ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------*&*----------
TRẦN THỊ DIỆU LINH
PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------*&*----------
TRẦN THỊ DIỆU LINH
PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC. MÃ SỐ: 60.31.02.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS
LƯU MINH VĂN
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của riêng
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến Sĩ Lưu Minh Văn
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không
trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và kết quả nghiên cứu.
Tác giả:
Trần Thị Diệu Linh
LỜI CẢM ƠN!
Được sự nhất trí của Khoa Khoa học chính trị - Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, được sự đồng ý của thày giáo hướng dẫn TS Lưu Minh Văn,
Tôi đã thực hiện đề tài: “Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính
trị ở tỉnh Thái Nguyên”.
Để có sự thành công của luận văn, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
TS Lưu Minh Văn đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu.
Xin cảm ơn các thày, cô giáo, những người đã trực tiếp truyền thụ cho
chúng em những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng để em có niềm tin, trí tuệ và
nghị lực để hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn, ban giám hiệu trường trung học BCVT và CNTT
Miền Núi và các đồng nghiệp nơi tôi công tác đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mặt
thời gian trong thời gian thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn những người mà Tôi chưa hề gặp mặt, nhưng tư tưởng, công
trình của họ đã tác động đến Tôi, giúp Tôi có tư liệu để nghiên cứu, hoàn thành
nội dung luận văn.
Cuối cùng, Tôi xin được gửi tới gia đình, những người bạn lời biết ơn sâu
sắc vì sự cảm thông, thấu hiểu và xẻ chia.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Mở đầu
1
Tính cấp thiết của đề tài
1
Tình hình nghiên cứu đề tài
2
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5
Đóng góp của luận văn
6
Kết cấu luận văn
6
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phụ nữ tham gia lãnh đạo,
7
quản lý trong hệ thống chính trị
1.1.Các khái niệm công cụ
7
1.1.1. Khái niệm giới, bình đẳng giới, định kiến giới, bất bình đẳng giới.
7
1.1.2 .Khái niệm quản lý, lãnh đạo
11
1.1.3. Khái niệm hệ thống chính trị Việt Nam và hệ thống chính trị tỉnh
13
Thái Nguyên
1.1.4. Phụ nữ tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý.
16
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
19
Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò, vị thế chính trị của phụ nữ
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
19
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh.
21
1.2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
24
1.3. Đặc điểm phụ nữ tham gia làm quản lý, lãnh đạo.
28
1.4. Điều kiện cơ bản để phụ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo.
33
1.4.1. Nhóm các điều kiện khách quan
33
1.4.2. Nhóm điều kiện chủ quan
37
Tiểu kết chương 1:
41
Chương 2: Phụ nữ tham gia làm lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính
42
trị ở tỉnh Thái Nguyên
2.1. Khái lược về sự tham gia quản lý, lãnh đạo của phụ nữ trong hệ
42
thống chính trị ở Việt Nam.
2.2 . Khái lược về tỉnh Thái Nguyên
48
2.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và dân cư của tỉnh Thái Nguyên
48
2.2.2. Về kinh tế - văn hóa – xã hội.
49
2.2.3. Phong trào phụ nữ tỉnh Thái Nguyên
50
2.3. Thực trạng phụ nữ tham gia làm quản lý, lãnh đạo trong hệ thống
53
chính trị tỉnh Thái Nguyên
2.3.1. Cơ cấu đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
53
tỉnh Thái Nguyên
2.3.1.1. Đội ngũ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo trong tổ chức Đảng ở tỉnh
53
Thái Nguyên.
2.3.1. 2. Đội ngũ cán bộ nữ tham gia quản lý trong Hội đồng nhân dân, Ủy
56
ban nhân dân ở tỉnh.
2.4. Thực trạng năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ nữ trong
59
hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên.
2.5. Những nguyên nhân thành công và hạn chế của nữ cán bộ quản lý,
68
lãnh đạo trong hệ thống chính trị ở tỉnh Thái Nguyên.
