Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phong trào yêu nước chống pháp của nhân dân thanh hóa cuối thế kỷ xix (1885-1895...

Tài liệu Phong trào yêu nước chống pháp của nhân dân thanh hóa cuối thế kỷ xix (1885-1895)

.PDF
275
107
50

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ QUÝ THU PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN THANH HÓA CUỐI THẾ KỶ XIX (1885 - 1895) LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2006 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ QUÝ THU PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN THANH HÓA CUỐI THẾ KỶ XIX (1885 - 1895) Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại Mã số : 62 22 54 05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Khánh GS.NGND Đinh Xuân Lâm HÀ NỘI - 2006 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: THANH HÓA TRƯỚC KHI PHONG TRÀO YÊU NƯỚC 14 CHỐNG THỰC DÂN PHÁP BÙNG NỔ (THÁNG 7-1885) 1.1. Vài nét về vị trí chiến lược, truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân Thanh Hóa 14 1.2. Tình hình tỉnh Thanh Hóa trước khi phong trào Cần Vương bùng nổ (7-1885) 21 TỪ CĂN CỨ ỔN LÂM - KỲ THƯỢNG ĐẾN KHỞI 32 Chương 2: NGHĨA BA ĐÌNH (1885 - 1887) Căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng và đội nghĩa quân của Nguyễn Ngọc Phương 32 2.1.1. Khởi nghĩa Ba Đình và phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa những năm 1886 - 1887 46 Chương 3: KHỞI NGHĨA HÙNG LĨNH BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI 82 2.1. CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở THANH HÓA (1887 - 1895) 3.1. Căn cứ Bồng Trung - Đa Bút (Vĩnh Lộc) 82 3.2. Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao… với phong trào miền Tây Thanh Hóa 111 ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT VÀ KINH NGHIỆM CỦA 134 Chương 4: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP Ở TỈNH THANH HÓA CUỐI THẾ KỶ XIX 4.1. Đặc điểm, tính chất của phong trào 134 4.2. Vị trí, nguyên nhân thất bại và kinh nghiệm về phong trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX 148 KẾT LUẬN 163 NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN 168 TỚI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 170 PHỤ LỤC 185 DANH MỤC CÁC HÌNH (BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ) Số hiệu Tên hình Trang hình 2.1a Các cứ điểm trong phong trào chống Pháp ở Nông Cống 39 2.1b Sơ đồ căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng 39 2.2a Căn cứ phòng ngự Ba Đình 48 2.2b Sơ đồ diễn biến trận chiến Ba Đình 48 2.3a Cứ điểm phòng ngự Ba Đình và Mã Cao 52 2.3b Sơ đồ căn cứ Mã Cao 52 3.1 Sơ đồ hoạt động của nghĩa quân Tống Duy Tân - Cao Điển 89 3.2 Căn cứ Trịnh Vạn của Cầm Bá Thước ở Thường Xuân 113 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có dân số đông, giữ một vị trí quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nhân dân Thanh Hóa có truyền thống yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm. Cuối thế kỷ XIX, sau khi thực dân Pháp dùng vũ lực buộc triều đình Huế ký Hiệp ước Hác-măng (25-8-1883) và Pa-tơ-nốt (6-6-1884), áp đặt nền bảo hộ của chúng lên toàn bộ đất nước ta, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu văn thân đã bùng nổ mạnh mẽ, quyết liệt, góp phần cùng nhân dân cả nước ngăn cản quá trình bình định quân sự và tiến hành khai thác bóc lột trên qui mô lớn của chúng, tô đậm thêm những trang sử hào hùng của nhân dân Việt Nam nói chung, của nhân dân Thanh Hóa nói riêng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do có vị trí lịch sử đặc biệt quan trọng, cho nên từ lâu nay, phong trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa đã được đề cập đến trong rải rác nhiều công trình và thể loại xuất bản phẩm, cả trong các tài liệu nghiên cứu và tài liệu thông sử của các tác giả trong và ngoài nước. Những công trình này đã giúp người đọc phần