Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương thức kinh doanh truyền thống trung hoa dưới góc nhìn văn hóa...

Tài liệu Phương thức kinh doanh truyền thống trung hoa dưới góc nhìn văn hóa

.PDF
73
65
92

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG ---oOo--- PHƯƠNG THỨC KINH DOANH TRUYỀN THỐNG TRUNG HOA DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA Người thực hiện đề tài : ThS.PHẠM THỊ BÍCH HẰNG Giảng viên Khoa Đông Phương 1 MỤC LỤC DẪN LUẬN ................................................................................3 CH NG I : NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN............. 7 I. Những vấn đề chung.........................................................................7 II. Điều kiện tự nhiên liên quan đến kinh doanh truyền thống Trung Hoa......................................................................................12 III. Điều kiện xã hội liên quan đến kinh doanh truyền thống Trung Hoa......................................................................................18 CH NG II : PH NG THỨC KINH DOANH THỜI PHONG KIẾN TRUNG HOA........................................................... 31 I. Quá trình hình thành ngành kinh doanh của người Hoa ...................31 II. Cách thức tổ chức.............................................................................38 III. Vị trí và vai trò của ngành kinh doanh trong xã hội Phong kiến Trung Hoa......................................................................................43 IV. Một số quốc gia buôn bán với Trung Hoa thời Phong Kiến ..........47 CH NG III : NHỮNG BÌNH DIỆN V N HÓA CỦA PH NG THỨC KINH DOANH TRUYỀN THỐNG TRUNG HOA .............................................................................. 51 I. Văn hóa nhận thức về KINH DOANH .............................................51 II. Văn hóa tận dụng KINH DOANH .................................................578 III. Văn hóa ứng xử trong KINH DOANH.........................................655 KẾT LUẬN .............................................................................. 70 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................722 2 DẪN LUẬN Người Trung Hoa vốn dĩ rất được kính nể vì những kỳ tích họ đạt được trong mọi lãnh vực kinh tế. Điển hình như nông nghiệp, dù diện tích đất trồng trọt chỉ chiếm 15% tổng diện tích cả nước, nhưng sản lượng nông nghiệp chẳng những cung cấp đủ lương thực cho mọi người dân trong nước mà còn có sản lượng dư để xuất khẩu nữa. Trong lãnh vực kinh doanh, họ cũng là những nhà kinh doanh kiệt xuất, đến nỗi khi họ đến cư trú ở bất kỳ quốc gia nào thì phần lớn đều đóng vai trò chủ chốt và là những đại gia trong làng kinh doanh. Sở dĩ họ có bản lĩnh như thế vì: 1. Người Trung Hoa không chỉ dùng đến những “kinh nghiệm truyền khẩu” theo kiểu “cha truyền con nối” mà họ đã sớm đúc kết thành những học thuyết. Bởi vì, người Trung Hoa rất chịu khó ghi chép và có óc hệ thống hoá rất cao. 2. Tính cộng đồng được hình thành trên cơ sở gia đình mở rộng nên rất chặt chẽ và thể hiện rõ nét. Do đó, chỉ cần ở đâu có người Hoa là họ nhanh chóng bắt tay nhau để cùng làm ăn. 3. Tính nhất quán từ tư duy đến hành vi đều nằm trong một trật tự nhất định. Do đó, nói đến Trung Hoa, người ta nghĩ ngay đến một đất nước “cổ kính”, có một truyền thống văn hóa liên tục và lâu đời, được công nhận là một trong năm chiếc nôi văn hóa của thế giới. Bên cạnh đó, những phát triển vượt bậc của Trung Hoa trong thời kỳ hiện nay khiến cho nhiều nhà nghiên cứu không thể không chú ý đến “hiện tượng Trung Hoa”. Trung Hoa nổi lên như một hiện tượng khiến nhiều cường quốc trên thế giới cũng phải e dè. Các nhà kinh tế còn cho rằng : thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của Trung Hoa. 3 Trong tiến trình toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ như hôm nay, và tiến trình ấy cũng là cơ hội để Việt Nam có những bước tiến vượt bậc khi hòa nhập vào cộng đồng thế giới. Trong số các nước đang hợp tác đầu tư vào Việt Nam thì Trung Hoa là một đối tác không nhỏ, các công ty của họ đã đầu tư vào Việt Nam ở khá nhiều lĩnh vực. Do đó, việc tìm hiểu văn hóa kinh doanh của Trung Hoa để Việt Nam có thể trở thành đối tác cân sức là điều cần thiết. Đa số người Trung Hoa rất thành đạt trong con đường kinh doanh và có thể nói tài năng của họ chỉ đứng sau người Do Thái. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến sự thành công của họ? Đi tìm câu trả lời đòi hỏi một công trình nghiên cứu toàn diện về tất cả mọi lĩnh vực : đất nước, con người, văn hóa, kinh tế, chính trị … Trong giới hạn về khả năng và sự hiểu biết, người viết chỉ muốn nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể đó là : văn hóa kinh doanh của người Trung Hoa. Lĩnh vực này sẽ được phân nhỏ thành nhiều đề tài để thực hiện như : - Tính tôn ty và tính dân chủ trong các lý thuyết quản trị truyền thống Trung Hoa. - Phương thức kinh doanh truyền thống Trung Hoa dưới góc nhìn văn hóa. - Văn hóa kinh doanh của người Trung Hoa qua tư liệu điện ảnh. Trong đề tài thứ hai, tìm hiểu phương thức kinh doanh truyền thống Trung Hoa dưới góc nhìn văn hóa có nghĩa là vừa tìm hiểu những yếu tố văn hóa chi hối kinh doanh và vừa vận dụng những phương pháp của ngành văn hóa học để nghiên cứu vấn đề, cụ thể là vận dụng phương pháp liên ngành, nghĩa là những thành tựu của các ngành khoa học điển hình như : sử học, nhân học, xã hội học, văn hóa học… và phương pháp loại hình. Tiếp đến, người viết sẽ sưu tầm tư liệu, dùng phương pháp phân tích và tổng hợp để rút ra những đặc điểm trong văn hóa kinh doanh truyền thống Trung Hoa. 4 Thực tế đã chứng minh rằng, kinh doanh là con đường làm giàu nhanh nhất. Kinh doanh ngày nay bao gồm ba lĩnh vực là sản xuất hàng hóa, buôn bán và dịch vụ, cả ba đều có chung mục đích cơ bản là kiếm lời. Nhà kinh doanh tìm mọi cách để thu về lợi nhuận nhiều nhất và nhanh nhất. Do kinh doanh là một hoạt động tìm kiếm lợi nhuận, thiên về vật chất, nên trước đây người ta chỉ biết tìm cách làm cho đồng vốn của mình sinh lãi chứ ít ai nghĩ đến kinh doanh cũng phải có văn hóa. Tuy nhiên, sự thất bại của nhiều tập đoàn kinh tế phương Tây khiến người ta phải nhìn nhận lại vấn đề. Đồng thời, người ta bắt đầu quan quan tâm đến văn hoá, kết hợp văn hoá với kinh doanh, làm cho cái lợi (kinh tế) gắn bó với những giá trị chân, thiện, mỹ (kinh doanh có văn hoá) là xu hướng chung của các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài. Tuy nhiên, trong thời Phong kiến nói đến kinh doanh ít ai nghĩ đến nó bao gồm ba lĩnh vực sản xuất, buôn bán và dịch vụ, mà thường chỉ nghĩ đến những hoạt động thương mại là chính mà cụ thể là buôn bán kiếm lời. Riêng về mặt buôn bán ngày nay cũng không giống ngày xưa, buôn bán ngày nay luôn có những dịch vụ đi kèm như quảng cáo, tiếp thị… mà lúc khởi đầu kinh doanh chỉ gói gọn trong khuôn khổ trao đổi buôn bán mà thôi. Trung Hoa được cho là một quốc gia luôn có sự thay đổi giữa các giai đoạn thống nhất và chia rẽ chính trị, thỉnh thoảng quốc gia này lại bị các nhóm dân tộc bên ngoài chinh phục, một số nhóm thậm chí đã bị đồng hóa vào bên trong dân tộc Trung Hoa. Những ảnh hưởng chính trị và văn hóa từ nhiều thành phần dân tộc của Châu Á tràn tới cùng những đợt sóng di dân liên tục, đã hòa trộn để tạo thành hình ảnh của văn hóa kinh doanh ngày nay. Do đó, tìm hiểu văn hóa kinh doanh của Trung Hoa không phải là một vấn đề nhỏ, hay đơn giản. Nó bao gồm rất nhiều khía cạnh 5 phức tạp, nếu như chỉ nhìn để miêu tả những gì người Trung Hoa thể hiện, thì cách nhìn ấy sẽ rất phiếm diện. Do đó, khi nghiên cứu đề tài, người viết phải cẩn thận xem xét từng khía cạnh mà đầu tiên là tìm hiểu phương thức kinh doanh truyền thống thời Phong Kiến Trung Hoa nhằm rút ra những yếu tố chi phối cách thức kinh doanh hiện nay của người Trung Hoa. Bên cạnh đó, đề tài còn nhằm tìm hiểu sự thành công trong kinh doanh của người Trung Hoa để rút ra bài học thực tiễn cho ngành kinh doanh ở Việt Nam. Đồng thời, người viết cũng mong muốn đề tài sẽ trở thành