2.5.1. Những nguyên nhân của thành công
68
2.5.2. Những nguyên nhân của hạn chế
69
Tiểu kết chương 2
74
Chương 3: Khuyến nghị nâng cao tỷ lệ và năng lực nữ cán bộ quản lý,
76
lãnh đạo trong hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên
3.1. Nhóm giải pháp về chủ trương, đường lối, chính sách
76
3.1.1. Thực hiện các quy định, pháp luật của nhà nước và các cam kết quốc
76
tế về quyền cơ bản của phụ nữ.
3.1.2. Hoàn thiện các chủ trương, chính sách về tạo nguồn nữ cán bộ
77
3.1.3. Xây dựng mô hình(cơ cấu) lãnh đạo hài hòa về giới.
80
3.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của gia đình, xã hội và hệ
81
thống chính trị về công tác cán bộ nữ.
3.3. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức, năng lực lãnh đạo, quản lý
của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị
83
Tiểu kết chương 3
89
Kết luận
93
Danh mục tài liệu tham khảo
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
BCH:
Ban chấp hành
HĐND:
Hội đồng nhân dân
UBND:
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ Việt Nam là lực lượng cơ bản, luôn giữ vị trí quan trọng và có những
cống hiến to lớn, góp phần xây dựng lên truyền thống vẻ vang của dân tộc, đồng thời
tạo nên truyền thống của chính mình. Từ xa xưa, trong lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt
Nam đã tỏ rõ bản lĩnh phi thường, chí kiên cường, bất khuất, sẵn sàng cùng nam giới
đứng lên giành quyền sống và độc lập cho giang sơn Tổ quốc.
Có thể khẳng định phụ nữ Việt Nam, bằng vẻ đẹp và cái đẹp của chính tâm hồn
mình, đã góp phần đặc biệt dệt gấm, thêu hoa, làm nên vẻ đẹp và sức sống diệu kỳ
ngàn đời cho dân tộc Việt Nam, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm
tốt đẹp, rực rỡ”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, công tác
phụ nữ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đời sống vật chất, tinh thần của phụ
nữ ngày càng được cải thiện, vai trò của phụ nữ ngày càng được phát huy, đóng góp
của phụ nữ vào các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội được ghi nhận; Đặc
biệt, vị thế của người phụ nữ đã được nâng cao, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản
lý ở các cấp có xu hướng tăng lên cả về số lượng và vị trí công việc. Phụ nữ nước ta
đã góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy tỷ lệ phụ nữ tham chính đã tăng so với trước nhưng chưa tương xứng với
tiềm năng của phụ nữ. Tỷ lệ cán bộ nữ giữ chức danh chủ chốt trong các cơ quan nhà
nước hiện rất thấp. Sự hiện diện của phụ nữ trong những vị trí chủ chốt còn mờ nhạt.
Điều đó đã cho thấy, định kiến giới đối với công tác lãnh đạo, quản lý của phụ nữ còn
khá nặng nề, sự quyết tâm trong cam kết chính trị đối với bình đẳng giới trong lãnh
đạo, quản lý và thực tế đạt được vẫn còn có khoảng cách nhất định. Những khuôn
mẫu giới truyền thống chưa thực sự chuyển biến mạnh theo hướng tích cực và có lợi
cho phụ nữ.
Xu hướng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý lại diễn ra không đồng đều giữa
các cấp, các ngành, các địa phương. Để góp phần khắc phục những hạn chế nêu trên,
mỗi địa phương cần quán triệt thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và
1
chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phụ nữ cho phù hợp với đặc điểm của
địa phương trong thời kỳ đổi mới.
Tỉnh Thái Nguyên - trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc, trong những
năm qua Thái Nguyên đã đạt được nhiều những thành tựu kinh tế, xã hội. Trong sự
thành công của Tỉnh đã có sự đóng góp rất lớn công sức của phụ nữ. Trong vai trò
quản lý, lãnh đạo phụ nữ tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát
triển của tỉnh. Tuy nhiên, vị thế và vai trò của phụ nữ vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng và đóng góp của họ, đa phần sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ tỉnh
trong hệ thống chính trị vẫn mang nặng tính cơ cấu, tạo lên “hội chứng” cấp phó.
Trong quá trình tham gia công tác lãnh đạo, quản lý, phụ nữ tỉnh có nhiều thuận lơi,
song cũng khá nhiều rào cản ảnh hưởng tới con đường tham gia hoạt động lãnh đạo,
quản lý của họ mà bao trùm là định kiến giới về năng lực dẫn tới những bất cập khi
phụ nữ tiếp cận hay tham gia công tác lãnh đạo, quản lý.
Để phụ nữ tự tin trên con đường tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý cùng
nam giới, Tỉnh Thái Nguyên cần có những chính sách và biện pháp phù hợp để thúc
đẩy công tác cán bộ nữ nhằm nâng cao số lượng, chất lượng nữ cán bộ, góp phần
nâng cao vị thế quản lý, lãnh đạo của phụ nữ nước nhà.
Tình hình trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh hơn nữa công tác
nghiên cứu để tìm ra giải pháp nâng cao sự tham chính của phụ nữ ở tỉnh Thái
Nguyên nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung nhằm phát huy vai trò của phụ nữ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài :"Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị ở tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên
ngành chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vài ba thập kỷ trở lại đây, vấn đề bình đẳng giới đã và đang trở thành mối quan
tâm chung của hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Đối với Việt Nam, nghiên cứu giới
còn là lĩnh vực khá mới mẻ. Nhưng những công trình khoa học về giới đã xuất hiện
nhiều hướng nghiên cứu và tiếp cận khác nhau, với mục đích là đều hướng tới nghiên
cứu về phụ nữ, về địa vị, vai trò của họ trong xã hội góp phần nâng cao vị thế của phụ
nữ trong mọi mặt của đời sống xã hội.
2
Xoay quanh vấn đề quyền chính trị của phụ nữ Việt Nam đã có rất nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Tiêu biểu:
+ Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ trong bối cảnh toàn cầu hóa ở
nước ta hiện nay của tác giả Trần Thị Hòe (Tạp chí thông tin khoa học xã hội số
3.2008). Trong bài viết này tác giả đã khái quát được khung chính sách pháp luật của
Việt nam để bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, nêu bật một số thành tựu
đảm bảo quyền tham gia chính trị của phụ nữ Việt Nam và từ đó tác giả đề xuất được
năm nhóm giải pháp đảm bảo quyền tham gia chính trị của phụ nữ Việt Nam.
+ Vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóahiện đại hóa của tiến sỹ Võ Thị Mai. Trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập tới nội
dung làm thế nào để phụ nữ tham gia quản lý nhà nước có hiệu quả, thể hiện được
năng lực của giới nữ.
+ Nhóm công trình nghiên cứu thực trạng vai trò của phụ nữ trong gia đình,
ngoài xã hội, nêu lên những kiến nghị nhằm thay đổi và bổ sung các chính sách xã hội
đối với phụ nữ để họ có điều kiện phát huy hết vai trò của mình trong sự nghiệp đổi
mới như: Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người
Việt Nam do giáo sư Lê Thi làm chủ nhiệm; Luận cứ về khoa học cho việc đổi mới
chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình do phó giáo sư Trần Thị Vân Anh làm
chủ nhiệm;
+ Nhóm công trình nghiên cứu về khung chính sách pháp luật đối với sự bình
đẳng của phụ nữ trong xã hội như: Quyền bầu cử và ứng cử của công dân trong chế
độ ta của tác giả Đàm Văn Hiếu (tạp chí luật học, số 3, 1975 ); Phụ nữ những ưu ái
và thiệt thòi – Nhìn từ góc độ xã hội, pháp lý của tiến sỹ Hoàng Thị Kim Quế (tạp chí
nghiên cứu lập pháp, số 09/ 2003); Quyền chính trị của phụ nữ trong công ước về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trong pháp luật Việt Nam của tiến sỹ
Nguyễn Văn Mạnh
+ Hệ thống luận văn nghiên cứu về quá trình tham chính của phụ nữ như luận
văn: “Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Hoàng Mai Hương. Luận văn có một số đóng góp mới về khoa học như sau:
Luận văn lần đầu tiên tiếp cận nghiên cứu về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
3
thông qua việc gắn các quy định pháp luật có liên quan với vấn đề bình đẳng giới và
quyền của phụ nữ trong pháp luật quốc tế. Luận văn cũng đề xuất các phương hướng
và luận chứng những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị
của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay;
+ Nguyễn Thị Xuân,"Phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý: thực trạng và một
số khó khăn", khoá luận tốt nghiệp năm 2006.
Ngoài ra còn rất nhiều những công trình khác đề cập tới vấn đề phụ nữ:
+ Học viện Hành Chính Quốc Gia (2002), Tăng cường năng lực quản lý và vai
trò của phụ nữ Việt Nam trong công vụ.
+ Lê Thi (2004), “Về chuẩn mực người phụ nữ mới thời hiện đại”, Khoa học
mới về phụ nữ.
+ Nguyễn Phương Thảo,"phụ nữ và hoạt động chính trị", Tạp chí khoa học về
phụ nữ, số3/1999.
+ Phan Thị Thanh, "Tiến bộ về bình đẳng giới trong công việc ở Việt Nam",
Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội, 2001.
…
Tóm lại, đề tài về phụ nữ đã thu hút rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các
học giả, độc giả, song mỗi bài viết, bài nghiên cứu lại có một cách tiếp cận khác nhau
Cũng xuất phát từ đề tài về phụ nữ, tôi chọn nghiên cứu đề tài: " Phụ nữ tham
gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở tỉnh Thái Nguyên”.
Đề tài tập trung nghiên cứu về thực trạng tỷ lệ và năng lực phụ nữ tham gia
lãnh đạo, quản lý tại tỉnh Thái Nguyên, qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao tỷ lệ và
năng lực của phụ nữ khi tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý tại địa phương.
Đây là một công trình khoa học độc lập, không trùng lặp với các công trình đã
nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu, tác giả có kế thừa, tham khảo kết quả nghiên
cứu ở các công trình nghiên cứu đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Xây dựng một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao tỷ lệ, năng lực quản lý, lãnh
đạo của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng và trên phạm vi
cả nước nói chung.
4
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ:
Phân tích, làm sáng tỏ một số khái niệm công cụ như khái niệm giới, bình đẳng
giới, định kiến giới…Trình bày một số quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về vị thế chính trị của phụ nữ trong đời
sống xã hội nói chung và đời sống chính trị nói riêng. Trên cơ sở các quan điểm và
tình hình thực tiễn phụ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo, tổng hợp các đặc điểm cơ bản
khi phụ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo. Đồng thời xây dựng khung lý thuyết các điều
kiện cơ bản nhằm tăng tỷ lệ và năng lực lãnh đạo, quản lý cuả phụ nữ trong hệ thống
chính trị.
Phân tích thực trạng tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong Tỉnh ủy, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh sự tham gia lãnh đạo, quản lý
của phụ nữ trong hệ thống chính trị tại tỉnh Thái Nguyên về cả số lượng và chất
lượng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tỷ lệ và năng lực tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ
trong Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên.
* Phạm vi nghiên cứu:
Giới hạn thời gian nghiên cứu: Từ năm 2001 cho đến nay
Giới hạn không gian nghiên cứu: Tại tỉnh Thái Nguyên
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, nhà nước về phụ nữ, phụ nữ tham gia công
tác lãnh đạo, quản lý.
Luận văn kế thừa các thành tựu nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của một số
tác giả trong và ngoài nước về giới, bình đẳng giới, nữ quyền và vai trò lãnh đạo của
phụ nữ trong đời sống chính trị - xã hội.
*Phương pháp nghiên cứu
5
Các phương pháp cụ thể tác giả áp dụng khi tiến hành nghiên cứu:
+ Phương pháp lôgic kết hợp với phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh trên
góc độ chính trị - xã hội.
+ Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi và trao đổi, phỏng vấn
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp các nguồn tư liệu, số liệu
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu kết quả nghiên cứu với
các kết quả nghiên cứu khác để đánh giá thực trạng cụ thể của địa bàn nghiên cứu
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã tổng hợp các đặc điểm phụ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo và điều
kiện cơ bản để nâng cao tỷ lệ, năng lực phụ nữ tham gia vào quá trình quản lý, lãnh
đạo. Kết quả nghiên cứu này sẽ làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về điều kiện
để nâng cao tỷ lệ và năng lực quản lý, lãnh đạo của phụ nữ.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thực trạng phụ nữ ở tỉnh Thái
Nguyên tham gia công tác lãnh đạo, quản lý tại địa bàn tỉnh và đề xuất giải pháp đẩy
mạnh khả năng và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho phụ nữ tỉnh Thái Nguyên nói riêng
và khả năng lãnh đạo, quản lý của phụ nữ nói chung.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những độc
giả quan tâm, nghiên cứu về vấn đề phụ nữ trong quản lý và lãnh đạo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Để lý giải nguyên nhân tại sao hiện nay phụ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo nói
chung và tham gia quản lý, lãnh đạo trong hệ thống chính trị nói riêng với số lượng ít,
chất lượng chưa cao. Đồng thời, để có sở cứ xây dựng các nhóm giải pháp thực tiễn
thúc đẩy sự tham gia quản lý, lãnh đạo của phụ nữ. Tác giả tiến hành nghiên cứu,
phân tích một số khái niệm và xây dựng khung lý thuyết trên cơ sở quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, nhà nước ta về
vai trò, vị trí của phụ nữ trong đời sống xã hội nói chung và đời sống chính trị nói
riêng.
1.1. Các khái niệm công cụ
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả có sử dụng một số khái niệm làm công
cụ cho quá trình phân tích, tổng hợp. Các khái niệm này được làm sáng tỏ trong
chừng mực mà mục đích nghiên cứu đặt ra.
1.1.1. Khái niệm giới, bình đẳng giới, định kiến giới, bất bình đẳng giới
Khái niệm giới
Khái niệm khoa học nhân văn về giới gồm nam giới và nữ giới. Liên quan đến
vấn đề giới cần phân biệt hai khái niệm giới tính tự nhiên (sex) và giới tính xã hội
(Gender).
Giới tính tự nhiên (sex) là sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học (cấu
tạo hooc môn, nhiễm sắc thể, các bộ phận sinh dục…). Sự khác biệt này liên quan tới
quá trình tái sản xuất giống nòi. Giới tính tự nhiên có tính bẩm sinh, tính đồng nhất,
tính không đổi và không thay đổi.
Giới tính xã hội – giới tính văn hóa (Gender) hay còn được gọi tắt là giới: Là
các quan niệm, thái độ, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội của
nữ giới và nam giới trong bối cảnh xã hội cụ thể. Giới tính xã hội mang đặc trưng xã
hội, do dạy và học mà có, có tính đa dạng, biến đổi theo hoàn cảnh xã hội, thay đổi
theo không gian, thời gian.
Theo quan điểm của Naila Kabeer, giới được hiểu là quá trình mà bằng cách
đó các cá nhân được sinh ra trong những phạm trù sinh học của đàn ông và đàn bà
7
trở thành những phạm trù xã hội về phụ nữ hoặc nam giới thông qua việc đạt được
những phẩm chất được xác định bởi nam tính và nữ tính.
Giới là một sản phẩm của xã hội văn hóa. Giới biểu hiện bởi tính lịch sử và
tính xã hội. Vấn đề giới hiện diện một cách khách quan trong xã hội và vận động,
biến đổi cùng sự vận động, biến đổi của lịch sử. Vai trò giới được xác định theo văn
hóa, không theo khía cạnh sinh học. Giới không chỉ đề cập đến nam và nữ, mà cả mối
quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ ấy, có sự phân biệt về vai trò, trách
nhiệm, hành vi hoặc sự mong đợi mà xã hội đã quy định cho mỗi giới.
Giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợi được tạo nên
với hai giới tính. Trong khi “con trai” hay “con gái” là những yếu tố sinh học thì việc
trở thành một phụ nữ hay một nam giới là một quá trình văn hóa.