nào hiểu được những nét cơ bản về diễn biến của phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa, với những cuộc khởi nghĩa và lãnh tụ tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình, Hùng Lĩnh và các thủ lĩnh nghĩa quân như Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao... hay hoạt động của nghĩa quân Cần Vương ở một số căn cứ, một số khu vực riêng lẻ miền ven biển, vùng đồng bằng, vùng rừng núi. Nhưng nhìn lại, cho tới nay phong trào chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX vẫn chưa đề 2 cập một cách cặn kẽ, chi tiết để có được cái nhìn tổng thể, thấy rõ vị trí và ý nghĩa của nó đối với xứ Thanh nói riêng và cả nước nói chung. Nghiên cứu phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX là nhằm làm sáng tỏ một cách toàn diện, hệ thống về quá trình hình thành và phát triển các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Thanh Hóa trong khoảng 10 năm (từ 1885-1895). Những hoạt động tiêu biểu của nghĩa quân ở các căn cứ và các cuộc khởi nghĩa; xác định mối quan hệ giữa phong trào của nhân dân Thanh Hóa với phong trào các tỉnh khác. Trên cơ sở đó, đưa ra nhận xét, đánh giá về đặc điểm, tính chất, vị trí, nguyên nhân thất bại, và kinh nghiệm của phong trào. Đề xuất giải pháp bảo tồn hiện trạng, tôn tạo các di tích liên quan đến các yếu nhân và các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ thứ XIX. Kết quả nghiên cứu sẽ làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác giảng dạy và học tập, nghiên cứu cho cán bộ và sinh viên chuyên ngành Lịch sử Việt Nam ở các trường đại học, cao đẳng trong cả nước và cho những ai quan tâm đến vấn đề này. Đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các tầng lớp nhân dân nhất là cho thanh thiếu niên ở Thanh Hóa nói riêng, cả nước nói chung. Vì những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: "Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX (1885 - 1895)" làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử của mình. 2. Lịch sử vấn đề Khi viết về phong trào Cần Vương chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX, các tác giả Pháp, trong đó có cả những người đã từng trực tiếp tham chiến, đã thừa nhận phong trào kháng chiến ở Thanh Hóa có vị trí quan trọng, diễn ra trên địa bàn có ý nghĩa chiến lược, có ảnh hưởng đến địa bàn Bắc Bộ và miền Trung. Vào tháng 10-1886, Paul Bert lúc đó là Tổng trú sứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ đã viết: "Tình hình các tỉnh phía Bắc Trung Kỳ, đặc biệt là 3 Thanh Hóa, đã khiến chúng ta phải lo lắng... Tầm quan trọng của khởi nghĩa, cung cách tổ chức của họ, vùng giàu có phong phú, tầm quan trọng chính trị như là quê hương của hoàng tộc, những mối quan hệ các dòng sông lớn chảy qua Lào..." [65, tr. 59-60]. Tổng kết hoạt động quân sự của Pháp ở Đông Dương, Daufès đã viết: "Trong chiến dịch Thu - Đông 1886 - 1887 cuộc công hãm Ba Đình là cuộc chiến đấu quan trọng nhất" [65, tr. 60]. Các sử gia của triều đình Nguyễn và bọn tay sai đã hằn học khi nhắc đến phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hóa với dụng ý xuyên tạc, bôi nhọ, nhưng trong một chừng mực nào đó cũng phải thừa nhận tầm vóc to lớn của các sự kiện đó. Trần Lục (cha Sáu), tên thầy tu phản động được thực dân Pháp phong chức "Khâm sai tuyên phủ sứ" sau khi kéo quân vào Thanh Hóa cùng bọn xâm lược đánh dẹp phong trào, trong báo cáo gửi cho quan thầy cũng phải nhận định rằng: Các huyện như Ngọc Sơn (Tĩnh Gia), Nông Cống, Đông Sơn, Quảng Xương giặc giã tứ tung, đường chạy trận thì hiểm trở, tướng giặc đồn tại làng Thạch Đồng, Ổn Lâm thuộc huyện Nông Cống, giả dân cạo trọc đầu, trắng răng chực toan lấn sang Yên Định, Thọ Xuân, Quảng Hóa... quân giặc thế ngày thêm hống hách [65, tr. 60]. Sách "Đại Nam thực lục chính biên" bộ quốc sử của triều Nguyễn cũng phải dành tới 11 lần nói về phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa [20, tập 37, tr. 47; 82; 126; 141; 152; 170; 174; 243-244; 255; 271; 307]. Trước Cách mạng tháng 8-1945, dưới ách thống trị của đế quốc Pháp, việc nghiên cứu lịch sử các phong trào chống Pháp là điều cấm kỵ. Tuy vậy, bộ "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim trong các phần viết về "sự đánh dẹp của các quân quan thực dân" cũng đã gián tiếp nói đến phong trào vũ trang chống Pháp, nhưng sơ lược và có dụng ý hạ thấp ý nghĩa, giá trị lịch sử của các phong trào. Đề cập đến phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa, Trần Trọng Kim chỉ có vài dòng nói về hoạt động của Hà Văn Mao, nhưng lại nhấn 4 mạnh đến các chi tiết phản ánh hạn chế của phong trào như việc nghĩa quân đốt phá làng đạo, còn các phong trào khác hầu như không được đả đụng tới. Cũng dưới thời Pháp thuộc, chúng ta biết đến một cuốn sách nói về khởi nghĩa Ba Đình, đó là sách "Ba Đình truyện ký " của Phan Trần Chúc. Tuy nhiên, đấy là cuốn sách đầy rẫy những hư cấu văn học, căn cứ khoa học mỏng manh và phương pháp khảo cứu ít đáng tin cậy. Theo dòng mạch này, một số cuốn sách khi viết lịch sử về giai đoạn cận đại Việt Nam xuất bản ở miền Nam trước ngày giải phóng (1975) có đề cập tới phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa, trong bối cảnh phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, do hạn chế về tư liệu, đặc biệt do thiếu những phương pháp nghiên cứu khoa học và bị hạn chế bởi những quan điểm chính trị chống Cộng, các cuốn sách đó điển hình như: "Việt Nam quân sử" (tập II, Việt sử Tân biên) của Phạm Văn Sơn dù có nhấn mạnh đến phong trào vũ trang chống Pháp, nhưng lại biện hộ tuyên truyền cho chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ và "gắn liền cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của ông cha với cuộc chiến tranh miền Bắc chống cộng sản xâm lược"(?!). Vì vậy, những đóng góp về phương diện khoa học lịch sử của các cuốn sách này hầu như không có. Ngược với quan điểm của bọn thực dân xâm lược và tay sai, sự đánh giá của nhân dân ta đối với những chiến tích oai hùng và tinh thần hy sinh cao cả của các nghĩa sĩ chống Pháp đã được thể hiện trong các áng văn, thơ mang đậm tính cách dân gian, được lưu truyền qua các thế hệ. Trong sự nghiệp vận động giải phóng dân tộc, các nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền... và cả lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng tỏ lòng ngưỡng mộ, khâm phục, ca ngợi các chiến công của ông cha ta trong sự nghiệp đánh giặc cứu nước, trong đó có sự nghiệp của nghĩa quân Ba Đình - Hùng Lĩnh, với các tấm gương: Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân và luôn 5 coi đó là sức mạnh truyền thống, cổ vũ các thế hệ tiếp nối và quyết tâm đưa sự nghiệp cứu nước đến thắng lợi [133]. Chỉ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 và đặc biệt là từ sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954), cùng với sự hình thành và phát triển của nền sử học mácxít, truyền thống lịch sử dân tộc ta nói chung, trong đó có phong trào Cần Vương Thanh Hóa, mới thực sự được giới sử học nghiên cứu như một đối tượng của khoa học lịch sử, và nhờ đó đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần từng bước làm sáng tỏ các sự kiện, các nhân vật lịch sử của phong trào lịch sử này. Nhiều trung tâm nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở Trung ương cũng như địa phương, nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu lịch sử đã dành sự quan tâm đối với đề tài nghiên cứu phong trào vũ trang chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX. Những thành tựu nghiên cứu được phản ánh trong các luận văn khoa học, các bài báo, báo cáo khoa học, các công trình thông sử và chuyên khảo, các giáo trình giảng dạy, các sưu tập sử liệu, văn liệu, các báo cáo điền dã, trong đó có nhiều công trình đã được xuất bản. Các công trình