tài liệu tham khảo cho những nhà kinh doanh Việt Nam để họ có được những hiểu biết nhất định về đối tác của mình nếu có giao thương với các công ty Trung Hoa. Đề tài được trình bày trong khoảng 68 trang kể cả phần dẫn nhập và kết luận. Nội dung chính được chia thành ba chương : - Chương 1 Những tiền đề lý luận và thực tiễn Với dung lượng khoảng 20 trang. Trong đó, người viết trình bày những vấn đề chung mang tính lý luận để làm cơ sở cho việc nghiên cứu sâu vào đề tài. - Chương 2 Phương thức kinh doanh thời Phong kiến Trung Hoa. Dung lượng khoảng 20 trang. Chương này trình bày những yếu tố chính yếu mang tính tổng quan về cách thức tổ chức, vị trí và vai trò của ngành kinh doanh truyền thống Trung Hoa cũng như trình bày tổng quan về một số quốc gia buôn bán với Trung Hoa thời Phong kiến. - Chương 3 Bình diện văn hóa của kinh doanh truyền thống Trung Hoa. Với dung lượng khoảng 20 trang. Chương này người viết trình bày đề tài qua ba vấn đề : văn hóa nhận thức, tận dụng và văn hóa ứng xử trong kinh doanh của người Trung Hoa. 6 CHƯƠNG I : NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN I. Những vấn đề chung Để trình bày đề tài một cách rõ ràng, người viết sẽ khởi đi từ những vấn đề chung, đó là những tiền đề giúp hiểu đề tài một cách thấu đáo. Vấn đề trước tiên là phân biệt các loại hình văn hóa. Đó là cách thức phân loại văn hóa theo những tiêu chí cụ thể. Ví dụ : nếu dùng không gian làm tiêu chí, ta sẽ có loại hình văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Nếu dùng kinh tế làm tiêu chí, ta sẽ có loại hình văn hóa gốc du mục và loại hình văn hóa gốc nông nghiệp. Nếu dùng tôn giáo làm tiêu chí, ta có loại hình văn hóa tôn giáo thế giới và loại hình văn hóa tôn giáo dân tộc … Trong đề tài này, người viết sẽ sử dụng kết hợp cả hai tiêu chí không gian và kinh tế để xem xét các vùng văn hóa và đúc kết những khác biệt của các vùng văn hóa dựa vào những nghiên cứu của các chuyên gia. Phương Đông và phương Tây như những khái niệm văn hoá được hình thành trong khu vực cựu lục địa Á-Âu (Eurasia). Phương Đông = Đông Nam; phương Tây = Tây Bắc. Sự khác biệt văn hóa của các vùng miền trên dựa vào sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội. Chính sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội ấy đã hình thành nên những khác biệt về văn hóa. Sự khác biệt ấy được trình bày trong bảng sau : TIÊU CHÍ Vị trí địa lý GỐC NÔNG NGHIỆP GỐC DU MỤC Phương Đông – Phương Tây – Đông Nam Tây Bắc 7 Cựu lục địa Khu vực Á Âu Cận Đông – Trung Châu Âu Đông – Viễn đông + những gì không thuộc Châu Âu Địa hình Phức tạp: cao nhất, Đơn giản sâu nhất Khí hậu Nóng ẩm – sông nước Lạnh khô – băng tuyết Tiền kinh tế Hái lượm Săn bắt Kinh tế Trồng trọt Chăn nuôi Lúa (thực vật) Bò (động vật) Văn minh Thực vật Động vật Nghệ thuật Hình thực vật Hình động vật Lối sống Định cư Du cư Thức ăn Thực vật Động vật Phong tục ăn uống Ăn chay Không ăn chay Cầu mùa (Tây nguyên) Chăn bò (Thụy Sĩ) Nông nghiệp Buôn bán Tổ chức xã hội Nông thôn Đô thị Tính chất đô thị Chính trị Công – thương nghiệp Nông nghiệp Công nghiệp Văn hóa – Văn minh Gắn với văn hóa Gắn với văn minh Ứng xử với đồ vật Lưu giữ - Bỏ đi Đơn vị trao đổi Lễ hội Phát triển kinh tế Tính chất KT - XH không dùng đến 8 Ứng xử với môi Tôn trọng, sống hòa hợp Coi thường – tham vọng trường tự nhiên với thiên nhiên chế ngự thiên nhiên Lối tư duy nhận thức Thiên về tổng hợp – coi Thiên về phân tích, coi trọng các mối quan hệ trọng yếu tố Trọng tình, trọng đức, Trọng sức mạnh, trọng tài, trọng văn, trọng nữ. trọng võ, trọng nam. - Chủ động, thích nghi, - Có truyền thống tuân thủ linh hoạt (do môi trường, các nguyên tắc. Coi trọng sinh hoạt). Coi trọng lệ pháp luật. Có kỷ luật. Nguyên tắc tổ chức cộng đồng Cách thức tổ chức cộng đồng hơn luật. - Tùy tiện Nguyên tắc ứng xử Dân chủ, trọng cộng đồng - Cứng nhắc Quân chủ, trọng cá nhân với môi trường XH Cách thức ứng xử Dung hợp trong Độc tôn trong với môi trường XH tiếp nhận tiếp nhận. Mềm dẻo, hiếu hòa Cứng rắn và hiếu trong ứng