Giới được tạo thành không chỉ trong gia đình mà trong cấu trúc của tất cả các
thiết chế xã hội chủ yếu hay nói cách khác, vai trò giới đã được xã hội hóa. Chính
điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của cả hai giới. Trong hoạt động quản lý,
lãnh đạo, các khuôn mẫu giới đã ảnh hưởng tới năng lực lãnh đạo của cả hai giới.
(Điều này sẽ được chứng minh trong nghiên cứu ở chương 2)
Nói tóm lại, giới (gender) là một khái niệm, một phạm trù, một điều kiện, một
thành tố then chốt khi xem xét sự phân tầng xã hội, là một công cụ để xem xét và
phân tích một thể chế. Nhưng giới đồng thời cũng là một sự nhận thức hay quan điểm
chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới.
Nhận thức đúng đắn về giới, thay đổi các quan điểm về giới và hành vi của
các giới sẽ tạo ra bình đẳng cho cả hai giới tham gia tích cực vào các hoạt động trong
đời sống xã hội.
Bình đẳng giới
Theo quan điểm của World Food Progamme: “Bình đẳng giới là một thuật
ngữ phản ánh một sự chia sẻ bình đẳng về quyền lợi giữa nam và nữ giới, trong sự
tiếp cận bình đẳng của họ về giáo dục, sức khỏe, quản lý và lãnh đạo, bình đẳng về
tiền lương, về số đại biểu quốc hội và về những cái khác”
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới WB: “Bình đẳng giới là sự bình đẳng
trong việc tiếp cận nguồn nhân lực, vốn và các nguồn lực sản xuất khác, bình đẳng
trong trả lương/ thù lao công việc và trong tiếng nói.”
8
Theo điều 5 luật bình đẳng giới của Việt Nam: “Bình đẳng giới là việc nam và
nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của
mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành
quả của sự phát triển đó.”
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, bình đẳng giới được hiểu là bằng
nhau, ngang nhau và như nhau trên các lĩnh vực cơ bản của cuộc sống.
Bình đẳng giới trong chính trị là bình đẳng về cơ hội, điều kiện, cách tiếp cận
giữa nam giới và nữ giới, làm sao hai giới phát huy được các quyền của mình trong
đời sống chính trị như quyền bầu cử, ứng cử, quyền được đào tạo, bổ nhiệm….
Thực hiện bình đẳng giới trong chính trị là một nội dung quan trọng trong
chiến lược phát triển quốc gia. Sự bình đẳng nam – nữ trong lĩnh vực chính trị ở Việt
Nam được thể hiện ở những điểm sau:
1. Nam và nữ bình đẳng với nhau trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia
hoạt động xã hội.
2. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy
ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan.
3. Nam, nữ bình đẳng trong bầu cử, ứng cử vào các tổ chức của hệ thống
chính trị, các tổ chức xã hội.
4. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi đề bạt, bổ nhiệm
vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
Bình đẳng giới có hai bình diện: Bình đẳng trong các quyền cơ bản và bình
đẳng trong cơ hội phát triển. Bình đẳng trong các quyền cơ bản được thể hiện ở sự
bình đẳng ở các lĩnh vực của đời sống xã hội và đời sống chính trị như các quyền về
kinh tế, quyền về chính trị, văn hóa, giáo dục…Đảm bảo được các quyền cơ bản cho
cả hai giới là đảm bảo được những điều kiện sống tối thiểu cho họ. Bình đẳng trong
cơ hội phát triển là một điểm then chốt trong quan niệm mới về công bằng.
Các quyền cơ bản và các cơ hội phát triển của cả hai giới được pháp luật nước
ta quy định khá rõ ràng, chi tiết. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch sử, xã hội và
văn hóa cho nên phụ nữ vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại khi tham gia vào đời
sống chính trị xã hội, đặc biệt là tham gia hoạt động quản lý, lãnh đạo.
9
Xuyên suốt lịch sử loài người và trải qua các nền văn hóa thì quyền lãnh đạo
luôn gắn liền với đàn ông. Quyền lực là công việc của đàn ông. Nhưng thông qua các
cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới, nữ giới đã và đang tham gia vào lãnh địa vốn được
coi là lãnh địa độc quyền của nam giới - lãnh địa chính trị và họ đã khẳng định được
vị thế, vai trò của mình trong các hoạt động chính trị. Tuy nhiên sự tham gia vào đời
sống chính trị của giới nữ còn có những bất tương xứng cả về số lượng và chất lượng.
Bất bình đẳng giới
“Bất bình đẳng giới là một hiện tượng nảy sinh trong quá trình phát triển của
nhân loại. Bất bình đẳng giới là sự không ngang bằng nhau giữa cá nhân nam giới và
nữ giới, giữa các nhóm nữ giới và nam giới trong các cơ hội, việc tiếp cận các nguồn
lực và sử dụng, hưởng thụ những thành quả xã hội” [53,tr.101]
Bất bình đẳng giới chính là sự phân biệt, đối xử theo địa vị, quyền lực và uy
tín giữa nam giới và nữ giới trong xã hội. Sự phân biệt đối xử theo giới đã phản ánh
những thiên vị về giới. Sự tiếp cận của nữ giới với quyền lực kinh tế và chính trị còn
xa với tương xứng với số lượng, nhu cầu và những đóng góp của họ. Nhiều thế kỷ đã
qua, nam giới được xã hội hóa để thực thi quyền uy, nữ giới được xã hội hóa để phục
tùng quyền uy. Đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu để khắc phục.
Hiện tượng bất bình đẳng giới hiện nay vẫn xuất hiện với một phổ khá rộng từ
trong gia đình đến ngoài xã hội. Phụ nữ là những người đóng góp lớn cho gia đình và
xã hội song đa phần các chức vụ quan trọng vẫn do nam giới nắm giữ, nam giới được
coi là “trụ cột” gia đình, ở cơ quan nam giới là thủ trưởng, là những nhà lãnh đạo đầy
quyền uy, phụ nữ vẫn chỉ là những người phục tùng quyền uy. Điều này ảnh hưởng
sâu sắc tới các hoạt động tham gia quản lý, lãnh đạo của phụ nữ.
Bình đẳng giới không chỉ là vấn đề của phụ nữ, vì phụ nữ, do phụ nữ thực hiện
mà là vấn đề đòi hỏi sự tham gia của cả nam và nữ, của cả cộng đồng xã hội để đảm
bảo quyền lợi hài hòa, ổn định giữa các cá nhân trong xã hội.
Định kiến giới
“Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc
điểm, vị trí, vai trò, năng lực của nam hoặc nữ” [28,tr.9]. Các định kiến giới là một
tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho nam
giới hay nữ giới.
10
Những định kiến về nữ giới cho rằng, phụ nữ yếu đuối, tự ti, thụ động, thứ yếu,
phụ thuộc và là người không có tính ra quyết định, ngược lại những đức tính mạnh
mẽ, độc đoán...lại được “khoác” lên định kiến đối với nam giới. Chính các định kiến
này đã hạn chế nữ giới hoặc nam giới tham gia vào những công việc mà họ có khả
năng làm và thậm chí làm rất tốt.
Định kiến giới, gây bất lợi cho cả nam giới và nữ giới, nhưng nữ giới ở vị thế
bất lợi nhiều hơn, thể hiện trên nhiều khía cạnh. Một trong những định kiến giới biểu
hiện khá rõ là gắn phụ nữ với vai trò gia đình, coi việc nội trợ, chăm sóc gia đình,
nuôi dạy con cái là của phụ nữ. Từ suy nghĩ đó, nhiều phụ nữ đã bị hạn chế trên con
đường học tập, lao động, phấn đấu và vươn lên trong sự nghiệp, làm hạn chế khả
năng tham gia công việc xã hội của phụ nữ, đặc biệt là quá trình tham chính, phụ nữ ít
được đề bạt, bổ nhiệm vào chức vụ lãnh đạo.
1.1.2. Khái niệm quản lý, lãnh đạo
Khái niệm quản lý
Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của các cá nhân,
các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm nhằm thực hiện mục tiêu
chung của tổ chức. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về
quản lý. Các nghiên cứu về quản lý đã phát triển rất nhanh, rất mạnh, trở thành cái gọi
là “Rừng lý thuyết quản lý”.
Trong từ điển Webster: “Quản lý là tổ chức, lãnh đạo các nguồn lực nhằm đạt
được kết quả mong muốn”.
Pierre. G. Bergeron định nghĩa về quản lý như sau: “Quản lý là hành động của
việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các hoạt động của các thành viên
của một tổ chức để thực hiện các mục tiêu của tổ chức đó.” [34, tr.467]
Tựu chung lại: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có ý thức hướng mục
đích của chủ thể vào đối tượng theo một quy trình nhất định nhằm đạt hiệu quả tối ưu
so với yêu cầu đặt ra” [53,tr.105]. Quản lý chính là “bắt người khác làm” và “đảm
bảo cho mọi việc được làm”, là “đưa những người khác vào khuôn khổ cho họ thực
hiện được những cái mà họ phải làm” [34, tr.138]
Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật dẫn dắt một tổ chức đạt mục
đích, mục tiêu. Quản lý là một hiện tượng xã hội phản ánh mối quan hệ của con
11
người, đặc trưng bởi tính hướng đích, tổ chức, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh nhằm
đảm bảo thực hiện các mục tiêu xác định của cả hệ thống xã hội.
Khái niệm lãnh đạo
Lãnh đạo là một phạm trù của chính trị học và quản lý học, là một trong những
khái niệm quan trọng nhất trong khoa học về tổ chức - nhân sự. Đó là một quá trình
ảnh hưởng, mang tính xã hội trong đó lãnh đạo tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của
cấp dưới nhằm đạt mục tiêu của tổ chức. Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn
dắt hành vi của cá nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức.
Qua nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu các định nghĩa về lãnh đạo của các ngành
khoa học khác nhau cho thấy, dù các khoa học khác nhau, đưa ra các cách định nghĩa
khác nhau nhưng suy cho cùng thì đều thống nhất ở nội dung : Lãnh đạo là chỉ
đường, vạch lối, hướng tới mục tiêu cuối cùng. Lãnh đạo là việc khuyến khích, ảnh
hưởng và thúc đẩy người khác đạt được mục tiêu nhất định và người lãnh đạo là
người có đặc điểm, phẩm chất và năng lực thực hiện hoạt động lãnh đạo.
Nói tóm lại, lãnh đạo là những tác động có ý thức của chủ thể quản lý vào đối
tượng bị quản lý trên cơ sở phát huy một cách tối đa những năng lực của cấp dưới
nhằm đạt tới hiệu quả cao nhất những mục tiêu của tổ chức.[53,tr.251]
Trong khoa học chính trị, lãnh đạo là sự dẫn dắt xã hội bằng chính trị và đạo đức
của người đứng đầu; là một chức năng cơ bản của đảng cầm quyền, lãnh tụ quốc gia
nhằm đưa đất nước đến các mục tiêu nhất định
Mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý
Khái niệm lãnh đạo và khái niệm quản lý là hai khái niệm khác nhau. Lãnh đạo
đề ra chủ trương, đường lối, nguyên lý, sách lược, định phương pháp hoạt động cho
một tổ chức, đơn vị. Quản lý là điều khiển, tổ chức thực hiện công việc. Lãnh đạo
quan tâm tới những vấn đề chiến lược, những mục tiêu lâu dài. Quản lý chú trọng
những yêu cầu có tính chiến thuật, mục tiêu cụ thể. Lãnh đạo tác động đến ý thức con
người, quản lý sử dụng con người như một nguồn lực, bên cạnh nguồn tài lực và vật
lực. Chủ thể lãnh đạo có thẩm quyền cao hơn, lớn hơn các chủ thể quản lý.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, tác giả không đi sâu nghiên cứu,
phân tích sự khác biệt giữa quản lý và lãnh đạo. Tác giả chỉ tìm hiểu khái niệm quản
lý, lãnh đạo để làm cơ sở phân cấp đối tượng nghiên cứu.
12
- Xem thêm -