tiêu biểu như: "Dự thảo lịch sử cận đại Việt Nam", "Lịch sử 80 năm chống Pháp" [93] của Trần Huy Liệu; "Chống xâm lăng" [35] của Trần Văn Giàu; bộ giáo trình "Lịch sử cận đại Việt Nam", 4 tập của tập thể giảng viên trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tập II "Lịch sử Việt Nam"; "Lịch sử cận đại Việt Nam" [38] [39] của Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự, Đặng Huy Vận; "Lịch sử Việt Nam" của Hoàng Văn Lân, Ngô Thị Chính [83]; "Lịch sử Việt Nam" tập 2 của Nguyễn Khánh Toàn (chủ biên), Nguyễn Công Bình, Văn Tạo, Phạm Xuân Nam, Bùi Đình Thanh; "Lịch sử Việt Nam 1858 - 1896" Viện Sử học do Vũ Huy Phúc (chủ biên) cùng Phạm Quang Trung, Nguyễn Ngọc Cơ [159]; "Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay" [25]... Những công trình vừa nêu đã đề cập đến bối cảnh phong trào kháng chiến chống Pháp dưới danh nghĩa 6 Cần Vương, khái quát sự hình thành các căn cứ địa, diễn biến trận chiến và một số nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của từng cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nói chung và nhân dân Thanh Hóa nói riêng. Ngoài ra, còn nhiều luận văn khoa học được đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu lịch sử, các tập san, nội san của khoa Sử các trường đại học: Tổng hợp, Sư phạm Hà Nội I; một số tư liệu, một số tác phẩm văn học khai thác các sự kiện, các nhân vật lịch sử liên quan đến phong trào Cần Vương Thanh Hóa cũng đã được sưu tập, công bố trong các hợp tuyển, hoặc sách tham khảo. Thêm vào đó, các luận văn tốt nghiệp cử nhân Sử học: "Bước đầu tìm hiểu phong trào Cần Vương miền biển Thanh Hóa hồi cuối thế kỷ XIX " của Nguyễn Văn Tường [134], "Tìm hiểu hệ thống căn cứ Mã Cao trong phong trào chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa hồi cuối thế kỷ XIX " của Vũ Thế Truyền [135], "Cao Thắng và vai trò của ông trong cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng" của Hoàng Việt Phương [122],... đã cung cấp một số tư liệu về từng địa phương tỉnh Thanh trong phong trào yêu nước chống Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Cần phải nhấn mạnh thêm về những đóng góp rất thiết thực và có giá trị của một số xuất bản phẩm địa phương, như: " Từ Ba Đình đến Hùng Lĩnh" [74], "Thành phố Thanh Hóa" [78]. "Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nông Cống cuối thế kỷ XIX "(1885 - 1895) [117], "Địa chí Nông Cống" [26], "Địa chí Thanh Hóa "[29], "Ba Đình - Nga Sơn " [53], v.v... Các công trình này nêu khái quát sự hình thành phong trào và cuộc chiến đấu bảo vệ các căn cứ địa diễn ra trên từng địa bàn. Riêng cuốn "Từ Ba Đình đến Hùng Lĩnh" đã tập trung trình bày trực tiếp hơn về quá trình xây dựng căn cứ Ba Đình - Mã Cao, căn cứ Hùng Lĩnh, về hoạt động chiến đấu, cũng như về ý nghĩa, kinh nghiệm đấu tranh chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa. Tháng 12 năm 1986 Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Viện Sử học Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học: "Khởi nghĩa Ba Đình 7 và phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX "nhân kỷ niệm 100 năm khởi nghĩa Ba Đình (1886-1996) [65]. Tháng 6 năm 1995 Ủy ban nhân dân huyện Thường Xuân phối hợp với Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa tổ chức: "Hội thảo khoa học về danh nhân Cầm Bá Thước" nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của ông (1895-1995) [66]. Tháng 12 năm 2002 Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Bá Thước phối hợp với Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa tổ chức: "Hội thảo khoa học danh nhân Hà Văn Mao" [67]. Các cuộc hội thảo này tập trung đánh giá vị trí, vai trò của căn cứ Ba Đình - Mã Cao, Trịnh Vạn, Điền Lư, cũng như những đóng góp của các thủ lĩnh Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao... trong việc chỉ huy nghĩa quân, xây dựng căn cứ chống Pháp ở Thanh