phó. thắng trong ứng phó. Tuy nhiên, những khác biệt kể trên chỉ mang tính tương đối, vì trong từng vùng từng miền sẽ lại có những đặc điểm rất riêng và cụ thể. Có khi tuy là vùng nông nghiệp có cách ứng xử văn hóa tương thích với loại hình gốc nông nghiệp, nhưng nhiều khi do điều kiện xã hội thay đổi, người ta cũng rất dễ tiếp nhận những cách ứng xử của văn hóa gốc du mục. Đó cũng là biểu hiện của quy luật lượng – chất, lượng đổi đến một ranh giới nhất định thì chất cũng sẽ đổi theo; hay như quy luận liên hệ trong triết lý âm dương, đó là : trong âm có dương và trong dương có âm. Theo bảng trên thì vùng văn hóa gốc du mục sau này sẽ phát triển thương nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Chế độ xã hội trong 9 vùng nông nghiệp do định cư khá yên ổn, lại theo chủ trương tự cung tự cấp, do đó nhu cầu trao đổi buôn bán không nhiều. Dân nông nghiệp thường tận dụng những gì trong môi trường sống để tự đáp ứng những nhu cầu của mình trong những điều thiết yếu như : ăn, mặc, ở, đi lại. Trong khi cư dân du mục chỉ có đàn gia súc không thể tự cung tự cấp mọi nhu cầu thiết yếu. Do đó, họ cần có sự trao đổi hàng hóa nhằm có đủ những sản phẩm khả dĩ đáp ứng được những nhu cầu cuộc sống. Bên cạnh đó, cuộc sống du cư cũng giúp họ nhìn thấy “độ chênh lệch” của các sản phẩm của vùng này so với vùng khác và có thể từ đó đã phát sinh trong họ ý định buôn bán, trao đổi hàng hóa để tìm kiếm lợi nhuận. Mối quan tâm của con người mọi thời dường như chỉ gói gọn trong hai chữ DANH và LỢI. Bởi vì, đó cũng là con đường dẫn người ta đến GIÀU và SANG. Tuy nhiên, do con người còn bị chi phối bởi văn hóa dân tộc và tính cách riêng nên có thể hướng sự coi trọng của mình đến mặt này hay mặt khác. Có dân tộc coi trọng danh hơn lợi, có dân tộc trọng lợi hơn danh, nhưng cũng có dân tộc coi trọng cả hai thứ. Người coi trọng danh thường lưu tâm đến những giá trị tinh thần, kẻ coi trọng lợi lại phóng tầm nhìn của mình về vật chất. Người Trung Hoa sẽ coi trọng gì? Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, trên thế giới ngoài hai vùng Phương Đông, phương Tây thì có một vùng khá lớn được gọi là vùng chuyển tiếp. Tuy vùng này vẫn thường được xếp vào Phương Đông, nhưng khi so sánh với những vùng thuần nông như Đông Nam Á, hay Nam Á thì vùng này có sự khác biệt khá lớn. Đó là sự khác biệt về địa hình : nơi đây có nhiều núi, cao nguyên và sa mạc; và một số khác biệt về văn hóa như chất dương tính 10 của cư dân du mục : đó là tính trọng nam khinh nữ, thích chinh phục và sự cứng rắn trong tín ngưỡng mà Islam giáo là một điển hình. Vùng chuyển tiếp ấy lại được chia thành hai tiểu vùng khác biệt là vùng Tây Nam và vùng Đông Bắc. Cũng theo GS. TSKH. Trần Ngọc Thêm, vùng Tây Nam có tâm thức hướng về tâm linh và tương lai. Do đó, nơi đây đã hình thành nên một tôn giáo rất đặc thù : Đạo Hồi hay còn gọi là Islam giáo (x.Bài giảng về văn hóa Trung Hoa) Sở dĩ Islam giáo có thể tồn tại và phát triển nhanh chóng ở vùng sa mạc mênh mông này, vì nó đã làm được điều mà nhiều tôn giáo lớn không thể làm được, là liên kết mật thiết những tín đồ sống rải rác trong cùng một niềm tin bằng một cách thức rất riêng mà không cần đến những quy định phải đến nhà thờ như Thiên Chúa giáo, cũng không cần phải hội họp tại hội đường hàng tuần như Do Thái giáo, cũng không câu nệ vào chùa chiền như Phật giáo…Họ chỉ cần mỗi ngày năm lần vào đúng giờ quy định, các tín đồ ai ở đâu thì cứ ở đấy, tạm dừng công việc đang làm rồi quỳ xuống và cầu nguyện vắn tắt với Đức Ala là đủ. Chính khi cầu nguyện cùng một giờ mà không cần ở cùng một nơi, các tín đồ đã thực sự liên kết kết mọi tâm hồn với nhau, mà vẫn không bị ràng buộc phải quy tụ cùng một chỗ với nhau. Do đó, tín đồ Hồi giáo dù ở bất cứ đâu, họ đều xem nhau là người cùng một nhà. Vùng trung gian thứ hai là vùng Đông Bắc Á bao gồm Trung Hoa, Hàn Quốc và Nhật Bản. Do tính chất địa lý và tính cách dân tộc đã hình thành nên khuynh hướng trọng thế tục và hướng về hiện tại. Cho nên, nơi đây là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển kinh tế. Tuy Trung Hoa là một trong những chiếc nôi của nền văn minh thế giới, có một bề dày phát triển liên tục hơn 7000 năm. Nhưng vùng đất này dường như không quan tâm nhiều lắm đến vấn đề tâm linh. Trung Hoa không hề sản sinh một tôn giáo hay tín ngưỡng đúng nghĩa nào. Đạo giáo hay Nho giáo thực chất là những học thuyết triết lý hơn là 11 giáo lý của một tôn giáo. Những tôn giáo du nhập vào đây đều mặc lấy thói quen tín ngưỡng của vùng này. Ví dụ : Đền miếu Trung Hoa thờ rất nhiều vị, có khi là thần tiên, nhưng nhiều nhất là những danh nhân hay “anh hùng dân tộc”. Trước đền miếu luôn luôn đặt hai con hổ đúc có vai trò là vị thần giữ cửa nhằm đánh đuổi những yêu tinh hay tà ma. Điều đó cho thấy tính thế tục khá mạnh trong văn hóa Trung Hoa. Bởi nếu trong đền miếu là những vị thần linh thiêng thực sự thì cần chi đến các vị thần giữ đến. Các vị thần tiên trong văn hóa Trung Hoa cũng ứng xử như con người (tính thế tục), cũng có “hỉ, nộ, ái, ố, ai, cụ, dục”, nên mới cần đến thần giữ cửa nhằm đánh đuổi tà ma. Do đây là vùng trung gian trọng thế tục, cho nên, người Trung Hoa trọng cả danh và lợi. Họ cầu danh để tìm lợi và cầu lợi để tìm danh. Hai yếu tố này tác động đến người Trung Hoa và giúp trả lời cho câu hỏi tại sao người Hoa dù định cư ở đâu cũng trở thành tay anh chị, giàu có một cách nhanh chóng. II. Điều kiện tự nhiên liên quan đến kinh doanh truyền thống Trung Hoa Trung Hoa nằm ở phần nửa phía bắc của đông bán cầu, phía đông nam của đại lục Á - Âu, phía đông và ở giữa châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương... Địa hình nhìn theo tổng thể : Cao và hiểm trở, 60% diện tích là núi cao trên 1000m. Địa hình cao về phía Tây và thấp dần về phía Đông. Nửa phía đông của Trung Hoa là các vùng duyên hải, ngoài rìa của các đảo là một vùng gồm bình nguyên phì nhiêu, đồi và núi, các sa mạc, các thảo nguyên và các khu vực cận nhiệt đới. Nửa phía Tây của Trung Hoa là một vùng gồm các lưu vực chìm trong những cao nguyên, các khối núi, chúng bao gồm những cao nguyên cao và rộng nhất trên thế giới. Cao nguyên Tân Cương phía Tây Bắc cộng với những dãy núi cao và hiểm trở như Côn Lôn, Thiên Sơn… tạo nên những bồn địa và lòng chảo xen kẽ những ngọn núi ấy; còn địa hình phía Đông thấp hơn bao gồm những bình nguyên và những dãy núi thấp. 12 Trên bản đồ, Trung Hoa là một vùng có rất nhiều cao nguyên, mạch núi, thung nguyên, lũng, bình sa mạc, sông hồ. Bên cạnh đó, bản đồ còn cho thấy địa hình Trung Hoa phía Tây cao, phía Đông thấp giống như hình bậc thang từ Tây hướng sang Đông và thấp dần theo từng bậc. Bậc thang đầu tiên là vùng cao nguyên Thanh Tạng (Thanh Hải – Tây Tạng) ở miền Tây Nam Trung Hoa. Cao nguyên Thanh Tạng là vùng đất cao nhất thế giới, độ cao trung bình là 4500m so với mực nước biển, nó được gọi là "xương sống của ngôi nhà thế giới". Cao nguyên này sở hữu đỉnh núi cao nhất thế giới là Chu-mục-lang-mã với độ cao 8848m. Nhiều đỉnh núi trên cao nguyên này có tuyết lớn, chúng chính là nguồn nước cho nhiều sông ngòi. Ngoài ra, trên cao nguyên đó còn có nhiều sông hồ và thung lũng. Bậc thang thứ hai là các vùng cao nguyên nội Mông Cổ, cao nguyên Hoàng Thổ và cao nguyên Vân Quý, có độ cao trung bình từ 1000m đến 2000m. Cao nguyên nội Mông bằng phẳng rộng rãi, đồng cỏ tươi tốt, là khu chăn nuôi lớn nhất Trung Hoa. Cao nguyên Hoàng Thổ phủ đầy đất vàng, chính giữa có con sông Hoàng Hà – chiếc nôi của văn hóa Trung Hoa chảy ngang. Cao nguyên Vân Quý lại là điểm giao lưu của nhiều sông rạch lưu thông, Cao nguyên này sở hữu thác Hoàng Quả Thụ nổi tiếng. 13 Cao nguyên Thanh Tạng, cao nguyên Nội Mông, cao nguyên Hoàng Thổ và cao nguyên Vân Quý được xem là 4 vùng cao nguyên lớn nhất Trung Hoa. Ở tầng bậc thang này còn có thung lũng Tháp Lí Mộc, thung lũng Chuẩn Hát Nhĩ và thung lũng Tứ Xuyên, ba thung lũng này cộng thêm thung lũng Sài Đạt Mộc ở tầng bậc thang thứ nhất, được gọi là 4 thung lũng lớn nhất của Trung Hoa. Sa mạc lớn nhất Trung Hoa là sa mạc Tháp Khắc La Mã Can, nằm bên trong thung lũng Tháp Lí Mộc. Tầng bậc thang thứ ba, trải dài từ Bắc xuống Nam bao gồm ba vùng đồng bằng lớn: đồng bằng Đông Bắc, đồng bằng Hoa Bắc và đồng bằng Trung Hạ du Trường giang có độ cao trung bình dưới 1000m. Ba vùng đồng bằng lớn này là những khu nông nghiệp quan trọng của Trung Hoa. Ven các khu đồng bằng này có rất nhiều núi thấp. Dãy núi ven biển Đông Nam là nơi tập trung nhân khẩu đông nhất, cũng là khu có nền kinh tế khá phát đạt. Chính sự đa dạng về địa hình tạo điều kiện cho Trung Hoa phát triển cả hai loại hình kinh tế : du mục và nông nghiệp. Tuy nhiên, khi bàn về thương mại Trung Hoa, chúng ta chỉ xoay quanh những yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên, nhưng chúng chi phối và tác động đến khuynh hướng phát triển kinh doanh. Ở đầu cực phía đông, thảo nguyên Á – Âu đổ dốc xuống, đi ngang qua bình nguyên Mông Cổ đến tận các cao nguyên hoàng thổ của Trung Hoa. Ngay từ thời đá cũ, các cư dân sống bằng săn bắn cư trú dọc theo rìa nam của bình nguyên ấy đã săn đuổi hàng đàn ngựa hoang, lừa, bò rừng và linh dương… thú săn quá nhiều không thể sử dụng hết. Họ đã tìm cách thuần dưỡng những thú hoang săn được trở thành đàn gia súc. 14 Đến thời lịch sử, thảo nguyên Mông Cổ đã trở thành “ngôi nhà” cho những cư dân, và là một đồng cỏ mênh mông thuận tiện cho việc chăn thả gia súc. Kinh tế du mục đòi hỏi sự di chuyển liên tục cùng với đàn gia súc. Tuy nhiên, với người Trung Hoa cổ xưa, cuộc sống du mục của họ không liên tục như ở vùng Trung Đông hay phương Tây cổ. Họ cũng có thời gian định cư nhất định vì các di chỉ khảo cổ cho thấy có những xương động vật được thuần hoá lẫn hoang dã và sự hiện diện của loại hình nông nghiệp lúa khô (kê) chứng tỏ họ cũng có thời gian cư trú nhất định. Cho đến cuối đời Thương, những bằng chứng khảo cổ cho thấy dọc phía bắc Trung Hoa đều mang dấu ấn sâu đậm của nông nghiệp chăn nuôi. Bình minh nông nghiệp của Trung Hoa xuất hiện từ 7.000 – 2.000 năm trCN. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện những làng canh tác đầu tiên đại diện cho việc trồng trọt đặc trưng của hai miền Nam và Bắc. Địa điểm Từ Sơn nằm trên vùng đất dọc hai bờ sông ở chân dãy núi Thái Hằng nhìn xuống Trung Nguyên. Các khai quật khảo cổ đã tìm thấy hầm, kho trữ, mộ táng cho thấy một tổ chức “làng – xã” đã phát triển tương đối hoàn chỉnh vào thế kỷ 6 TCN. Đồ gốm trong giai đoạn này có hình thù rộng, ba chân hay bốn chân, bình có tay quai, vại có đục lỗ và đế vai xiên, khác rất nhiều so với bình vò rộng miệng, sâu đều của nền văn hoá săn bắn hái lượm. Dụng cụ lao động bằng xương gồm có : vật nhọn dùng để phóng (có chuôi và không chuôi), dùi, rìu … dụng cụ đá gồm : cuốc, búa, cối đá có chân, dụng cụ gặt… Điều đó cho thấy, người Trung Hoa cổ xưa dồn nhiều công sức cho việc làm ra những dụng cụ lao động tương ứng với loại hình kinh tế trong vùng. Người ta còn tìm thấy cây kê họ thảo đuôi chồn được carbon hoá, xương heo, gà, vịt… chứng minh cho một loại hình kinh tế nông nghiệp lúa khô và thuần hoá động vật. 15 Người ta xem xét thổ nhưỡng vùng này và cho kết luận : Ở phương Bắc, đất hoàng thổ xốp, khô, khí hậu khắc nghiệt (quá lạnh và cũng quá nóng), do dó người ta phải trồng kê là loại chịu được hạn. Loại hình kinh tế chính ở vùng này thiên về hình thức “chặt và đốt”. Cư dân Trung Hoa cổ cứ di cư đến đâu thì họ chặt và đốt rừng đến đó. Khi khai hoang xong một thửa đất, nhờ tro bón đất, họ có thể trồng trọt khoảng từ 3 - 5 năm, sau đó, họ bỏ đi và lại chặt và đốt để khai hoang một thửa đất mới, cứ như thế cho đến khi hết rừng thì họ lại quay về vùng đất đã ở trước rồi lại chặt và đốt. Với kiểu làm ăn và định cư tạm bợ như thế, các nhà nghiên cứu đã cho đó là loại hình kinh tế bán du mục. Đây chính là sự khác biệt giữa Trung Hoa và các nước gốc du mục khác và sự khác biệt đó tạo nên những sắc thái riêng cho văn hóa thương mại của Trung Hoa. Miền nam của đất nước Trung Hoa phì nhiêu nhờ những con sông lớn. Do lượng nước dồi dào đã đẩy lùi rừng rú và thú dữ để tạo nên những đồng bằng màu mỡ. Người Trung Hoa cổ cư trú ở miền Nam ngay từ rất sớm đã biết sống định cư, trồng trọt và nuôi gia súc. Họ khai phá đất đai, rửa phèn trong đất, tháo nước trong đầm, đào kinh dẫn nước và chống lại hạn hán thiên tai… Mỗi vị hoàng đế sau này khi lên ngôi đều chú trọng đến chính sách canh điền và thuỷ lợi. Đặc trưng nông nghiệp trồng trọt ở đây là lúa nước và cây có hạt… phân tích xương động vật gồm có những động vật đã thuần hoá lẫn động vật hoang dã.Dụng cụ lao động bằng xương có mai, thuổng có tra cán và những dụng cụ trồng trọt khác. Hà Mẫu Độ là đại diện cho miền Nam, nơi có nguồn nước dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng lúa nước và thuần hoá các loại thuỷ sản. Địa điểm này thuộc vùng duyên hải phía nam đồng bằng Thượng Hải. Các di vật được lưu giữ trong điều kiện ẩm tại lớp thứ 4 thấp nhất của nó, với kiến trúc bằng gỗ và vật dụng cũng bằng gỗ. Các di 16 chỉ về lúa và những gì liên hệ với lúa có niên đại khoảng 5.000 TCN. Những ngôi nhà đầu tiên được dựng lên trên những chiếc hố, nối với nhau bằng lỗ mộng và chốt mộng, chứng minh rằng : nơi đây đã đạt đến một trình độ làm mộc khá phát triển ứng phó với môi trường thiên nhiên nhiều đầm lầy và nước. Cuộc khuếch tán nền nông nghiệp lúa nước từ nam Trung Hoa đi theo hướng Đông Bắc, lan sang các bán đảo và quần đảo lân cận vào cuối thời Chu. Dòng lúa hạt ngắn tiêu biểu cho duyên hải phía Đông Trung Hoa vì nó chịu được lạnh. Cho nên, lúa hạt ngắn đã từ đồng bằng Thượng Hải lan truyền ra các vùng lân cận. Tóm lại, địa hình Trung Hoa có thể xem xét từ hai chiều tây – đông và bắc - nam. Chiều tây-đông là chiều đối lập chủ yếu theo địa hình (caothấp), lượng mưa (ít-nhiều) và dân tộc (các dân tộc Trung Á - Hán tộc). Chiều bắc-nam thì lại là chiều có đối lập về nhiệt độ (lạnhnóng), lượng mưa (ít-nhiều). Miền bắc khô hạn, còn miền nam là vùng sông nước. Từ đây dẫn đến đối lập về kinh tế (chăn nuôi - trồng trọt, nông nghiệp khô - nông nghiệp nước), và về mức sống (nghèo-giàu). Miền Bắc luôn là nơi trung tâm chính trị, do các triều đình Phong kiến thường chọn đặt kinh đô, nhưng cũng là vùng có chiến tranh liên miên; Vì vậy người dân thường dạt về phương Nam, nơi đây có đất đai màu mỡ, cuộc sống tương đối ổn định, là vựa lúa nuôi sống toàn quốc. Cho nên, nó trở thành trung tâm kinh tế và người dân chỉ muốn sống yên bình. Thời hiện đại vùng đông-nam phát triển kinh tế rất nhanh. Bởi vì, những bờ biển vùng đông nam chính là nơi diễn ra việc buốn bán nhộn nhịp. Người Trung Hoa thường dùng thành ngữ “Nam phong Bắc tiệm” (Nam lên như gió, Bắc tiến dần dần) để ám chỉ tình hình kinh tế thời xưa của Trung Hoa. 17 III. Điều kiện xã hội liên quan đến kinh doanh truyền thống Trung Hoa Trước tiên cần phải xác định xã hội mà đề tài muốn nhắm đến chính là xã hội Phong kiến Trung Hoa. Tuy sử sách Trung Hoa cho rằng quốc gia mình đã trải qua thời Tam Hoàng, Ngũ Đế và Tam Đại rồi mới đến các vương triều sau này. Các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng không thống nhất với nhau về Tam Hoàng. Sử ký Tư Mã Thiên cho rằng, Tam Hoàng là Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng (Thiên – Địa – Nhân = Tam Tài); trong khi Vận Đẩu Xu và Nguyên Mệnh Bao lại cho ba vị ấy là Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Ngũ Đế bao gồm : Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Nhưng sử sách Trung Hoa cũng không thống nhất trong quan niệm về Ngũ Đế. Quan niệm trên được lấy theo Sử ký Tư Mã Thiên. Tuy nhiên, một điều chắc chắn rằng, giai đoạn Tam Hoàng, Ngũ Đế và ngay thời kỳ đầu của Tam Đại đều thuộc về thời sơ kỳ. Tuy nhiên, người Trung Hoa đã lịch sử hóa những câu chuyện thần thoại viết về giai đoạn lịch sử này. Ở Trung Hoa, thần thoại cũng là lịch sử và lịch sử cũng mang tính thần thoại. Nói như thế là vì những câu chuyện thần thoại của Trung Hoa đều có niên đại rạch ròi khiến người đọc cứ nghĩ là thật. Chẳng vậy mà Trung Hoa được mệnh danh là thiên đường của lịch sử. Thời Tam Đại chính là nhà Hạ, nhà Thương (Ân), nhà Chu. Trong các Đại này thì nhà Hạ vẫn còn mang tính thần thoại. Các nhà khảo cổ chỉ mới tìm được những di chỉ của thời nhà Thương và nhà Chu. Theo truyền thuyết, trong thời gian Hạ Vũ trị vì, đã phát minh ra lối tát nước vào ruộng, bắt sống được một số người dân tộc Man 18 về làm nô lệ. Vua Vũ xây dựng thành quách để giữ gìn của riêng và người trong dòng họ. Vua Vũ truyền ngôi cho con là Hạ Khải thừa kế. Khải lên ngôi, tình thế chưa ổn định, lấy đất An Ấp (thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay) để đóng đô. Những con cháu sau này nối ngôi Khải đều nhiều lần đánh phá lẫn nhau, gây ra các cuộc chiến tranh chinh phạt nhỏ. Kinh tế xã hội lúc thời này khá phát triển, xuất hiện cách thức làm lịch pháp. Từ khi lên ngôi, Khải đặt tên nước là Hạ. Theo truyền thuyết, đời Hạ đã có 9 cái vạc đồng do Khải cho đúc. Như vậy, có thể thời kỳ này đã có đồng và nghề đúc đồng, cũng có nghĩa là giai đoạn này thuộc về thời đại đồ đồng, và các vương quốc thực chất chỉ là những bộ lạc, mà người Trung Hoa đã dùng cách thức tổ chức thời Phong kiến để viết lại những giai đoạn sơ khai này. Những ghi chép của Tư Mã Thiên về thời gian thành lập Nhà Hạ là từ khoảng 4.000 năm trước, nhưng điều này chưa được chứng thực. Một số nhà khảo cổ học cho rằng nhà Hạ có liên quan tới di vật khai quật được tại một vùng ở trung tâm tỉnh Hồ Nam, một bức tượng đồng niên đại từ khoảng năm 2000 TCN. Những dấu hiệu sớm của thời kỳ này được tìm thấy trên các bình gốm và mai rùa trông tương tự như những đường nét đầu tiên của chữ Trung Hoa hiện đại, nhưng nhiều học giả vẫn không chấp nhận ý kiến này. Bằng chứng khảo cổ học về sự tồn tại của Nhà Hạ chưa có. Chủ yếu, người ta biết đến thời này theo truyền thuyết. Nhà Hạ truyền được 17 đời vua, từ Hạ Vũ đến Hạ Kiệt kéo dài hơn bốn trăm năm thì triều đại về tay Thành Thang nhà Thương. Người ta tìm thấy những mảnh xương thú và mai rùa có khắc chữ có niên đại khoảng thế kỷ XIII TCN, người ta gọi loại chữ này là giáp cốt văn. Đây được xem là những bản văn sớm nhất của Trung Hoa. Những hiện vật khảo cổ này cho thấy bằng chứng về sự tồn tại của nhà Thương, có từ khoảng 1600 TCN–1046 TCN và nhà Thương được chia 19 làm hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất, từ đầu thời nhà Thương (1600–1300 TCN) với các bằng chứng tại Nhị Lý Cương, Trịnh Châu và Thương Thành. Khuynh hướng thứ hai từ cuối thời nhà Thương hay giai đoạn Ân, gồm rất nhiều văn bản giáp cốt. An Dương ở tỉnh Hà Nam hiện nay đã được xác nhận là nơi đóng đô cuối cùng trong tổng số chín kinh đô của nhà Thương (1300–1046 TCN). Các nhà sử học Trung Hoa sống ở cuối những giai đoạn này đã làm quen với khái niệm về những triều đại nối tiếp nhau, nhưng tình hình thực tế chính trị ở giai đoạn đầu trong lịch sử Trung Hoa thì khá phức tạp và rắc rối. Vì thế, một số nhà sử học Trung Hoa cho rằng nhà Hạ, nhà Thương giai đoạn sớm của triều đại nhà Chu và cũng có thể các đại này cùng tồn tại đồng thời với nhau. Cuối thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên, nhà Chu nổi lên ở châu thổ sông Hoàng Hà, tiêu diệt nhà Thương. Nhà Chu khởi đầu thời kỳ cai trị của mình theo hệ thống nửa phong kiến. Vua tiên khởi của nhà Chu là Vũ Vương, và em là Chu Công đóng vai trò nhiếp chính. Hai anh em đánh bại nhà Thương tại trận Mục Dã. Để hợp pháp hóa vai trò cai trị của mình, Vũ Vương đã dựa vào khái niệm Thiên Mệnh, đây là một khái niệm sẽ có ảnh hưởng trên mọi triều đại kế tiếp. Ban đầu nhà Chu đóng đô ở vùng Tây An, gần sông Hoàng Hà, họ thực hiện nhiều cuộc chinh phục mở rộng vào châu thổ sông Dương Tử. Sự kiện này được xem là đợt di dân đầu tiên từ bắc xuống nam trong lịch sử Trung Hoa. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đồng ý với nhau rằng, chế độ phong kiến Trung Hoa bắt đầu từ thời Tây Chu (thế kỷ XI trước công nguyên) đến cuộc chiến tranh thuốc phiện (1840). Còn việc buôn bán được xem là một ngành nghề và là một loại hình kinh tế đúng nghĩa thì chỉ được tính từ thời nhà Hán trở về sau. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan