ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------*****---------------
NGUYỄN THỊ LAN ANH
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
VÀ GIAO LƯU CỦA GỐM SỨ HIZEN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------*****---------------
NGUYỄN THỊ LAN ANH
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
VÀ GIAO LƯU CỦA GỐM SỨ HIZEN
Chuyên ngành
Mã số
: Lịch sử thế giới cận đại và hiện đại
: 62 22 50 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Kim
2. PGS.TS. Hoàng Anh Tuấn
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những số liệu sử dụng trong Luận án là trung thực. Các kết quả rút ra
từ Luận án chưa từng được ai công bố. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
về công trình nghiên cứu này.
Tác giả
N
i
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi chân thành cảm ơn PGS.TS
Nguyễn Văn Kim, người hướng dẫn khoa học. Thày đã tận tâm giúp đỡ, chỉ
bảo và động viên tôi trong suốt thời gian làm nghiên cứu sinh.
Trong quá trình làm luận án, người viết cũng đã nhận được sự ủng hộ,
giúp đỡ nhiệt thành của các Thày, Cô, các nhà nghiên cứu, bạn đồng nghiệp,
đặc biệt là PGS.TS. Hoàng Anh Tuấn, Thày hướng dẫn 2, các Thày Cô của
Bộ môn Lịch sử thế giới, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân Văn, ĐHQGHN; Ban chủ nhiệm Khoa tiếng Nhật, Trường Đại học Hà
Nội và các bạn đồng nghiệp; Bộ môn Lịch sử, Bộ môn Khảo cổ học, Trường
Đại học Kokugakuin; Trung tâm nghiên cứu Văn hóa quốc tế, Trường Đại
học Nữ sinh Chiêu Hòa; Bảo tàng Quốc gia Tokyo; Bảo tàng Lịch sử thành
phố Arita; Trung tâm Bảo tồn Di sản thành phố Huế; Tạp chí nghiên cứu lịch
sử; Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á; Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ; Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật; Tạp chí Nghiên cứu phát triển... đã tạo điều kiện và giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian theo học.
Tác giả Luận án xin được gửi lời tri ân chân thành tới GS. NGND Vũ
Dương Ninh, PGS.TS. Hán Văn Khẩn (Trường ĐHKHXH&NV), GS. Ohashi
Koji (Bảo tàng gốm sứ Kyushu), GS.TS. Kikuchi Seichi (Trường Đại học Nữ
sinh Chiêu Hòa), GS.Yoshida Enji và TS. Ito Shinji (Trường Đại học
Kokugakuin), GS.TS. Sasaki Tatsuo (Trường Đại học Kanazawa); TS.
Nogami Takenori (Viện bảo tàng Lịch sử thành phố Arita), TS. Nagano Yuji
(Viện bảo tồn Văn hóa thành phố Hasami). Với tầm tri thức của mình, các
Thày, chuyên gia nghiên cứu gốm sứ đã chỉ dẫn cho tôi nhiều nguồn tư liệu
quý, gợi mở hướng tiếp cận mới, đặc biệt Thày, Cô còn dành thời gian để tôi
có thể bộc bạch và trao đổi những vấn đề khoa học để một số nhận định được
khách quan và toàn diện hơn.
ii
Những tư liệu mà tôi có thể tiếp cận và tra cứu không thể thiếu sự chỉ
dẫn và giúp đỡ của cán bộ Thư viện Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân Văn, Trường Đại học Kokugakuin,Viện nghiên cứu Đông Bắc Á và
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã chia sẻ thông tin, kinh nghiệm
nghiên cứu, ý tưởng khoa học, cũng như phê phán, khích lệ tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài Luận án.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới bố mẹ, anh chị, chồng và
con gái tôi, những người luôn tạo điều kiện cho tôi học tập và ở bên cạnh
động viên những lúc tôi gặp khó khăn nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan…………………………………………………………….. i
Lời cảm ơn……………………………………………………………...... ii
Mục lục…………………………………………………………………... iv
Danh mục các bảng……………………………………………………… vii
Danh mục các biểu đồ…………………………………………………… viii
Danh mục các hình vẽ…………………………………………………… ix
MỞ ĐẦU…….……………………………….………………….……… 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu …............................................................................ 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………….. 23
4. Nguồn tư liệu …………………………….…………………………… 23
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………… 24
6. Các đóng góp chính…….……………………………………………..
24
7. Cấu trúc luận án……………………………………………………….. 25
CHƯƠNG 1 GỐM SỨ HIZEN TRONG DÒNG CHẢY GỐM SỨ
NHẬT BẢN…………………….…………………….…………….…… 26
1.1. Tổng quan về gốm sứ Nhật Bản....................................................... 26
1.1.1. Thời cổ đại....................................................................................... 26
1.1.2. Thời tr
đại.................................................................................. 29
1.1.3.Thời cận thế...................................................................................... 32
1.2. Tổng quan về gốm sứ Hizen………………………………………. 34
1.2.1. Nguyên liệu………………………………….……………………. 36
1.2.2. Kỹ thuật tạo hình và quy trình sản xuất......................................... 38
1.2.3. Sự biế đổi của gốm sứ Hizen........................................................ 40
Tiểu kết………………………………………………………………….. 45
iv
CHƯƠNG 2 CÁC DÒNG GỐM SỨ HIZEN………………………… 47
2.1. Vẻ dung dị của gốm Karatsu...........................................................
50
2.2. Hasami - Dòng gốm sứ tinh tế, bình dị..........................................
54
2.3. Dòng sứ trắng mỏng Mikawachi.....................................................
63
2.4. Dòng sứ quý tộc Arita......................................................................
70
2.4.1. Koim ri…………….…….………………………………………
70
2.4.2. K kiemo …….……………….…………….…………………… 74
2.4.3. N bes im ………………………………….…………………… 78
Tiểu kết….………………………………………………………………. 83
CHƯƠNG 3 GỐM SỨ HIZEN TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI…
85
3.1. Tổng quan về tình hình xuất khẩu gốm sứ Hizen thế kỷ XVII XVIII…………………………………………………………………….
86
3.2. Nguồn xuất khẩu gốm sứ Hizen…………………………………... 91
3.3. Gốm sứ Hizen trên thị trường thế giới…………………………… 94
3.3.1. Th trường châu Á…………………………………………… 94
3.3.1.1.
-
3.3.1.2. I d
96
es
..
..
97
3.3.1.3. Siam - M l ys
.. 100
3.3.1.4.
.
102
3.3.1.5. Sr l k
.
103
3.3.1.6. Tây Á (Iran – Yeme )
.
105
3.3.2 Th trường châu Âu…….…………………….………….…… 105
3.3.3. Th trường Việt Nam…………………………………………. 109
3.3.3.1. Việt Nam - đối tác, trạm trung chuyển gốm sứ H ze
. 109
3.3.3.2. G
.. 118
lưu gốm sứ Việt Nam - Nhật Bả
3.4. Ảnh hưởng của gốm sứ Hizen đến đời sống kinh tế - xã hội......... 133
Tiểu kết…………………………………………………………….……. 139
v
KẾT LUẬN…………………………….…………………………….…. 141
Chú thích………………………………………………………………… 149
Danh mục các công trình khoa học của tác giả liên quan đến Luận án…… 152
Tài liệu tham khảo ………………………………………………………. 153
Phụ lục........................................................................................................ 161
vi
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Gốm sứ Nhật Bản do VOC xuất khẩu từ Nagasaki sang Đàng Ngoài
112
Bảng 3.2: Gốm sứ Nhật Bản xuất khẩu từ Batavia đến Việt Nam bởi VOC
113
Bảng 3.3: Đồ sứ xuất khẩu qua thuyền mành từ Đàng Trong đến Batavia
116
Bảng 3.4: Đồ sứ chuyên chở từ Đàng Ngoài tới Batavia
117
Bảng 3.5: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Đài Loan - Phúc Kiến
178
Bảng 3.6: Số lượng xuất khẩu sang Indonesia giai đoạn 1653 - 1737
178
Bảng 3.7: Số lượng xuất khẩu sang Siam giai đoạn 1666 - 1677
182
Bảng 3.8: Số lượng xuất khẩu sang Malacca
183
Bảng 3.9: Số lượng xuất khẩu sang Ấn Độ từ 1658 -1714
184
Bảng 3.10: Số lượng xuất khẩu sang Srilanca giai đoạn 1670 - 1714
187
Bảng 3.11: Số lượng xuất khẩu đến Iran - Yemen
188
Bảng 3.12: Số lượng gốm sứ xuất khẩu sang Hà Lan (1659 -1679)
189
Bảng 3.13: Đồ sứ nhập từ Nhật Bản vào Đàng Ngoài qua mậu dịch
thuyền mành
190
Bảng 3.14: Mạng lưới thương mại gốm sứ Hizen thế kỷ XVII-XVIII
191
vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Đài Loan - Phúc Kiến
97
giai đoạn 1653-1665
Biểu đồ 3.2: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Indonesia giai đoạn
98
1653 -1757
Biểu đồ 3.3: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Batavia
99
Biểu đồ 3.4: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Siam giai đoạn
101
1666-1677
Biểu đồ 3.5: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Malacca
102
Biểu đồ 3.6 : Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Bengal - Coromandel Surat giai đoạn 1658-1714
103
Biểu đồ 3.7: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Srilanka giai đoạn
1670-1714
104
Biểu đồ 3.8: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Iran - Yemen
105
Biểu đồ 3.9: Số lượng gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Hà Lan
109
Biểu đồ 3.10: Số lượng sứ Nhật Bản từ Nagasaki xuất sang Đàng Ngoài
113
Biểu đồ 3.11: Đồ sứ nhập từ Nhật Bản vào Đàng Ngoài qua mậu dịch
thuyền mành
114
viii
DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 1.1: Lò Renbo giai đoạn đầu 1650-1698
42
Hình 1.2: Lò Waritake giai đoạn 1650-1698
42
Hình 1.3: Sản phẩm giai đoạn 1670-1690, giai đoạn 1660, giai đoạn 1650
45
Hình 2.1: Đĩa trang trí cành hạt dẻ
48
Hình 2.2: Đĩa trang trí mưa rơi
48
H nh .3: Đĩa trang trí h nh mạng nhện
49
Hình 2.4: Mujikaratsu
53
Hình 2.5: Ekaratsu
53
Hình 2.6: Chosen Karatsu
53
Hình 2.7: Okugourai
53
Hình 2.8: Marada Karatsu
53
Hình 2.9: Horikaratsu
53
Hình 2.10: Horiekaratsu
53
Hình 2.11: Kobikigaratsu
53
Hình 2.12: Ekobikigaratsu
53
Hình 2.13: Sansima Karatsu
53
Hình 2.14: Bát, đĩa Kurawanka (1688-1703)
61
Hình 2.15: B nh rượu Konpura
61
Hình 2.16: Đĩa sứ men ngọc Hasami (1660-1740)
62
Hình 2.17: Cốc đế cao sứ men ngọc Hasami (1660-1740)
62
Hình 2.18: Dụng cụ trà đạo (Bát trà, b nh đựng nước, b nh hương)
67
Hình 2.19: Chạm khắc tinh xảo của sứ Mikawachi (cuối thế kỷ 17)
67
ix
Hình 2.20: Đĩa hoa đào
68
Hình 2.21: Lọ hoa
68
Hình 2.22: Bát trà
68
Hình 2.23: Sản phẩm đĩa, cốc Karakoe (thế kỷ XVII)
69
Hình 2.24: B nh rượu, lư hương, cốc (dùng trong tiệc trà)
69
Hình 2.25: Đĩa chim phượng hoàng, rồng (sứ Imari cổ - thế kỷ XVII)
73
Hình 2.26: Đĩa hoa cúc, lá xanh (sứ Imari cổ - thế kỷ XVII)
73
Hình 2.27: Đĩa hạc trắng và hoa cúc (sứ Imari sơ kỳ thế kỷ XVII)
73
Hình 2.28: Đĩa phong cảnh ( sứ Imari sơ kỳ- thế kỷ XVIII)
74
Hình 2.29: Đĩa, bát (Imari sơ kỳ - thế kỷ XVIII)
74
Hình 2.30: Bát, bình hoa Kakiemon trang trí hoa cúc (1640)
76
Hình 2.31: Đĩa Kakiemon trang trí họa tiết rồng phượng (cuối thể kỷ XVII)
76
Hình 2.32: Bát Kakiemon trang trí họa tiết hoa cúc, dương xỉ (1720-1735)
77
Hình 2.33: Bát, đĩa Kakiemon thế kỷ XVIII
78
Hình 2.34: Đĩa Iroe bánh xe nước và hoa phong lan
81
Hình 2.35: Đĩa Iroe Hạc trắng và đĩa h nh quả đào
81
Hình 3.1: Bát vẽ rồng
120
Hình 3.2: Bát vẽ chữ Hán
120
Hình 3.3: Bát vẽ phong cảnh
121
Hình 3.4: Đĩa nh vẽ khóm hoa cúc
121
Hình 3.5: Đĩa nh h nh chữ Nguyệt , trên thành có 3 con phượng cách điệu
121
Hình 3.6: Đĩa chữ Thọ và chim phượng hoàng
122
H nh 3. : Đĩa chim trĩ và hoa lá
123
Hình 3.8: B nh rượu dáng củ t i
123
x
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người phương Đông, đặc biệt là cư dân khu vực Đông Á, thường giải thích
thế giới mà mình đang sống bằng rất nhiều triết lý khác nhau, trong đó có một triết
lý quen thuộc: Thế giới và sự tồn tại của vạn vật được cấu thành bởi 5 yếu tố cơ bản
là Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất). Sự tương hợp giữa
5 yếu tố này ở những mức độ khác nhau của mỗi yếu tố riêng biệt, bản chất tương
sinh tương khắc giữa chúng đã tạo nên sự đa dạng của vạn vật trên thế giới. Về cơ
bản, mỗi sự vật, hiện tượng đều ẩn chứa bên trong cả 5 yếu tố cơ bản này và yếu tố
nào phát triển đến độ cực thịnh hoặc được các yếu tố khác hỗ trợ (tương sinh) nhiều
nhất thì biểu hiện của nó sẽ bộc lộ ra bên ngoài.
Gốm sứ là loại hình sản phẩm thông dụng trong đời sống con người, phục vụ
nhiều mục đích khác nhau từ sinh hoạt hàng ngày cho tới nhu cầu thẩm mỹ, nghi lễ,
tôn giáo v.v… Đó là những yếu tố thiết yếu với cuộc sống của các dân tộc trên thế
giới. Theo đó, gốm sứ luôn bao gồm các yếu tố, đất và nước hợp luyện nên dáng vẻ
ban đầu, gỗ và lửa tôi luyện giúp có độ rắn chắc và lớp men góp phần tạo nên sự
khác biệt của mỗi dòng sản phẩm gốm sứ hay nói cách khác lớp men chính là cái
hồn của gốm sứ. Người nghệ nhân gốm luôn mang tâm huyết, trình độ chế tác và
văn hóa dân tộc truyền vào các tác phẩm của mình để sản phẩm gốm sứ trở nên
sống động hơn. Hai yếu tố con người và thiên nhiên kết hợp với nhau để tạo nên
những dòng gốm sứ đặc sắc.
Ở giai đoạn đầu phát triển của gốm sứ, trình độ khoa học kỹ thuật của con
người lúc đó còn rất sơ giản, các phương tiện vận chuyển còn thô sơ nên việc vận
chuyển nguyên vật liệu, trong đó có đất sét - thành tố quan trọng bậc nhất trong quá
trình sản xuất gốm sứ, từ nơi này sang nơi khác thật sự là vấn đề nan giải. Chính vì
vậy, các lò, trung tâm gốm sứ thường phát triển ở những vùng có trữ lượng lớn đất
sét tốt, phù hợp cho hoạt động sản xuất loại hình sản phẩm này.
Trong các làng gốm cổ ở Nhật Bản, lãnh địa Hizen(1) nổi danh là quê hương
của gốm sứ, bởi nơi đây có những mỏ đất sét có độ dẻo cao, hạt mịn, độ co ngót
thấp và chịu lửa tốt. Những sản phẩm gốm sứ đầu tiên trên lãnh địa Hizen trông khá
thô mộc nhưng từng bước đã có bản sắc hơn qua nhiều trải nghiệm. Đặc biệt, với
những kỹ thuật tiếp nhận được từ Trung Quốc và Triều Tiên trong thế kỷ thứ XVI-
1
XVII, gốm sứ Hizen đã tự cải biến để trở thành dòng gốm sứ đỉnh cao của Nhật Bản
trong thời kỳ cận thế. Sản phẩm gốm sứ Hizen đã đạt đến kỹ thuật tinh xảo, sự
phong phú, tinh tế bởi chúng thể hiện tài hoa và khả năng thẩm mỹ cao của các
nghệ nhân, đặc biệt là những cảm xúc thăng hoa được thổi vào hồn sứ với khát vọng
vươn đến tận cùng của sự hoàn mỹ. Trong suốt hai thế kỷ XVII - XVIII, gốm sứ
Hizen Nhật Bản không chỉ được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội Nhật Bản
mà còn được xuất khẩu với số lượng lớn ra thị trường quốc tế với vai trò là mặt
hàng chính yếu, góp phần quan trọng trong quá trình chuyển biến đưa Nhật Bản
thành quốc gia thương mại ở châu Á thời cận thế.
Trong thời đại hoàng kim của hệ thống thương mại châu Á, gốm sứ Nhật
Bản nói chung, gốm sứ Hizen nói riêng đã phát triển và từng bước thâm nhập vào
thị trường thế giới. Tiếp nhận kỹ thuật từ khu vực nhưng gốm sứ Hizen đã mau
chóng tạo nên những đặc tính riêng biệt. Đây chính là chủ đề mà nhiều học giả Việt
Nam, Nhật Bản và thế giới quan tâm, khảo cứu. Để tìm hiểu về gốm sứ Hizen, làm
rõ lịch sử phát triển, phạm vi phân bố, đặc tính đa dạng và giá trị thương mại của
dòng gốm sứ này. Chúng tôi đã chọn đề tài “Quá trình hình thành, phát triển và
giao lưu của gốm sứ Hizen” bởi 5 lí do cơ bản như sau:
Thứ nhất, với những đặc trưng về loại hình, kiểu dáng, hoa văn, trong lịch sử
gốm sứ là biểu tượng văn hóa, được dùng để định danh các thời đại lịch sử. Khi nói
đến một giai đoạn lịch sử nhất định, như thời đại Jomon (10.000 năm - thế kỷ III
TCN), Yayoi (thế kỷ III TCN - III SCN)… các nhà nghiên cứu thường dựa vào đặc
tính của các sản phẩm gốm để làm tiêu chí phân chia thời kỳ lịch sử. Do vậy, gốm
sứ luôn là một phần quan trọng, thiết yếu của tiến trình lịch sử và đời sống kinh tế xã hội của các quốc gia.
Thứ hai, gốm sứ không chỉ là ngành sản xuất thủ công, có những đòi hỏi khắt
khe về kỹ thuật và nghệ thuật mà còn là một ngành kinh tế quan trọng của Nhật Bản
cũng như nhiều quốc gia phương Đông. Nghiên cứu gốm sứ, chúng ta không chỉ
hiểu thêm về lịch sử, về các hoạt động kinh tế, sự phát triển kỹ thuật mà còn hướng
đến những nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về giá trị sử dụng, yêu cầu thẩm mỹ,
phong cách nghệ thuật của mỗi thời đại.
Thứ ba, thời cận thế, gốm sứ Hizen là một hiện tượng phát triển tiêu biểu của
Nhật Bản. Các sản phẩm gốm sứ được sử dụng rộng rãi trong nước và hơn thế còn
2
tham gia vào thị trường xuất khẩu. Gốm sứ đã trở thành một ngành sản xuất, một
lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng của Nhật Bản. Việc nghiên cứu gốm sứ giúp
chúng ta hiểu thêm đời sống và hoạt động kinh tế của Nhật Bản thời bấy giờ.
Thứ tư, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu gốm sứ đã cho thấy tư duy của
người Nhật trong phát triển kinh tế, khẳng định sức mạnh và năng lực hội nhập kinh
tế cũng như phạm vi ảnh hưởng văn hóa rộng lớn của Nhật Bản với các quốc gia
khu vực và thế giới.
Thứ năm, con đường mở rộng xuất khẩu gốm sứ ra thị trường khu vực và thế
giới của Nhật Bản khá đặc biệt. Dưới tác động của chính sách tỏa quốc (Sakoku,
1635-1853), việc xuất khẩu gốm sứ của Nhật Bản chủ yếu thông qua hoạt động của
các thương nhân Trung Quốc và Hà Lan. Việc làm rõ hoạt động, vai trò của các
thương nhân này là một trong những nội dung chính của đề tài nghiên cứu.
Quá trình phân tích số liệu để lý giải những nhận định trên cũng chính là nỗ
lực tổng hợp những thông tin về gốm sứ Hizen, loại gốm sứ đã góp phần đưa Nhật
Bản thành cường quốc thương mại và đem lại những ảnh hưởng nhất định của đất
nước này ra thế giới trong thời kỳ Edo (1603-1868).
2. Lịch sử nghiên cứu
Gốm sứ là một loại hình di sản mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và Hizen
là một trong những dòng gốm sứ đã góp phần tạo nên những giá trị đó. Chính vì thế,
gốm sứ Hizen là một chủ đề hấp dẫn được nhiều nhà nghiên cứu Nhật Bản, quốc tế
quan tâm. Để thực hiện chủ đề nghiên cứu, hầu hết các tác giả đều sử dụng, khai
thác cơ sở dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau từ các tư liệu lịch sử, công trình nghiên
cứu kết hợp với các thành tựu về khảo cổ học. Nhờ đó, việc tìm hiểu và phân tích
lịch sử phát triển, đặc tính và mối quan hệ bang giao giữa Nhật Bản với các nước
trên thế giới nói chung, giao thương gốm sứ nói riêng đã dần trở nên sáng tỏ.
2.1. Tình hình nghiên cứu gốm sứ Hizen ở Việt Nam
Trong những nghiên cứu chung về lịch sử khu vực, gốm sứ đã sớm thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước, trong đó phải kể đến công
trình “Xã hội Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII và quan hệ giao lưu gốm sứ Việt Nam Nhật Bản” [21]. Qua chuyên luận này, tác giả Nguyễn Văn Kim đã cung cấp những
nhận định tổng quát về các mối giao thương gốm sứ giữa Việt Nam - Nhật Bản từ
thế kỷ XVI - XVIII. Bằng việc khảo cứu công phu các nguồn sử liệu, tác giả cho
3
rằng trong quan hệ giao thương khu vực, người Nhật đến Việt Nam và Đông Nam
Á tương đối muộn. Tuy nhiên, nếu coi các hoạt động giao thương của vương quốc
Lưu Cầu thì quan hệ này đã bắt đầu từ cuối thế kỷ XIV và được duy trì liên tục cho
đến đầu thế kỷ thứ XVI. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, Nhật Bản đã đem đến Việt Nam
tiền đồng, bạc, vũ khí.... và đặc biệt là gốm sứ Hizen. Dựa vào các kết quả khai quật
khảo cổ, tác giả đã khẳng định những hiện vật gốm sứ Hizen phát hiện được ở Hội
An và nhiều thương cảng ở miền Trung như Thanh Hà, Nước Mặn hay ở khu mộ
Đại Làng... đều có niên đại vào nửa sau thế kỷ XVII. Đồng thời trong công trình
nghiên cứu này, tác giả cũng đã làm rõ mối quan hệ bang giao giữa Nhật Bản và
Việt Nam, trong đó gốm sứ Hizen là một sản phẩm đặc biệt được đưa đến Việt Nam
vào thế kỷ XVII. Công trình cũng cung cấp số liệu cụ thể mà các hiện vật gốm sứ
được đưa đến Việt Nam trong hơn ba thập kỉ. Trong thời gian 1650 - 1679 thuyền
buôn Trung Quốc đã chở đến . 00 sản phẩm gốm sứ Hizen từ Nagasaki đến Quảng
Nam rồi từ đó tiếp tục đưa đến Batavia. Vào thế kỷ XVI-XVII, Công ty Đông Ấn
Hà Lan (VOC) cũng đã nhập một số lượng đáng kể đồ sứ Hizen tới Đàng Ngoài.
Cho đến nay, gốm sứ Hizen vẫn còn hiện diện ở nhiều vùng miền khác nhau của
Việt Nam.
Gốm sứ là thương phẩm quen thuộc trong mậu dịch khu vực và quốc tế trước
khi người châu Âu tìm ra con đường hàng hải sang phương Đông thế kỷ thứ XV.
Người Bồ Đào Nha sau khi tìm ra tuyến đường qua mũi Hảo vọng, đã thiết lập hệ
thống buôn bán nối Ấn Độ với Malacca, Trung Quốc và khu vực Viễn Đông. Từ
đây các sản phẩm của phương Đông được đưa về phương Tây một cách thường
xuyên. Trong công trình nghiên cứu “Gốm sứ Đàng Ngoài xuất khẩu ra Đông Nam
Á thế kỷ XVII” [53], tác giả Hoàng Anh Tuấn đã đưa ra những nhận định chung về
tình hình xuất khẩu gốm sứ của Việt Nam (cụ thể là Đàng Ngoài) đặt trong bối cảnh
buôn bán gốm sứ châu Á. Trên cơ sở khái quát tình hình buôn bán gốm sứ trên thị
trường thế giới, tác giả khẳng định hoạt động kinh tế đó đem lại cơ hội cho gốm sứ
Đàng Ngoài du nhập vào mạng lưới thương mại khu vực. Trong thập niên 1630,
kim ngạch hàng xuất khẩu gốm sứ Trung Quốc của VOC sang châu Âu tăng đáng
kể nhưng cũng sớm sa sút do ngành sản xuất gốm sứ tại Trung Quốc bị tàn phá
nghiêm trọng dưới tác động của rối loạn chính trị, xã hội. Dưới sức ép ngày càng
tăng của người Mãn Châu, nhà Minh sụp đổ năm 644. Tại Trung Quốc nội chiến
4
kéo dài dẫn đến phá hủy trung tâm sản xuất gốm sứ, kéo theo sự thiếu hụt trầm
trọng sản phẩm gốm sứ chất lượng cao trên thị trường. Vì vậy, sau năm 64 , gốm
sứ Trung Quốc chất lượng cao hầu như vắng bóng trên thị trường quốc tế. Trong
năm 650 và 65 , thương điếm Deshima của VOC tại Nhật đã gửi 45 đĩa và
6
tiêu bản sứ Hizen khác nhau sang thương điếm Đàng Ngoài. Qua hơn một thập kỉ
buôn bán, hoạt động gốm sứ của Nhật Bản về châu Âu của VOC dần suy thoái và
cơ bản chấm dứt vào năm 665 do giá nhập khẩu tại Nhật quá cao.
Trong công trình nghiên cứu “Các thương cảng vùng Trung Bộ Việt Nam và
con đường gốm sứ ở vùng Tây nam Thái Bình Dương trong thời đại Đại thương mại
- thế kỷ XVI-XVIII” [45], nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn lại hướng sự tập trung
vào khảo sát các hiện vật gốm sứ cổ tìm được ở các thương cảng từng đóng vai trò
quan trọng trong con đường gốm sứ thời kỳ Đại thương mại (Thanh Hà, Hội An, và
Nước Mặn). Tại thương cảng Thanh Hà, đã thu được nhiều hiện vật gốm Nhật Bản
niên đại 1650 - 1680 thuộc dòng gốm Hizen. Đồ gốm Hizen được chở trên các
thuyền buôn của người Nhật tới nhiều cảng thị của Đại Việt trước khi đưa đến Siam,
Indonesia... Hội An được biết đến là thương cảng lớn nhất của Đàng Trong trong
thế kỷ XVI-XVIII, trong số 130 thuyền buôn châu Ấn được cấp phép đến Việt Nam
thì có tới 86 thương thuyền đến Hội An (chiếm 66%). Các cuộc khai quật khảo cổ
học cũng đã tìm ra số lượng lớn gốm Hizen ở khu cảng thị này.
Dựa vào kết quả khai quật khảo cổ học, chuyên luận “Gốm sứ Trung Quốc
và gốm sứ Nhật Bản phát hiện trong các mộ Mường” [37], các nhà khảo cổ học
Phạm Quốc Quân và Bùi Minh Trí đã thống kê được số lượng và các mẫu sản phẩm
gốm sứ Nhật Bản tìm thấy ở các ngôi mộ Mường, cụ thể là khu vực Đống Thếch
(Kim Bôi - Hòa Bình). Ngoài ra, ở khu vực Hà Tây (nay là Hà Nội), các nhà khảo
cổ cũng tìm thấy một số lượng khá lớn gốm sứ Nhật Bản có đặc tính giống với hiện
vật tìm thấy ở khu Đống Thếch như: gốm men trắng vẽ lam và gốm vẽ nhiều màu.
Loại hình chủ yếu là lọ tỳ bà, bát đĩa mang những nét đặc trưng của gốm Hizen, có
niên đại nửa cuối thế kỷ XVII. Những loại hình gốm sứ tương tự như vậy cũng
được tìm thấy ở các thương cảng cổ ven biển miền Trung như Hội An (Quảng Nam),
hay Lam Kinh (Thanh Hóa)... Tuy nhiên, số lượng gốm sứ Hizen được tìm thấy ở
miền Trung nhiều hơn so với miền Bắc - Việt Nam.
5
Bên cạnh đó, gốm sứ còn được tìm thấy ở nhiều khu vực khác nhau trên lãnh
thổ Việt Nam, đặc biệt là Hoàng thành Thăng Long. Các hiện vật gốm sứ tìm được
ở đây đa dạng về chủng loại với nguồn gốc khác nhau. Bên cạnh đồ gốm Việt Nam,
các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều gốm Trung Quốc, Nhật Bản và Ai Cập. Gốm sứ
có mặt ở Hoàng thành Thăng Long giai đoạn này chủ yếu là do con đường ngoại
giao và giao lưu thương mại. Dựa trên bộ sưu tập lựa chọn ngẫu nhiên do Ban khai
quật khảo cổ học khu di tích Hoàng thành Thăng Long cung cấp, chuyên gia nghiên
cứu gốm sứ Nguyễn Đình Chiến đã giới thiệu nhiều thông tin quý báu, góp phần
tìm hiểu về gốm sứ mậu dịch thông qua gốm sứ phát hiện được trong Hoàng thành
Thăng Long. Công trình nghiên cứu mang tên “Gốm sứ nước ngoài phát hiện được
trong khu Hoàng thành Thăng Long” [13]. Trong công trình này, tác giả Nguyễn
Đình Chiến đã giới thiệu cụ thể các mẫu sản phẩm gốm sứ Trung Quốc, Nhật Bản
được tìm thấy tại vùng Kinh đô. Các cuộc khai quật khảo cổ học từ năm 999 –
2000 ở Hậu Lâu, Văn Miếu (Hà Nội) đã phát hiện được 10 mảnh bát sứ hoa lam vẽ
rồng và hoa lá. Cuộc khai quật vào tháng 5-2000 ở di tích Bách hóa Tràng Tiền
(ngoại vi Hoàng thành Thăng Long xưa) đã tìm thấy 50 mảnh sứ hoa lam, đây là đồ
sứ Hizen chất lượng cao.
Ngoài ra, Bùi Minh Trí cũng đã cung cấp số liệu cụ thể, mẫu mã, chủng loại
của gốm sứ Nhật Bản tìm thấy tại Hoàng thành Thăng Long qua công trình nghiên
cứu “Gốm sứ Nhật Bản trong Hoàng thành Thăng Long” [49]. Trong công trình
này, tác giả đã khảo sát nhiều hiện vật gốm sứ quý hiếm được tìm thấy tại Hoàng
thành, trong số đó có nhiều hiện vật có khả năng là đồ dùng cá nhân của Hoàng đế
và Hoàng gia. Ngoài số lượng đồ gốm Việt Nam có niên đại từ thế kỷ VII đến thế
kỷ XIX, còn có nhiều đồ gốm sứ Trung Quốc có niên đại từ thế VII đến thế kỷ XIX,
đặc biệt là có sự xuất hiện của gốm sứ Nhật Bản (đồ sứ Hizen) có niên đại thế kỷ
XVII. Gốm sứ Hizen tìm thấy ở Hoàng thành Thăng Long chủ yếu là gốm hoa lam.
Các loại chủ yếu như bát với nhiều loại kích cỡ, hoa văn khác nhau như bát vẽ rồng,
bát vẽ sư tử, bát vẽ chim phượng... Các loại đĩa nhỏ, đĩa lớn với các họa tiết như
hoa cúc, phong cảnh, hoa lá... Chén vẽ hoa lá, chén vẽ phong cảnh... và các loại
bình rượu men trắng... Qua đó, tác giả đưa ra kết luận rằng, khó có thể phân biệt
giữa gốm sứ Nhật Bản và Trung Quốc, bởi lẽ gốm sứ Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất
6
lớn từ đồ sứ Trung Quốc về trang trí, kiểu dáng, nhất là đồ gốm hoa lam nên có
nhiều điểm gần gũi, đặc biệt dưới đáy nhiều sản phẩm sứ ghi niên hiệu của các vua
nhà Minh.
Ngoài các công trình kể trên, nhà khảo cổ học Trịnh Cao Tưởng đã công bố
công trình nghiên cứu mang tên “Thêm một vài thông tin về gốm sứ Hizen trong bối
cảnh ngoại thương Việt - Nhật thế kỷ XVI - XVII” [51]. Tác giả đã đưa ra nhận định
đồ gốm Nhật Bản có mặt trong các thương cảng Việt Nam không phải chỉ là các
hiện vật gốm Hizen có niên đại khoảng 1640 - 690 như các thông tin trước đã công
bố. Tác giả còn đưa ra dẫn chứng về mẫu sản phẩm gốm Karatsu, được nhà nghiên
cứu Ohashi Koji xác nhận nguồn gốc hiện vật gốm đó có sớm hơn năm 640. Bên
cạnh thông tin đó, tác giả còn thống kê những vùng đã có sự tồn tại của gốm sứ
Hizen trong lãnh thổ Việt Nam.
Với công trình nghiên cứu “Vấn đề bảo tồn và phát triển Nghề thủ công
truyền thống ở Nhật Bản” [16], tác giả Hồ Hoàng Hoa đã làm rõ giá trị của nghề
thủ công truyền thống của Nhật Bản như sơn mài, kim hoàn và đặc biệt là gốm sứ
vẫn được xem là tài sản quý giá trong kho tàng văn hóa dân tộc đang được chính
phủ và nhân dân trân trọng giữ gìn. Trong công trình này, tác giả chỉ đơn thuần khái
quát lịch sử hình thành và phát triển của gốm sứ Nhật Bản nói chung và giới thiệu
các sản phẩm gốm sứ cụ thể như gốm Bizen, một số lò gốm trong lãnh địa Hizen
như gốm sứ Arita, Karatsu...
Có thể nói gốm sứ luôn là một trong những sản phẩm mang tính thực tiễn
cao, đáp ứng nhiều nhu cầu thiết yếu của con người trong cuộc sống hàng ngày
nhưng không vì thế mà mất đi tính nghệ thuật vốn có. Thời gian lưu học ở Nhật, tôi
đã được tiếp xúc, tìm hiểu về văn hóa của xứ sở này và thật sự ấn tượng với những
đường nét tinh xảo trong sản phẩm gốm sứ Nhật Bản. Vì thế, khi trở về Việt Nam,
tôi tham gia vào khóa học Thạc sĩ tại khoa Đông Phương học và bắt đầu công cuộc
tìm kiếm nét độc đáo trong gốm sứ Nhật Bản. Luận văn Thạc sĩ với đề tài “Vai trò
của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống” [3] đã đưa ra cái nhìn tổng quan về
vai trò của gốm sứ trong đời sống vật thể và phi vật thể của nhân dân Nhật Bản.
Nếu như trong đời sống vật thể đề cập đến các sản phẩm gốm sứ sử dụng trong sinh
hoạt hàng ngày, vật dụng trang trí... thì trong văn hóa phi vật thể, luận văn đề cập
7
đến gốm sứ trong nghệ thuật cắm hoa, trà đạo... Với mục đích sử dụng đa dạng của
gốm sứ, tác giả đã khái quát được những giá trị độc đáo trong sự kết hợp các dụng
cụ gốm sứ trong trà đạo như theo chủ đề, theo mùa và nhiều khi còn theo mục đích
của các buổi tiệc. Ngoài ra, trong bài viết “Gốm sứ Nhật Bản và gốm sứ Việt Nam”
[4], qua việc so sánh và thống kê một số nét tương đồng, dị biệt giữa gốm sứ Nhật
Bản và Việt Nam, tác giả đã làm rõ đặc trưng riêng của hai dòng gốm. Với vị trí
nằm cạnh nền văn minh lớn, như quy luật của sự lan tỏa, gốm sứ Nhật Bản và Việt
Nam đã sớm thu nạp, tiếp nhận những ảnh hưởng từ Trung Hoa. Tuy nhiên, khi du
nhập vào mỗi nước, gốm sứ nhanh chóng được thay đổi để phù hợp với thị hiếu và
nhu cầu của người dân bản địa. Ngay trong bản thân hai dòng sản xuất gốm sứ Nhật
Bản và Việt Nam, mặc dù có nhiều nét tương đồng trong kỹ thuật sản xuất nhưng
cũng có nhiều điểm khác biệt trong mục đích sử dụng sản phẩm, mẫu mã, thiết kế.
Công trình “Nét độc đáo của ẩm thực Nhật Bản thông qua các đồ đựng gốm sứ” [5]
đã minh họa về cách sử dụng và sắp xếp món ăn Nhật Bản trong đời sống thường
ngày, trong dịp lễ tết, các kiểu kết hợp màu sắc của món ăn và đồ đựng theo mùa.
Bài viết cũng làm rõ quan niệm “mùa nào thức ấy” và cách thức người Nhật truyền
tải ý tưởng đó vào đời sống thực tế thông qua những dụng cụ đồ đựng, bát đĩa. Tuy
nhiên, mới chỉ dừng lại ở việc khái quát, cung cấp cái nhìn tổng thể, các công trình
nghiên cứu khoa học và cả luận văn của tác giả chưa đi sâu vào tìm hiểu, khảo cứu
chuyên sâu về một dòng gốm sứ cụ thể nào.
Nhìn chung, ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về gốm sứ Hizen chưa
nhiều, phần lớn tập trung khảo cứu qua các cuộc khai quật khảo cổ. Thông qua đặc
điểm của hiện vật tìm được ở nhiều vùng miền khác nhau, các tác giả đưa ra nhận
xét đánh giá nguồn gốc cũng như niên đại của sản phẩm này. Chính vì thế, với công
trình nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn tìm hiểu sâu hơn về gốm sứ Hizen với
cái nhìn tổng quan về nhiều khía cạnh của dòng gốm sứ đặc biệt này.
2.2. Tình hình nghiên cứu gốm sứ Hizen ở Nhật Bản
Nếu như nghiên cứu về gốm sứ Nhật Bản nói chung và gốm sứ Hizen nói
riêng chưa thu hút được đông đảo các nhà nghiên cứu Việt Nam thì ngược lại, dòng
gốm này đã sớm thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu Nhật Bản. Một trong
những công trình đó là:“Tổng quan về xuất khẩu gốm sứ Hizen ra thế giới”; “Gốm
8
- Xem thêm -