Hóa. Chúng tôi rất đồng ý với ý kiến của Đỗ Thị Hảo khi nghiên cứu các cuộc khởi nghĩa và phong trào Cần Vương - Thanh Hóa là phải nhìn nhận trên bình diện chung của cả tỉnh: Nhìn Thanh Hóa là một hậu phương vững chắc, có thể thấy tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Ba Đình mà chỉ có những tư liệu khác trong kho tàng văn nghệ dân gian mới minh họa được nhiều nét. Ở lĩnh vực này chắc các nhà nghiên cứu folklore lịch sử sẽ phát hiện được nhiều. Còn nhìn vào kho tài liệu Hán Nôm, nếu chỉ bằng sử liệu thì sẽ ít gặp những tài liệu trực tiếp ghi chép như vậy [65, tr. 64]. Cũng theo hướng này chúng ta hãy tìm xem giữa Nguyễn Xuân Ôn - Nghệ An và Nguyễn Phương ở Thanh Hóa có quan hệ gì mà lời thơ của ông nghè Diễn Châu viếng Tú Tĩnh lại đề cao ông này đến như vậy: Khoa hoạn nhân trung đệ nhất hào Nghĩa thanh chán nhiếp quỷ phương tào 8 Nghĩa là: Trong đám văn thân đệ nhất ông Bọn giặc nghe danh phải hãi hùng [65, tr. 66]. Trên các tạp chí Lịch sử quân sự, Nghiên cứu lịch sử, một số bài đã được công bố như: "Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng tiêu biểu cho phong trào văn thân 1885-1896" của Trần Huy Liệu; "Về cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh" [111] của Trịnh Nhu, "Ba Đình làng chiến đấu độc đáo cuối thế kỷ XIX " [7], "Đinh Công Tráng với khởi nghĩa Ba Đình" [6] của Phan Trọng Báu... đã phân tích, đánh giá một số khía cạnh về quá trình xây dựng, chiến đấu bảo vệ căn cứ địa, vai trò của các thủ lĩnh... trong từng cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương chống Pháp. Cùng với trong nước, phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa cũng được đề cập tới trong các công trình nghiên cứu lịch sử Việt Nam của nhiều tác giả nước ngoài, trong đó có các sử gia phương Tây như: "Souvenirs de L' Annam et du Tonkin" (Hồi ký Trung Kỳ và Bắc Kỳ) của Masson [168], "L'Indochine: erreurs et dangers" (Đông Dương: Những sai lầm và hiểm họa) của F.Bemard [161], "Trois colonnes au Tonkin(1894-1895)" (Ba đạo quân ở Bắc Kỳ) của Galliéni [163], "Histoire militaire de l'Indochine de 1664 à nos jours" (Lịch sử quân sự xứ Đông Dương từ 1664 đến nay) [165], "Vietnamese Anticolonialism, 18851925" (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân (1885-1925) của David G. Marr [173]... đã đề cập tới sự hình thành, tác dụng của một số căn cứ địa, sự đối phó vất vả của Pháp. Đáng chú ý là luận án tiến sĩ của Charles Fourniau bảo vệ năm 1983 với công trình: "Les contacts Franco - Vietnammiens en Annam et au Tonkin de 1885 à 1889" (Những đụng độ Pháp - Việt ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ từ 1886 đến 1889) đã khai thác từ nhiều nguồn lưu trữ tại Pháp. Luận án tiến sĩ sử học của Nina S.ADAMS, năm 1978, Đại học tổng hợp Yale (Hoa Kỳ), đã dành một chương trong năm chương nói về phong trào kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam (1885-1895). Dựa trên nhiều tư liệu quý hiếm, tác giả 9 có nhiều nhận định khá khách quan về cả hai phía Việt - Pháp... [89]. Tuy vậy, vẫn cần phải kiểm định lại không những về cách đánh giá mà cả về những tư liệu đã được sử dụng. Gần đây có tác phẩm của ông Yoshiharu Tsuboi - người Nhật Bản, giáo sư đại học ở Tokyo "Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 1885" [150], đã cho ta "nhiều tư liệu cho đến nay chưa được biết và chưa được công bố hay đã công bố mà chưa được sử dụng, hoặc sử dụng mà chưa đúng tầm quan trọng" [150, tr. 7]. Khi viết về phong trào Cần Vương, ông Yoshiharu Tsuboi chỉ nhận xét: Tuy nhiên, ngay khi vua Hàm Nghi tung ra hịch chiếu kháng chiến vào tháng 7 năm 1885, thì họ (tức nghĩa quân Cần Vương - TG) liền đoàn tụ lại và xuất hiện như một lực lượng quốc gia. Tuy nhiên công trình nghiên cứu của phong trào đó có lẽ vượt quá mức giới hạn của tập sách này [150, tr. 330-331]. Như vậy, chỉ có nền sử học mácxít của dân tộc đã góp phần to lớn trong việc khôi phục lại bức tranh lịch sử của những sự kiện anh hùng trong quá khứ, đồng thời khẳng định ngày càng rõ tầm vóc cuộc chiến đấu chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa nói riêng và phong trào chống Pháp của nhân dân cả nước nói chung. Từ 1980 đến 2000 có các công trình liên quan đến phong trào này được đánh giá cao là "Từ Ba Đình đến Hùng Lĩnh" của tác giả Đinh Xuân Lâm và Trịnh Nhu, xuất bản năm 1995; "Khởi nghĩa Ba Đình và phong trào kháng Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX", kỷ yếu hội thảo khoa học, xuất bản năm 1992 và "Địa chí Thanh Hóa", tập I, xuất bản năm 2000..., nhưng đều chưa phải là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về quá trình hình thành, phát triển cũng như lý giải khoa học về sự thất bại của phong trào. Mặt khác, tất cả các công trình nêu trên mới chỉ đề cập đến từng cuộc khởi nghĩa hoặc một phong trào riêng lẻ nào đó, mà chưa nêu được một cách tổng thể và toàn diện phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hóa 10 cuối thế kỷ XIX (1885 - 1895), chưa chỉ rõ đặc điểm, vị trí và mối quan hệ của các phong trào trong tỉnh và các tỉnh khác. Trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, đồng thời dựa vào nhiều nguồn tư liệu lưu trữ ở Trung ương và địa phương, ở thư viện các trường đại học, ở tỉnh Thanh Hóa và các huyện Nông Cống, Nga Sơn, Thường Xuân, Bá Thước, Yên Định, Vĩnh Lộc...; đặc biệt là tài liệu điền dã sưu tầm ở địa phương tỉnh Thanh, luận án này đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về đề tài "Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX (1885 - 1895)". 3. Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ - Luận án tập trung nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về quá trình hình thành và phát triển các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Thanh Hóa trong khoảng 10 năm (từ 1885-1895). - Những hoạt động tiêu biểu của nghĩa quân ở các căn cứ và các cuộc khởi nghĩa. - Trên cơ sở đó, đưa ra nhận xét, đánh giá về đặc điểm, tính chất, vị trí, nguyên nhân thất bại, và kinh nghiệm của phong trào. - Đề xuất giải pháp bảo tồn hiện trạng, tôn tạo các di tích liên quan đến các yếu nhân và các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ thứ XIX. 3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu + Đối tượng: Chúng tôi chọn Thanh Hóa làm địa bàn nghiên cứu, kể từ khi ở đây xuất hiện các cuộc nổi dậy chống Pháp theo danh nghĩa Cần Vương đến khi phong trào bị dập tắt (1885-1895). 11 + Phạm vi không gian: Luận án chủ yếu nghiên cứu phong trào yêu nước chống Pháp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa vào cuối thế kỷ XIX trong mối quan hệ với phong trào ở các địa phương và cả nước dưới danh nghĩa Cần Vương, cứu nước. + Phạm vi thời gian: Phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX, thực chất là phong trào Cần Vương, được chia làm các thời kỳ: - Trong thời kỳ từ năm 1885 đến đầu năm 1887, luận án tập trung trình bày các cuộc nổi dậy mang tính chất tự phát ở các địa phương rồi tiến lên xây dựng căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng và căn cứ Ba Đình. - Thời kỳ thứ hai từ đầu năm 1887 đến nửa đầu năm 1895, tập trung phản ánh phong trào đấu tranh của nhân dân Thanh Hóa mà tiêu điểm là cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh và phong trào đấu tranh chống Pháp ở miền Tây Thanh Hóa. 4. Nguồn tƣ liệu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã khai thác các nguồn tư liệu sau: 4.1. Nguồn tài liệu thành văn - Tài liệu lưu trữ ở các cơ quan trung ương và tỉnh Thanh Hóa. - Các bộ sách về địa lý và lịch sử do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn: + Đại Nam thực lục chính biên, các tập: 27, 36, 37, 38. + Đại Nam nhất thống chí, phần ghi về Thanh Hóa. - Các nguồn tư liệu khác mà chúng tôi đã liệt kê ở tài liệu tham khảo. 4.2. Nguồn