- xã hội
1.1.1.1. Vài nét chung về tỉnh Bình Dương
Ch a Hội Khánh nằm tại số 35 Đường Yersin, Phường Phú Cường, thành
phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Theo Quyết định số 81/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, Bình
Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong v ng kinh tế trọng điểm phía
Nam, nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy Trường Sơn, nối nam
Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; là tỉnh bình nguyên có địa
hình lượn sóng yếu từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển. Phía
Đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía B c giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp tỉnh Tây
Ninh và một phần thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh
và một phần tỉnh Đồng Nai. Theo Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 29/12/2013 của
Chính phủ, tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiên là 2.694,43 km2 (chiếm khoảng
0,83% diện tích cả nước, khoảng 12% diện tích miền Đông Nam Bộ); dân số
1.802.500 người(Tổng cục Thống kê – tháng 10/2014), 09 đơn vị hành chính cấp
huyện (gồm: thành phố Thủ Dầu Một, thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An, thị xã Bến
Cát, thị xã Tân Uyên và các huyện Bàu Bàng, B c Tân Uyên, Dầu Tiếng, Phú
Giáo) và 91 đơn vị hành chính cấp xã (48 xã, 41 phường, 02 thị trấn).
V ng đất Bình Dương được cho là “tương đối bằng phẳng, thấp dần từ b c
xuống nam. Nhìn tổng quát, Bình Dương có nhiều v ng địa hình khác nhau: v ng
địa hình núi thấp có lượn sóng yếu, v ng có địa hình bằng phẳng, v ng thung lũng
bãi bồi. Có một số núi thấp, như núi Châu Thới (huyện Dĩ An), núi Cậu (còn gọi
8
là núi Lấp Vò) ở huyện Dầu Tiếng… và một số đồi thấp.Đất đai Bình Dương đa
dạng và phong phú về chủng loại, bao gồm có đất xám trên ph sa cổ (có diện tích
200.000 ha, phân bố trên các huyện Dầu Tiếng, thị xã Bến Cát, thị xã Thuận An, thành
phố Thủ Dầu Một), đất nâu vàng trên ph sa cổ (có khoảng 35.206 ha nằm trên các
v ng đồi thấp thoải xuống, thuộc các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, khu vực thành phố
Thủ Dầu Một, Thuận An và một ít chạy dọc quốc lộ 13), đất ph sa Glây hay còn gọi là
đất dốc tụ (chủ yếu là đất dốc tụ trên ph sa cổ, nằm ở phía b c huyện Tân Uyên, Phú
Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, Thuận An, Dĩ An), đất thấp m n Glây (có khoảng 7.900 ha
nằm rải rác tại những v ng trũng ven sông rạch, suối). Khí hậu ở Bình Dương là khí
hậu nhiệt đới gió m a ổn định: n ng nóng và mưa nhiều, độ ẩm khá cao, trong năm
phân chia thành hai m a rõ rệt là m a khô và m a mưa. M a mưa thường b t đầu từ
tháng 5 kéo dài đến cuối tháng 10 dương lịch. Bình Dương hầu như không có bão, mà
chỉ bị ảnh hưởng bởi những cơn bão gần”1.
Thời kỳ mở đất phương Nam, Bình Dương là tên một tổng thuộc huyện Tân
Bình, phủ Gia Định. Đến năm 1808, khi huyện Tân Bình được đổi thành phủ thì
Bình Dương được nâng lên thành một trong bốn huyện của phủ này. Năm 1956,
tỉnh Bình Dương được thiết lập nhưng không phải tr ng với địa bàn của huyện
Bình Dương xưa kia. Đến năm 1997, tỉnh Bình Dương được tái lập, nhưng cũng
không phải hoàn toàn là địa phận của tỉnh Bình Dương trước năm 1975. Như vậy,
trong lịch sử, Bình Dương là tên gọi của những đơn vị hành chính theo những cấp
độ khác nhau (tổng, huyện, tỉnh) với những địa bàn, địa giới khác nhau. Vốn g n
liền với Gia Định, Đồng Nai xưa, tức là miền Đông Nam Bộ ngày nay, cư dân
Bình Dương là một bộ phận cư dân miền Đông Nam bộ, nhưng đồng thời Bình
Dương là v ng đất được bao bọc bởi sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, có những
điều kiện sinh thái đặt biệt nên cư dân Bình Dương có những đặc điểm riêng từ
lịch sử hình thành đến kỹ năng nghề nghiệp2.
1
Theo http://binhduong.gov.vn
2
Theo http://binhduong.gov.vn
9
V ng đất Bình Dương từ lâu đã được biết đến với hình ảnh nhộn nhịp của
sự giao thương và hội tụ từ nhiều v ng miền trong cả nước. Dưới thời thuộc địa
của Pháp, như cách gọi của người đương thời, đó là tỉnh lỵ của một “tỉnh miệt
vườn” thuần nông, chỉ có hai trục giao thông chính là sông Sài Gòn và Quốc lộ 13,
dân số chỉ vài vạn người, chủ yếu là nông dân.
V ng đất Bình Dương xưa và nay không chỉ dược biết đến với kinh tế phát
triển, năng động mà còn được biết đến với bề dày lịch sử, văn hóa phát triển rất
phong phú, đa dạng, có nhiều nét chung hòa quyện vào lịch sử - văn hóa phương
Nam nhưng vẫn giữ được những nét riêng rất độc đáo, tạo ấn tượng khó phai trong
lòng mỗi người dân. Tính đến nay, tỉnh Bình Dương có 11 di tích lịch sử, văn hóa
được công nhận cấp quốc gia, 39 di tích lịch sử, văn hóa được công nhận cấp tỉnh.
Trong tiến trình phát triển, v ng đất này mang đậm những nét văn hoá của v ng
đất có các làng nghề thủ công truyền thống. Bình Dương tạo dấu ấn sâu s c với các
sản phẩm thủ công được chế tác từ những làng nghề nổi tiếng đã định vị trên địa
bàn hơn 300 năm. Tiêu biểu nhất trong số đó là những nghề đã có từ rất sớm và
phát triển mạnh ở đất Thủ - Bình Dương như: Làng gốm sứ ở Lái Thiêu, Tân
Phước Khánh; làng mộc, chạm kh c gỗ ở Chánh Nghĩa, Phú Thọ. Ch a Hội Khánh
đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào năm 1993. Tháng
5/2013, tổ chức kỷ lục Châu Á đã chính thức xác lập tượng Phật Nằm tại ch a là
“Tượng Phật nhập Niết bàn trên mái ch a dài nhất Châu Á”.
1.1.1.2. Vài nét về lịch sử Phật giáo tỉnh Bình Dương
Từ sau năm 1698, với sự thiết lập cơ cấu hành chính của Lễ Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảnh (dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu), v ng đất Đàng Trongmà Đồng Nai, Gia
Định là hai khu vực lớn đã đón nhận di dân từ miền Trung vào Nam khai phá, ch a
chiền cũng theo sự có mặt của di dân mà hiện diện rộng kh p. Dinh Trấn Biên thuộc
huyện Phước Long xưa vốn bao gồm 3 trung tâm thị tứ của Bình Dương ngày nay: Tân
Uyên, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một. Dọc theo hai bờ sông Đồng Nai và lan sang các tỉnh
như Bình Dương, Tây Ninh... khu vực Đông Nam Bộ bấy giờ đã là nơi đưa Phật giáo
từ miền Trung du nhập vào Nam Bộ[47].
Phật giáo hiện nay là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trong tỉnh, được
du nhập vào Bình Dương khá sớm, cuối thế kỉ XVII. Theo lời kể lại của các vị tổ,
10
thì ngôi ch a đầu tiên, đón nhận và đặt nền móng cho Phật giáo phát triển tại Tỉnh
là ch a Núi Châu Thới. Ch a Núi Châu Thới tọa lạc tại Phường Bình An, thị xã Dĩ
An, tỉnh Bình Dương đã được xếp hạng là Di tích Danh lam - Th ng cảnh cấp
quốc gia.
Theo lời kể của Hoà thượng Huệ Thông[48], Viện chủ ch a Núi Châu Thới
kể lại rằng vào khoảng năm 1612 thiền sư Khánh Long, trên đường vân du hoằng
đạo của mình, đã dừng chân trên sườn núi, dựng lên một thảo am nhỏ, sau này là
ch a Hội Sơn (ch a Núi Châu Thới).
Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí có nói đến cảnh quan của
"Núi Chiêu Thới, cách phía Nam Trấn 11 dặm rưỡi: từng núi cao xanh, cây cối lâu
đời rậm tốt (...) ở đuôi hòn núi này về phía B c nứt ra một chi chạy đến địa phận
thôn Long Tuy, rồi nổi lên gò cao bằng thẳng, rộng rãi; ở bên núi có hang hố và
khe nước, dân núi ở quanh theo, trên có ch a Hội Sơn là chỗ thiền sư Long Khánh
sáng tạo để tu hành, ngó xuống đại giang, hành khách leo lên du ngoạn có cảm
tưởng tiêu dao ra ngoài cõi tục”.
Theo hai nguồn tư liệu trên cho thấy rằng Trịnh Hoài Đức đề cập đến tên
thiền sư Long Khánh (chứ không phải là Khánh Long) và ch a Hội Sơn mà Hòa
thượng Huệ Thông đề cập có thể là ch a Hội Sơn (thuộc xã Long Bình - huyện
Thủ Đức). Vì vậy, theo nhận định của Hòa thượng Thích Huệ Thông (Ch a Hội
Khánh) thì ch a núi Châu Thới của Bình Dương thuộc phường Bình An, thị xã Dĩ
An là ngôi ch a xưa nhất trong tỉnh, hoà thượng khai sơn là ai chưa rõ, sau đó có
thiền sư Thành Nhạc Ẩn Sơn đến đây sống tu vào cuối thế kỉ XVII. Thiền sư
Thành Nhạc thuộc thế hệ thứ 34 của dòng Lâm Tế Gia Phổ. Vì vậy, có thể thấy
trong số những dòng phái truyền thừa vào tỉnh Bình Dương khá sớm có dòng Lâm
Tế, một trong 5 dòng chủ yếu từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam. Hiện nay ch a
đã truyền thừa các thế hệ trụ trì đến đời thứ 42.
Năm 1695, tại xã Thạnh Phước huyện Tân Uyên có ngôi ch a dân lập được
xây dựng, dân gian gọi ch a Bà Khai, tên Hưng Long Tự. Pho tượng A Di Đà
được đúc vào năm 1802, trở thành pho tượng có niên đại cổ nhất trong tỉnh, dưới
thời thiền sư Quảng Cơ và Bảo Châu trụ trì[47].
11
Vào năm 1741, năm Cảnh Hưng thứ hai đời vua Lê Hiển Tôn, thiền sư Đại
Ngạn, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 37, đã đến lập am tranh tại v ng đất Thủ Dầu
Một, dựng ch a Hội Khánh.
Có thể cho rằng,ch a Núi Châu Thới, chùa Hưng Long và chùa Hội Khánh
là ba ngôi ch a đã đặt nền móng đầu tiên cho Phật giáo có điều kiện du nhập và
phát triển vào tỉnh Bình Dương.
Theo dòng phát triển ấy, nhiều ngôi ch a khác cũng lần lượt được xây dựng
như ch a Long Thọ (Thủ Dầu Một) được thành lập vào năm 1756; ch a Thiên Tôn
(Thuận An) vào năm 1773; ch a Đức Sơn vào năm 1775; ch a An Ninh vào năm
1779; ch a Tân Hưng vào năm 1847 là những ngôi ch a cổ còn tồn tại đến ngày
nay, đã ra đời trong thế kỉ XVIII và XIX.
C ng lúc với sự hình thành nhiều ngôi ch a cổ trong hai thế kỉ XVII và
XVIII tại tỉnh Tây Ninh, thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu cũng xây dựng Linh Sơn
Tiên Thạch tự trên núi Bà Đen, rồi hướng hoằng pháp cũng toả ra Bến Cát thuộc
tỉnh Bình Dương để hình thành thêm nhiều ch a khác như Long Hưng. Ch a Tân
Hưng (Dĩ An) vào năm 1847 cũng được Hoà thượng Tiên Giác Hải Tịnh xây dựng,
Hòa thượng là một trong những tăng cang có tiếng ở Nam Bộ, đã từng trụ trì nhiều
ngôi ch a kh p các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long xây dựng. Điều này cho thấy,
ngay từ khi có sự hiện diện của Phật giáo trong tỉnh Bình Dương, nơi đây đã trở
thành một trung tâm Phật giáo quan trọng, có mối quan hệ với nhiều v ng, nhiều
nơi khác và cũng đã đón nhận nhiều vị cao tăng từ các nơi đến đây hoằng pháp,
dựng ch a để góp phần đặt nền móng cho Phật giáo trong tỉnh vào những giai đoạn
sau này[47].
Cho đến giữa thế kỉ XIX, Phật giáo Bình Dương, với trung tâm là Thủ Dầu
Một, đã có những khởi s c về tổ chức và sinh hoạt Phật giáo. Khá nhiều bộ kinh
đã được in ấn và phát hành tại ch a Hội Khánh, do Hoà thượng Ấn Long chủ
trương, như kinh A Di Đà, Hồng Danh, Địa Tạng, Phổ Môn, Vu Lan, Bát
Dương... Bên cạnh việc in ấn kinh sách, việc đúc chuông, tô tượng cũng được đẩy
mạnh. Liên tiếp qua các năm, nhiều đại hồng chung ở các ch a s c tứ Thiên Tôn
(1888), ch a Phước Long (1893) ch a Phước Tường (1894), ch a Long Minh
(1895), ch a Long Thọ (1898)... đã được hoàn thành. Cũng từ Tổ đình Hội
12
Khánh, nhiều lớp giảng dạy giáo lí và khoá luật đã được khai mở trong giai đoạn
chấn hưng Phật giáo cả nước còn chưa được phổ biến rộng rãi như vào những
thập niên 20 - 30 của thế kỉ XX. Ngoài ra, Phật giáo Thủ Dầu Một trong giai đoạn
này còn trang bị cho tu sĩ kiến thức về phương minh, qua các lớp tập huấn về
kinh mạch, bốc thuốc, nghiên cứu về y học, địa lí[48].
Sự kiện Hoà thượng Từ Văn được mời sang Pháp, mang theo mô hình ch a
và tượng Việt Nam triển lãm tại Marseilles đã tạo thêm uy tín cho Phật giáo và
tăng sĩ Bình Dương. Mối quan hệ giữa Hoà thượng với các cao tăng khác ở Gia
Định như với trụ trì các ch a Giác Viên, ch a Giác Lâm, Long Thạnh, Kim Cang,
và cả các ch a ở đồng bằng sông Cửu Long cũng qua đó được củng cố, tăng
cường.
Từ những hoạt động Phật giáo nổi bật, vừa mang tính dân gian vừa được hệ
thống thành văn bản, Phật giáo Bình Dương giai đoạn này còn cho thấy mức độ
ảnh hưởng của hình thức nghi lễ Phật giáo ứng phú đạo tràng, đặc biệt là tại Thủ
Dầu Một, với hoạt động của các hoà thượng Thới Thiền, Thới Đạt... đã tạo được
ảnh hưởng kh p miền Đông và Tây Nam Bộ. Bên cạnh sự phát triển của khoa ứng
phú, còn có các ban Nhạc lễ và các kinh sư nổi tiếng như Sáu Thiệt, Bảy Ngọt,
Huệ Viên, Ba Tăng...
Qua các sinh hoạt, nghi lễ và sự phát triển của Phật giáo dân gian tại đây
cho thấy vai trò và công lao đóng góp của các thiền sư trong tỉnh chiếm một vị trí
quan trọng. Danh tiếng của các vị hoà thượng không chỉ được nh c đến trong tỉnh,
mà còn được nhiều ch a nhiều nơi khác ở Nam Bộ biết đến như các hoà thượng Từ
Chất, Từ Lương, Bửu Thạnh, Quảng Lý, Quảng Hoà, Thới Liên, Thới Thiền...
Trong hoạt động của Phật giáo Bình Dương đầu thế kỉ, không thể không
nh c đến một số điều luật của nhà cầm quyền Pháp quy định hoạt động Phật giáo
trong hạt. Bên cạnh 6 điều luật được đưa ra nhằm hạn chế về mặt đạo đức và giới
luật của chư tăng, chính quyền Pháp cũng tạo điều kiện cho các quan địa phương
cho phép tu sĩ lập gia đình. Tình hình này đưa đến hiện tượng một số ch a ở Thủ
Dầu Một có tu sĩ lập gia đình[48].
Từ những sinh hoạt mang tính dân gian, tu sĩ tham gia cúng cầu an, cầu siêu
cho người dân qua các ứng phú đạo tràng, Phật giáo từng bước tham gia dần vào
13
những tập tục có trong dân gian như tham gia các nghi thức cúng đình, miếu...
Trong công cuộc chấn hưng Phật giáo những năm đầu thế kỷ XX, Phật giáo Bình
Dương đã đóng góp nhiều nhân vật tiêu biểu như Hoà thượng trụ trì ch a Hội
Khánh và cụ Phó bảng Nguyễn Sinh S c, thân sinh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Nhiều hội kín ở Thủ Dầu Một như Thiên Địa Hội của Phan Xích Long, Nguyễn An
Ninh, Hội Ái Hữu, Vạn Cày... đã có quan hệ với các ch a ở v ng này. Tổ chức
Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội cũng đã chỉ đạo từ nước ngoài
phong trào yêu nước Bình Dương vào năm 1929 tại Đề bô xe lửa Dĩ An... Đặc biệt
Hội Danh dự yêu nước ra đời ở Thủ Dầu Một năm 1923 tại ch a Hội Khánh đã tạo
tiền đề, hạt nhân cho các phong trào yêu nước sau này ở Bình Dương[48].
Vào năm 1935, Thiền sư Minh Tịnh, có thế danh là Nguyễn Tấn Tạo, sinh
năm 1889 đã một mình đi sang Ấn Độ và Tây Tạng để học hiểu thêm đạo Phật.
Chuyến đi Tây Tạng và Ấn Độ của Thiền sư Minh Tịnh là một sự kiện quan trọng
trong lịch sử Phật giáo Thủ Dầu Một lúc bấy giờ. Sau hơn hai năm chiêm bái Phật
tích Ấn Độ và Tây Tạng, Thiền sư trở về quê hương vào tháng 6- 1937 và là một
trong những vị cao tăng đầu tiên mang Xá Lợi Phật về Việt Nam. Sau khi về nước,
các Bổn đạo đã thỉnh Thiền sư về Trụ trì ch a Tây Tạng (Trước đây năm 1928 có
tên gọi là ch a Bửu Hương), c ng với sự hiện diện của một số ch a B c tông, Nam
tông và Khất sĩ trong tỉnh, Phật giáo Bình Dương còn có điều kiện mang thêm
những yếu tố của Phật giáo Mật tông từ Tây Tạng truyền vào được thể hiện qua
kiến trúc và bài trí tượng thờ ở ch a Tây Tạng[48].
Từ sự ra đời của các hội mang tính chất yêu nước đầu thế kỉ XX, qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Phật giáo Bình Dương, trong đó có
cả tăng ni và Phật tử đã hưởng ứng, tham gia vào Hội Phật giáo Cứu Quốc (1947) ở
Thủ Dầu Một với hơn 40 ngôi ch a trong tỉnh do thiền sư Minh Tịnh làm chủ tịch.
Nhiều hoà thượng tham gia kháng chiến đã trở thành liệt sĩ như Hòa thượng Minh Trứ
(ch a Thiên Ân ở Thuận Giao); Yết ma Chơn Thiện ch a Thiên Th ng (phường
Chánh Nghĩa); Hòa thượng Thiện Tràng (ch a Long Minh); sư cô B i Thị Được; Phật
tử Nguyễn Thị Mười...
Cho đến trước ngày giải phóng đất nước, Phật giáo Bình Dương tồn tại
nhiều giáo phái thuộc 3 hệ phái B c tông, Nam Tông, Khất sĩ: Giáo hội Phật giáo
14
Cổ truyền Lục Hoà Tăng và Lục Hoà Phật tử; Thiên Thai Thiền giáo tông Liên
Hữu Hội; Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam; Thiên Thai Giáo Quán Tông; Hội
Phật học Việt Nam; Phật giáo Cổ Sơn Môn; Tịnh Độ Tông Việt Nam... Tất cả các
giáo phái này sau năm 1964 đều đứng vào tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống Nhất[48].
Trong khuôn khổ có hạn của luận văn này, người viết tập trung vào quá
trình hình thành và phát triển của Tổ đình Hội Khánh, như là một ví dụ điển hình,
một đại diện cho bối cảnh văn hóa lịch sử cũng như vai trò của Phật giáo ở các tỉnh
v ng Đông Nam Bộ.
1.2. Sự phát triển của Phật giáo Đàng Trong
1.2.1.Những cuộc di dân lớn và sự du nhập của Phật giáo ở Đàng Trong
Những cư dân Việt – Hoa trong quá trình di dân và nhập cư cũnggóp phần
làm cho Phật giáo phát triển sâu rộng trong đời sống nhân dân Đàng Trong. Đàng
Trong là miền đất hứa, là v ng “hội tụ” của lưu dân Đàng ngoài và người Hoa đến
đây lập nghiệp, sinh sống. Với chính sách khoan dung, rộng mở thu nạp hầu hết
những di dân từ kh p bốn phương về hội tụ, Chúa Nguyễn đã tạo ra sức hút mạnh
mẽ của v ng đất mới. Nhiều lưu dân đã lựa chọn Đàng Trong như là quê hương thứ
hai cho mình. Thông qua lực lượng này, Phật giáo cũng từng bước được du nhập
vào Đàng Trong qua những chuyến tàu buôn, những lần hành hương cũng như di
dân một cách tự nhiên và thân thiện.
Để xây dựng phong hóa, phát triển Phật giáo, Chúa Nguyễn đã khuyến
khích các tăng sư, hiền sĩ cũng như lưu dân đến đây không phân biệt địa vị xã hội,
nguồn gốc xuất phát,miễn là có thực tâm đóng góp xây dựng Đàng Trong giàu
mạnh. Trong đó, phải kể đến các đoàn di dân từ Trung Hoa vào những giai đoạn
khác nhau, nhất là từ sau chính sách “hải cấm” của nhà Minh không cho phép
người Hoa ở nước ngoài trở về Trung Hoa và một bộ phận người Hoa“phản Thanh
phục Minh” dưới triều Mãn Thanh không thành, họ đã đến và ở lại Đàng Trong,
được chúa Nguyễn chấp nhận cho định cư, sinh sống. Chẳng hạn, vào năm 1679,
Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tấn, Trần An Bình c ng gia đình thân
quyến và quan binh dưới chướng hơn 3.000 người với hơn 50 chiến thuyền xin
15
được vào Đàng Trong định cư lâu dài. Trước đó, năm 1645, Mạc Cửu và Trịnh Hội
đã di cư sang Đàng Trong chọn Hà Tiên làm nơi khai hoang, nương thân và cuối
cùng thần phục nhà Nguyễn.
Đặc biệt, từ năm 1685 trở đi, số lượng người Hoa đến Đàng trong ngày càng
tăng (khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn hoàn toàn chấm dứt), các cộng đồng của
người Hoa hình thành và định cư những nơi khác nhau như Minh Hương xã, Thanh
Hà phố ở Thuận Hóa, Hội An, Trấn Biên, Phiên Trấn và đất Hà Tiên. Trong quá
trình di chuyển của mình, người Hoa luôn mang trong mình tâm linh cầu mong sự
bình an. Đạo Phật cũng được họ tôn s ng và mang theo c ng những chuyến đi,
nhất là những thương nhân (Phật A Di Đà cứu vớt những người đi biển, Quan Thế
Âm giúp mưu thuận gió hòa…) để ph hộ cho công việc làm ăn buôn bán trên
sông biển được suôn sẻ, thuận lợi.
Riêng đối với người Việt, từ khi Nguyễn Hoàng đặt chân lên v ng Thuận
Hóa, đã có rất nhiều người dân B c Trung bộ theo họ Nguyễn vào Đàng Trong lập
nghiệp. Chính họ là những cư dân đầu tiên đến đây và theo đó Phật giáo cũng được
mang theo trong suốt hành trình mở cõi vào phương Nam của cha ông ta. Theo Hải
Ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, khi ông đến Đàng Trong thì đa số cư dân Việt tại
đây đều tin theo đạo Phật và thờ Phật, sức sống của Phật pháp lan tỏa “Nay xem
người bản quốc, có lòng tin rất kiên cố, ch a chiền kh p xứ, sãi vãi đầy đoàn” [42,
tr 46].
Điều đó chứng tỏ trước khi Thích Đại Sán đến đây, thì phần đông cư dân
Việt ở Đàng Trong đã theo đạo Phật và mộ Phật, ch a chiền được xây dựng rất
nhiều để tạo điều kiện cho cư dân lễ Phật. Cũng trong Hải ngoại kỷ sự thì khi
Thích Đại Sán đến Đàng Trong đã được chúa Nguyễn Phúc Chu đón tiếp vô c ng
nồng hậu “Nay mong quốc vương triệu thỉnh, lão tăng từ phương xa đến được
quốc vương cung kính thân như cốt nhục. Vả lại, thần dân trong nước, đến quy y
tam bảo thực là một quốc ưu muốn làm lành rất hiếm có” [42, tr 50].
Đoạn tư liệu này đã minh chứng một sự thật là trong thời kỳ này, cư dân nơi
đây rất s ng bái và tin theo đạo Phật, tạo điều kiện vô c ng thuận lợi cho Phật giáo
du nhập và phát triển mạnh mẽ ở Đàng Trong, từng bước có vị trí, vai trò xứng
đáng trong đời sống tâm linh xã hội.
16
1.2.1.2. Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Đàng trong
Từ thế kỷ XVII – XVIII, với chính sách hòa hiếu, thân thiện và hướng Phật,
các Chúa Nguyễn đã tạo ra động lực thu hút mạnh mẽ lượng cư dân vào Đàng
Trong sinh sống và định cư lâu dài, trong đó có một lượng lớn người Hoa. Các
Chúa Nguyễn, những người s ng đạo Phật, là những người Việt đi tiên phong
trong công cuộc mở rộng sức lan tỏa và hộ trì nhiệt tình cho Phật pháp du nhập và
phát triển vào Đàng Trong. Cũng do điều đó mà nhiều đời Chúa Nguyễn đã thọ
giới quy với đạo hiệu khác nhau như Minh vương Nguyễn Phúc Chu đạo hiệu cư sĩ
Huy Long - Thiên Túng Đạo Nhân, Chúa Nguyễn Phúc Trăn - Vân Truyền Đạo
Nhân, Nguyễn Vương Phúc Khoát - Từ tế Đạo Nhân… Cũng trong thời gian này,
người Việt bản xứ và người Hoa ngoại nhập đã có những trao đổi tiếp xúc quan
trọng về văn hóa. Chính sự tiếp xúc, tiếp biến này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự
du nhập và phát triển của Phật giáo Đàng Trong.
Phật giáo Đàng Trong trong diễn trình lịch sử đã đi qua nhiều giai đoạn hình
thành và hưng khởi khác nhau. Mỗi giai đoạn g n liền với sự hưng khởi của một
tông phái nhất định. Vào thời kỳ đầu, với công lao truyền bá của nhà sư Minh
Châu - Hương Hải, Thiền phái Trúc Lâm đã thực sự có chỗ đứng ở Đàng Trong.
Hầu hết hoàng tộc chúa Nguyễn và lực lượng quan lại đều thọ giới với Thiền sư
Hương Hải. Tuy nhiên, sự hưng thịnh của Tông phái này cũng không được kéo dài
vì sự nghi ngờ của chúa Hiền đối với Thiền sư Hương Hải có ý định móc nối với
Đàng Ngoài đã làm Chúa xa lánh và b t giam Thiền sư. Vì thế, sau khi được tha,
vào năm 1682, Minh Long - Hương Hải cùng với 50 đệ tử dùng thuyền trốn ra
Đàng Ngoài. Phái Trúc Lâm xem như chấm dứt vai trò của mình ở miền Thuận
Quảng.
Sức sống của Phật giáo Đàng Trong giai đoạn tiếp theo g n liền với hai phái
Lâm Tế và Tào Động. Một nhà sư Trung Quốc tên là Nguyên Thiều đã hoằng
dương Phật pháp tại Thuận Hóa, được chúa Nguyễn Phúc Trăn s ng kính và bảo
hộ. Trong bối cảnh Đàng Trong là v ng đất mới, số tăng sĩ vốn rất hiếm hoi vì thế
chúa Hiền phải mời Tổ sư Thọ Tông - Nguyên Thiều hoặc Nguyên Thiều - Siêu
Bạch (1648-1728) phái thiền Lâm Tế từ Quảng Đông (Trung Hoa) đến Thuận Hóa
hoằng dương Phật Pháp. Tổ sư Thọ Tông - Nguyên Thiều lập chùa Thập Tháp Di
17
Đà (Qui Nhơn) và c ng với các đệ tử, các pháp tôn mở rộng phạm vi hoằng pháp
kh p lãnh thổ Đàng Trong giúp Phật giáo phát triển mạnh, ảnh hưởng sâu rộng
trong các tầng lớp dân chúng ở mọi nơi, từ thành thị đến núi rừng. Nhưng tông
phái này cũng dần mất đi sự ủng hộ của các Chúa Nguyễn và đánh mất vai trò của
mình ở Đàng Trong.
Thiền phái Tào Động tiếp nối với tên tuổi g n liền với Thiền sư Thích Đại
Sán (hiệu Thạch Liêm). Chính chúa Nguyễn Phúc Chu đã thỉnh mời Nhà sư Thạch
Liêm và phái đoàn đồ đệ của ông vào Đàng Trong vào năm 1695 và phái Tào
Động hưng khởi từ đó. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã cố g ng hộ trì tông phái này và
cho phép Thạch Liêm mở đại giới đàn tại chùa Thiền Lâm và có đến hơn 1.400
tăng sĩ thọ giới. Sách Đại Nam Liệt truyện chép việc trùng tu chùa Thiên Mụ vào
năm 1714 có ghi: “…Thời ấy, hòa thượng ở Chiết Tây tên Đại Sán hiệu Thạch
Liêm đem thiền đạo đến yết kiến, được Chúa yêu mến, khi ông về nước được Chúa
tặng nhiều gỗ quý đem xây cất ch a (Trường Thọ), nay vẫn còn di tích…”. Chi
phái mới Liễu Quán được hình thành với những nét riêng trên cơ sở của sự du nhập
và lan tỏa song hành hai Thiền phái Tào Động và Lâm Tế ở Đàng Trong.
Phật giáo ở Đàng Trong, trong quá trình diễn tiến của nó đã có sự ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau. Dòng thiền phái Trúc Lâm của Việt Nam và phái Tào
Động, Lâm Tế đã chuyển hóa đan xen với nhau tạo ra sự phong hóa của Phật giáo
Đàng Trong, chi phái mới Liễu Quán hình thành và phát triển trên cơ sở của sự hòa
hợp các thiền phái này là một minh chứng tiêu biểu cho sự đan xen văn hóa thời kỳ
đầu.
Trong chín đời Chúa Nguyễn, xứ Đàng Trong trải qua một giai đoạn đặc
biệt, có được điều kiện thuận lợi để có thể mở rộng bờ cõi thêm về phương Nam.
Không chỉ vậy, bằng đường lối chính trị của mình, các Chúa cũng đã làm cho Phật
giáo có điều kiện phát triển ở v ng đất này.
Xưng Vương năm 1691, Nguyễn Phúc Chu rất quan tâm hỗ trợcác hoạt
động của Phật giáo. Đồng thời với việc khẳng định lấy Phật giáo B c tông làm
nòng cốt trong hệ tư tưởng và hoạt động trị nước, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã mời
một hòa thượng từ Trung Quốc sang Đại Việt để truyền bá tinh thần Phật giáo một
cách sâu rộng hơn.
18
- Xem thêm -