tài liệu điều tra thực địa ở địa phương Bao gồm các gia phả, bản phân chia điền thổ, các loại bằng sắc, văn tế, một số sách thơ, văn ca ngợi đất nước, con người xứ Thanh. Tài liệu hồi cố, 12 ảnh các dấu tích có liên quan đến đề tài. Trong các nguồn tài liệu trên thì tài liệu có giá trị nhất là tài liệu thành văn bằng chữ Hán, chữ Pháp đặc biệt là tài liệu điền dã. 4.3. Một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về phong trào Cần Vương và phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận của luận án Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính chất của phong trào giải phóng dân tộc, về đấu tranh vũ trang và vai trò vị trí của các giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Ngoài phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là chủ yếu, luận án còn sử dụng các phương pháp như: mô tả, thống kê, so sánh, phân tích và chú trọng phương pháp tổng kết từ thực tiễn lịch sử diễn ra phong trào để rút ra những nhận xét khoa học. 6. Những đóng góp của luận án Luận án góp phần làm cho các vấn đề trong phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX (1885-1895) được hiểu sâu sắc và toàn diện hơn trên các khía cạnh cơ bản: - Phân chia quá trình phát triển của phong trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX qua hai giai đoạn 1885 -1887, 1887-1895. - Phục dựng lại diễn biến và các hoạt động của các đội nghĩa quân chống Pháp dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh: Nguyễn Ngọc Phương, Phạm Bành, Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao... 13 - Luận án có thêm đóng góp mới, thể hiện ở căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng của Nguyễn Ngọc Phương (Nam Thanh Hóa); căn cứ Mã Cao (Yên Định); căn cứ Điền Lư của Hà Văn Mao (Bá Thước); căn cứ Mường Kỷ của Hà Văn Nho (Bá Thước) về các nhân vật, cấu trúc cứ điểm quân sự cũng như các trận chiến ở đây. - Luận án đã nêu lên một số đặc điểm nổi bật, tính chất, vị trí, mối quan hệ giữa phong trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa với các tỉnh, góp phần tổng kết lịch sử phong trào Cần Vương nói riêng, phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX của cả nước nói chung. - Đề xuất một số ý kiến nhằm gìn giữ, tôn tạo các di tích để giáo dục truyền thống và phục vụ mục đích du lịch lịch sử. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Thanh Hóa trước khi phong trào yêu nước chống thực dân Pháp bùng nổ (tháng 7 - 1885). Chương 2: Từ căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng đến khởi nghĩa Ba Đình (1885-1887). Chương 3: Khởi nghĩa Hùng Lĩnh - bước phát triển mới của phong trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa (1887-1895). Chương 4: Đặc điểm, tính chất và kinh nghiệm của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở tỉnh Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX. 14 Chương 1 THANH HÓA TRƢỚC KHI PHONG TRÀO YÊU NƢỚC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP BÙNG NỔ (THÁNG 7-1885) 1.1. VÀI NÉT VỀ VỊ TRÍ CHIẾN LƢỢC, TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA NHÂN DÂN THANH HÓA 1.1.1. Về vị trí chiến lƣợc Thanh Hóa - một tỉnh nằm giữa Bắc Bộ và Trung Bộ, có vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc. Do đặc điểm địa lý đó, Thanh Hóa trở thành một địa bàn hết sức quan trọng về mặt quân sự trong các cuộc chiến tranh. Xét về mặt địa hình, tỉnh Thanh Hóa có đủ ba vùng miền: vùng núi rộng lớn chiếm ba phần tư diện tích toàn tỉnh, vùng đồng bằng ven biển và vùng biển rộng lớn với 120 km đường biển. Địa hình đa dạng phức tạp, ngay giữa đồng bằng cũng có rất nhiều đồi núi kéo dài đến tận biển (dãy núi Tam Điệp). Trên vùng đất thuộc đồng bằng Thanh Hóa, cư dân người Việt cổ đã hình thành, tồn tại và phát triển. Những phát hiện khảo cổ học ở Núi Đọ, Quan Yên, Đa Bút, Con Moong, Hoa Lộc, Đông Sơn... đã khẳng định Thanh Hóa là một trong những trung tâm về nguồn gốc hình thành và phát triển của người Việt. Theo "Lịch sử Thanh Hóa", tập 1, con sông Mã được hình thành qua 5 giai đoạn và đến giai đoạn thứ tư, tức là vào giai đoạn Toàn Tân sớm, con sông này mới thực sự là sông miền đồng bằng, rồi sang giai đoạn thứ năm thì châu thổ sông Mã ổn định, có dạng như hiện nay. Thanh Hóa cũng có nhiều con sông lớn như sông Mã, sông Chu, sông Yên, và đều khởi nguồn từ miền rừng núi bao la phía Tây của tỉnh. Bên cạnh đó còn có nhiều hệ thống kênh do thiên tạo và nhân tạo nối liên thông giữa các sông với nhau... 15 Thanh Hóa là một tỉnh giàu có về mặt kinh tế tự nhiên: lên rừng có nhiều sản vật, nguồn thức ăn hết sức phong phú; đồng bằng được bồi đắp bởi các sông lớn phì nhiêu, là nơi cung cấp nguồn lương thực đáng kể. Dưới biển có các loại, loài hải sản phong phú có thể phục vụ tốt đời sống cho con người. Về mặt vị trí, nằm giữa miền Bắc và miền Nam rộng lớn, miền Trung bị thắt lại, như một chiếc "đòn gánh" gánh hai đầu đất nước. Tỉnh Thanh Hóa lại ở vị trí địa đầu của miền Trung, là điểm đầu nút của cán xoong. Muốn tiến vào Nam phải vượt qua điểm nút này và khi ra Bắc cũng vậy. Tỉnh Thanh Hóa có miền rừng núi rộng lớn, phía Bắc giáp tỉnh Sơn La, Hòa Bình; phía Tây giáp Lào. Trong chiến tranh, nếu làm chủ được địa bàn rừng núi Thanh Hóa sẽ là bàn đạp tiến xuống đồng bằng, hoặc khi rút lui có thể sang vùng Hòa Bình, lên Tây Bắc rồi qua Trung Quốc, hoặc sang rừng núi đất Lào ở phía Tây. Như vậy, ở góc độ quân sự, tỉnh Thanh Hóa là một địa bàn lợi hại khi có chiến tranh hoặc trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhất là khi tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch. Thực tế lịch sử cho thấy, tỉnh Thanh Hóa có thể vừa là tiền phương vừa là hậu cứ chiến lược quan trọng trong các cuộc chiến tranh, trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Kết luận đó có tính lịch sử tất yếu khách quan trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc: - Trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thế kỷ I (40- 43) bị thất bại, nữ tướng Lê Hoa đã lui về ẩn ở vùng Nga Sơn. - Đô Dương, người làng Giàng, đã lui về quê làm căn cứ chống lại giặc Ngô. 16 - Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Triệu năm 248 cũng lấy địa bàn Thanh Hóa làm căn cứ, ở ngay núi Nưa (vùng Triệu Sơn, Nông Cống). - Dương Đình Nghệ - Ngô Quyền tiến ra Bắc từ Ái Châu. - Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 xứ quân lấy Thanh Hóa làm hậu cứ. - Lê Hoàn chống Tống, bình Chiêm cũng lấy Thanh Hóa làm đất căn bản. - Nhà Lý tiến ra Bắc, lấy Thanh- Nghệ làm đất phên dậu phía Nam. - Nhà Trần rút lui chiến lược về đây và phản công chiến lược cũng từ đây. - Nhà Hồ lui về Thanh Hóa đóng kinh đô ở thành An Tôn. - Khởi nghĩa Lam Sơn lấy rừng núi Thanh Hóa làm nơi tụ nghĩa, nơi phất cờ khởi nghĩa (Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước...). Thời Trung hưng nhà Lê, Nguyễn Kim lui về Thanh Hóa sang đất Lào lập căn cứ rồi sau đó đánh chiếm Thanh Hóa làm đất căn bản... Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Thanh Hóa là nơi hậu cứ, hậu cần cung cấp và vận chuyển lương thực cho các chiến trường Lào và Điện Biên Phủ, Thanh Hóa còn là nơi sơ tán các cơ quan trung ương, đồng bào khu Ba. Hai lần chiến tranh phá hoại trên miền Bắc của đế quốc Mỹ, Thanh Hóa được coi là điểm tắc lý tưởng dưới cái nhìn của các nhà quân sự Mỹ và Hàm Rồng là điểm tắc lý tưởng ấy. Đế quốc Mỹ đã tập trung đánh phá Hàm Rồng Nam Ngạn và tỉnh Thanh Hóa hết sức ác liệt nhưng chúng đã thất bại. Như vậy, hầu như trong lịch sử, nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc đều diễn ra hoặc lấy chỗ dựa căn bản trên đất Thanh Hóa, Thanh Hóa không chỉ là một vùng quần cư lâu đời, một vùng kinh tế, văn hóa phát triển của đất nước mà còn là địa bàn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất