`````
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ THU THỦY
PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI
CHÍNH - NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ THU THỦY
PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI
CHÍNH - NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Học viện Khoa học – xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học – xã hội xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Thu Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG,
CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG.........6
1.1. Lý luận về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàngError! Bookm
1.2. Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng:............................................................................................................... 14
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA
TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY............................................................................................................. 22
2.1. Tình hình hoạt động rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại
Việt Nam thời gian qua [9]............................................................................. 22
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh
vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam.......................................................... 27
2.3. Thực thi pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính ngân hàng tại Việt Nam.................................................................................. 49
2.4. Hiệu quả của pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính
– ngân hàng tại Việt Nam............................................................................... 61
2.5. Những hạn chế tồn tại trong các quy định pháp luật phòng, chống rửa
tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng........................................................ 63
Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM............................................................................................................. 68
3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong
lĩnh vực tài chính - ngân hàng......................................................................... 68
3.2. Nâng cao hiệu quả thực thi quy định pháp luật phòng, chống rửa tiền
trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng............................................................... 70
KẾT LUẬN............................................................................................................ 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 81
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động rửa tiền đã và đang trở thành một vấn nạn nguy hiểm đối với các
quốc gia trên toàn thế giới và là vấn đề được cả cộng đồng quốc tế quan tâm. Hoạt
động rửa tiền gây ra mức độ tổn thương đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã
hội, chính trị, an ninh, quốc phòng của tất cả các quốc gia ở nhiều mức độ khác
nhau và ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đối với những quốc gia đang phát triển có
sức đề kháng yếu. Các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng
bố được thừa nhận rộng rãi nhất toàn cầu là 49 khuyến nghị của Lực lượng đặc
nhiệm tài chính về phòng, chống rửa tiền (Financial Action Task Force - viết tắt là
FATF). FATF là một cơ quan liên chính phủ được thành lâp năm 1989 bởi Bộ
trưởng các quốc gia thành viên nhằm đưa ra các chuẩn mực thúc đẩy việc thực thi
có hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền. Tính đến thời điểm hiện tại, có hơn 190
quốc gia toàn cầu đã cam kết thực thi các khuyến nghị của FATF thông qua mạng
lưới các tổ chức khu vực kiểu FATF (FATF-Style Regional Bodies - viết tắt là
FSRB) toàn cầu và các thành viên, 09 FSRBs toàn cầu có vai trò thiết yếu trong việc
thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các khuyến nghị của FATF và đóng góp ý kiến
cho việc dự thảo các chính sách của FATF.
Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (Asian/Pacific
Group on Money Laundering - viết tắt là APG), thành viên liên kết của FATF là mô
hình FSRB tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương, kể từ khi được thành lập đến nay,
số lượng thành viên của APG không ngừng tăng và hiện có 41 thành viên và một số
quan sát viên quốc tế và khu vực. Nhiệm vụ của APG là phòng chống rửa tiền và tài
trợ khủng bố (Anti-Money Laundering/ Counter-Financing Terrorist- viết tắt là
AML/CFT) trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Việt Nam với tư cách là thành
viên của APG, cần có những động thái đóng góp vào sự phát triển của chuẩn mực
quốc tế về chống rửa tiền, với mục tiêu đó, trong 5 năm qua, các Cơ quan Quốc hội,
Chính Phủ của Việt Nam đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác phòng,
chống rửa tiền và đã có những nỗ lực để triển khai ngày càng có hiệu quả hơn cơ
chế phòng, chống rửa tiền thông qua việc ban hành và triển khai có hiệu quả các
quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
1
Tài chính - ngân hàng là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh
tế quốc gia, do đó, việc bảo vệ lĩnh vực này khỏi sự xâm hại của vấn nạn rửa tiền là
vô cùng cấp bách, trong đó việc xây dựng và triển khai có hiệu quả pháp luật về
phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực này cực kỳ quan trọng. Để góp phần làm rõ
được thực trạng pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng tại Việt Nam hiện nay và đưa ra một số kiến nghị nâng cao hiệu quả phòng,
chống rửa tiền theo pháp luật trong lĩnh vực này, học viên lựa chọn thực hiện đề tài
“Phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng theo pháp luật Việt
Nam hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, một số công trình nghiên cứu về pháp luật về phòng chống rửa
tiền như Luận văn thạc sĩ: “Lý luận và thực tiễn về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh
vực hải quan” của tác giả Nguyễn Ngọc Linh – Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà
Nội; Luận văn “Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam” của
Thạc sĩ Lê Xuân Hiền...
Nhìn chung các nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu các vấn đề về phòng,
chống rửa tiền trong một số lĩnh vực cụ thể, trong đó cũng nêu ra các nội dung tổng
quan về vấn đề rửa tiền bao gồm khái niệm, quy trình, cách thức cũng như hậu quả
của hành vi rửa tiền, đối với luận văn của Thạc sĩ Lê Xuân Hiển liên quan đến
phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đã nêu ra thực trạng rửa
tiền diễn ra qua hệ thống ngân hàng và cách thức các ngân hàng phòng, chống rửa
tiền qua hệ thống của mình, tuy nhiên hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về
phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam hiện nay
nhìn nhận trên phương diện pháp luật, tại Luận văn của mình, học viên đưa ra cái
nhìn tổng quan về vấn đề rửa tiền trong đó có khái niệm, cách thức, quy trình rửa
tiền, cách thức để phòng, chống rửa tiền, trong đó pháp luật được coi là phương
thức hiệu quả hữu hiệu, và khác với các công trình nghiên cứu trước đây, tại Luận
văn của mình, Học viên đã đưa ra vấn đề thực trạng pháp luật về phòng, chống rửa
tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng tại Việt Nam và các biện pháp nâng cao
hiệu quả của hoạt động phòng, chống rửa tiền theo pháp luật về tài chính – ngân
hàng tại Việt Nam.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính
- ngân hàng và thực trạng các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong
lĩnh vực tài chính – ngân hàng tại Việt Nam hiện nay và việc thực hiện các quy định
pháp luật này trong thực tế, qua đó, nhìn nhận được các thiếu sót về quy định pháp
luật, cũng như những yếu tố tác động đến việc thực hiện chưa hiệu quả các quy định
pháp luật về phòng, chống rửa tiền, là nguyên nhân dẫn đến công tác phòng, chống
rửa tiền còn hạn chế, chưa thực sự hiệu quả, trên cơ sở đó luận văn có đề xuất quan
điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính
- ngân hàng theo pháp luật tại Việt Nam, góp phần tăng cường hiệu quả phòng,
chống rửa tiền nói chung tại Việt Nam, bảo đảm minh bạch nền kinh tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Trước hết cần làm rõ khái niệm về rửa tiền thông qua các văn bản pháp lý
trên thế giới và các phương thức, quy trình rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng cũng như cách thức mà các quốc gia trên thế giới sử dụng để thực hiện phòng,
chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, làm rõ pháp luật phòng, chống
rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng được quy định như thế nào trên thế
giới.
- Tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về phòng, chống
rửa tiền, rà soát các quy định liên quan phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài
chính – ngân hàng, qua đó làm rõ thực trạng pháp luật về phòng, chống rửa tiền
trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam hiện nay so với pháp luật phòng,
chống rửa tiền trên thế giới và cần đánh giá việc thực thi các quy định pháp luật về
phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong thực tế.
- Qua quá trình tổng hợp và nhận thức về thực trạng pháp luật phòng, chống
rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng và thực thi trong thực tế, phải làm rõ
được các hạn chế về pháp luật phòng, chống rửa tiền cũng như những tồn tại dẫn
đến việc thực thi pháp luật phòng, chống rửa tiền kém hiệu quả qua đó đề xuất giải
3
pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng
theo pháp luật tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu về pháp luật phòng, chống rửa tiền
trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng theo pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật;
những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường, phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là
quản lý nhà nước bằng pháp luật; và hoàn thiện hệ thống pháp luật (bao gồm cả pháp
luật về phòng, chống rửa tiền) trong xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu, thực hiện đề tài gồm:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống. Qua việc nghiên cứu tài liệu
trong và ngoài nước về phòng, chống rửa tiền, phương pháp phân tích được sử dụng
để đi sâu xem xét nội dung của pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng; phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát các yêu cầu cơ
bản của pháp luật về phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Từ
việc tìm hiểu, khảo sát thực tiễn hoạt động phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng ở Việt Nam, nghiên cứu các quy định pháp luật có liên quan,
phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh các quy định cùng loại trong pháp
luật của một số nước khác với pháp luật của nước ta, so sánh với quy định trong
4
một số lĩnh vực khác; phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích ảnh hưởng
của các quy định hiện hành có liên quan đến phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực
tài chính - ngân hàng. Cuối cùng phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát
hoá nhằm đưa ra các kết luận của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Làm rõ vai trò, yêu cầu của pháp luật về phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực
tài chính - ngân hàng; chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật về phòng, chống
rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng hiện nay và đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng theo pháp
luật tại Việt Nam nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, khả thi giúp tăng cường
hiệu quả của công tác phòng, chống rửa tiền nói chung, giảm thiểu tối đa mức độ
tổn thương rửa tiền đối với nền kinh tế quốc gia.
- Về phương diện lý luận, kết quả nghiên cứu mới của luận văn góp phần làm
sáng tỏ, phong phú những vấn đề lý luận về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng, pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền theo pháp luật nói
chung tại Việt Nam.
- Về phương diện thực tiễn, Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho nhà
nghiên cứu, các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
phòng, chống rửa tiền, cụ thể là lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Luận văn cũng là tài
liệu tham khảo cho việc học tập, giảng dạy pháp luật có liên quan đến vấn đề phòng,
chống rửa tiền.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN VÀ PHÁP
LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH –
NGÂN HÀNG
1.1. Lý luận về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân
hàng:
Định nghĩa có tính pháp lý đầu tiên về rửa tiền được nhắc đến trong một văn bản
mang tính chất quốc tế là Công Ước Viên năm 1988. Theo đó Công ước viên quy định
về tội phạm và hình phạt đối với hành vi “chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết
rằng tài sản đó có được từ buôn bán ma tuý hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm
tội, với mục đích che dấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp người nào đó liên quan đến tội
phạm hoặc hành vi phạm tội để né tránh trách nhiệm pháp lý từ các hành vi của mình;
hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa điểm, việc định
đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền liên quan đến tài sản mà
biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có; hành vi mua, tàng trữ hoặc sử
dụng tài sản khi biết rõ tài sản do phạm tội mà có” [6].
Công ước Viên chỉ quy định tội phạm nguồn của tội rửa tiền là buôn bán bất hợp
pháp ma túy, vì vậy, những hành vi phạm tội không liên quan đến buôn bán bất hợp
pháp ma túy như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế… thì không cấu
thành tội rửa tiền theo Công ước Viên. Tuy nhiên, cộng đồng quốc tế cho rằng các tội
phạm nguồn của tội rửa tiền cần phải được mở rộng lớn hơn thế, chứ không phải chỉ bó
hẹp trong hành vi buôn bán bất hợp pháp ma túy. Vì vậy, FATF và các tổ chức quốc tế
khác đã mở rộng định nghĩa của Công ước Viên về tội phạm nguồn để bổ sung cả
những hành vi phạm tội nghiêm trọng khác. Định nghĩa về rửa tiền được nhiều quốc gia
đồng thuận nhất, đó là định nghĩa rửa tiền theo Công ước Palermo năm 2000, theo đó
rửa tiền là hành vi: “chuyển đổi hay chuyển nhượng tài sản, cho dù biết đó là tài sản
do phạm tội mà có, nhằm che dấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản
đó hoặc nhằm giúp đỡ bất kỳ ai có liên quan đến việc thực hiện tội phạm gốc để lẩn
tránh trách nhiệm pháp lý do hành vi của người này mang lại; Che dấu hoặc ngụy
trang bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm sự chuyển nhượng, sự vận chuyển hoặc sở
hữu hoặc các quyền liên quan đến tài sản, dù biết tài
6
sản đó do phạm tội mà có; Nhận, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, mà tại thời điểm
nhận đã biết rằng tài sản đó do phạm tội mà có; Tham gia, phối hợp hoặc có âm
mưu thực hiện hành vi, cố gắng thực hiện hành vi hay giúp sức, xúi giục, tạo điều
kiện thuận lợi và lập kế hoạch để thực hiện bất kỳ một tội phạm nào tương ứng với
quy định tại điều này khi biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có” [5].
Theo lực lượng đặc nhiệm tài chính - FATF thì: “rửa tiền là việc xử lý thu
nhập có được do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của chúng”
[4]. Rửa tiền là hành vi rất nguy hiểm. Nó không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho
các nền kinh tế mà còn có những ảnh hưởng đến an ninh từng quốc gia, tác động
nghiêm trọng đến sự trong sạch và hoàn chỉnh của hệ thống tài chính toàn thế giới.
Hành vi rửa tiền được xem là một tội phạm xuyên biên giới và loại tội phạm quốc tế
điển hình vì hành vi này mang 2 đặc trưng chính, một là có thể xảy ra từ khi bắt đầu
đến kết thúc liên quan đến nhiều quốc gia, hai là muốn chống lại hành
vi rửa tiền hiệu quả, phải có sự hợp tác quốc tế chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế
giới.
Chủ thể của tội phạm rửa tiền là cá nhân hoặc pháp nhân có đầy đủ năng lực
hành vi, vấn đề còn gây tranh cãi hiện nay đó là chủ thể của tội phạm rửa tiền có
hay không bao hàm người đã thực hiện hành vi phạm tội nguồn (Tội phạm nguồn
của tội rửa tiền là tội phạm chính tạo ra thu nhập mà khi được rửa sẽ dẫn đến tội rửa
tiền).
Động cơ phạm tội rửa tiền rất nhiều (do nể nang, do vụ lợi về vật chất,…)
nhưng mục đích của tội phạm rửa tiền là yếu tố bắt buộc, tức là hành vi rửa tiền
phải xuất phát từ một trong hai trường hợp sau:
- Trường hợp một: Nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản;
- Trường hợp hai: Nhằm giúp đỡ người phạm tội trốn tránh các hậu quả pháp
lý do hành vi phạm tội của mình gây ra.
Người phạm tội rửa tiền có lỗi cố ý trực tiếp, họ nhận thức được đó là tiền, tài
sản do phạm tội mà có hoặc nhận biết rõ tiền, tài sản do chuyển dịch, chuyển
nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có và với mong muốn hợp pháp
hoá số tiền, tài sản đó. Mục đích của hoạt động rửa tiền là làm cho đồng tiền “bẩn”
trở nên sạch hay nói cách khác là tạo ra một khoảng cách giữa tài sản bất hợp pháp
và tội phạm nguồn nhằm trốn tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng. Những
7
đồng tiền “bẩn” thường có được từ: Nguồn tiền từ những lao động bất hợp pháp:
như buôn lậu, mua bán chất ma túy, vũ khí và các loại hàng hoá bị cấm mua bán,
trao đổi; Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tống tiền, tổ chức
đánh bạc… Nguồn tiền tham nhũng: do tham nhũng, nhận hối lộ, tham ô của các
viên chức nhà nước hoặc do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước mà có
như lợi dụng việc biết trước các thông tin về chủ trương, chính sách, quy hoạch
v.v... để trục lợi; Nguồn tiền trốn thuế: Tiền có được do trốn thuế dù thu nhập là hợp
pháp, có nguồn gốc hợp pháp. Song, vì “bẩn” nên nó không thể trực tiếp đưa vào
lưu thông, không thể sử dụng ngay được mà nó phải được “rửa sạch” thông qua rất
nhiều phương thức và thủ đoạn khác nhau. Tuy nhiên, việc người rửa tiền có đạt
được mục đích hay không còn phụ thuộc vào phương thức, thủ đoạn mà họ thực
hiện.
Rửa tiền có thể coi là một quy trình nhằm chuyển những tài sản có nguồn gốc bất
hợp pháp biến nó thành những tài sản trông có vẻ như có nguồn gốc hợp pháp, quy
trình này bắt đầu từ khi tổ chức, cá nhân nắm trong tay tài sản, tiền bẩn và kết thúc khi
số tài sản này trở thành tiền sạch và đưa vào lưu thông hợp pháp. Hoặc cũng có thể tài
sản có nguồn gốc hợp pháp (tiền sạch) nhưng chủ tài sản có các hành
vi bất hợp pháp để trốn tránh các nghĩa vụ cụ thể (ví dụ như thuế) thì tài sản trốn
tránh các nghĩa vụ này trở thành tiền bẩn, tuy nhiên, do phạm vi luận văn có hạn,
học viên chỉ tập trung đi sâu khai thác các vấn đề liên quan đến hành vi rửa tiền
biến “tiền bẩn” thành “tiền sạch”.
Quy trình rửa tiền điển hình bao gồm ba giai đoạn riêng biệt. Các giai đoạn có
thể hiện hữu theo dạng này hay dạng khác với mức độ khác nhau và thậm chí có thể
chồng chéo. Việc đánh giá đúng về ba giai đoạn này sẽ giúp xác định và phân tích
kiểu hình, phát triển các kỹ thuật để phát hiện và phòng chống rửa tiền một cách kịp
thời. Giai đoạn rửa tiền đó là:
Thứ nhất là giai đoạn cài đặt:
Khi tiền có được do hành vi bất hợp pháp được tạo ra, giai đoạn đầu tiên của
quá trình rửa tiền sẽ nhằm mục đích tách tiền có được từ tội phạm nguồn bằng cách
đưa nó vào hệ thống tài chính hoặc chuyển đổi nó thành một tài sản tài chính khác.
Việc này có thể tiến hành bằng nhiều cách, ví dụ như: gửi tiền vào ngân hàng, mua
trái phiếu hoặc chứng khoán bằng tiền mặt, mua bảo hiểm, mua bất động sản, mua
8
đá quý và kim loại quý, mua các mặt hàng xa xỉ... Những tổ chức có giao dịch liên
quan cần phải kiểm soát để phát hiện và báo cáo và phát hiện kịp thời về việc cài đặt
tiền mặt như trên. Có thể nói, hành vi cài đặt là giai đoạn nguy hiểm nhất của quá
trình rửa tiền bởi lẽ khi nó diễn ra ở các nước có pháp luật về phòng, chống rửa tiền
tuân theo chuẩn mực quốc tế và được quản lý hiệu quả, tội phạm rửa tiền sẽ tìm
cách di chuyển tiền qua biên giới để tới các vùng lãnh thổ có luật định về phòng,
chống rửa tiền được thực thi một cách yếu kém. Sau khi đã qua giai đoạn cài đặt,
tiền vẫn còn "bẩn" và dễ dàng có thể lần theo dấu vết tới đối tượng rửa tiền, nhưng
ít nhất tiền không còn ở dạng ban đầu và hình thức mới của tiền sẽ phù hợp hơn cho
các giai đoạn rửa tiền tiếp theo.
Thứ hai là giai đoạn xếp lớp:
Khi tiền bất hợp pháp được đưa vào hệ thống tài chính, mục tiêu tiếp theo sẽ là
tiếp tục tạo thêm khoảng cách giữa tiền bất hợp pháp với tội phạm nguồn. Quá trình
tạo khoảng cách này bao gồm việc tạo ra các lớp phủ phức tạp nhằm gây khó khăn
cho việc lần theo dấu vết dẫn đến nguồn tiền. Tiền càng được rửa kỹ thì càng có
nhiều lớp phủ và sẽ càng khó cho các nhà chức trách lần theo dấu vết giao dịch
thông qua các lớp đó. Các lớp phủ thường gồm chuyển giao quyền sở hữu nhằm che
giấu và/hoặc khiến cho việc xác định chủ sở hữu thực sự gặp khó khăn hoặc không
thể thực hiện được. Các lớp phủ có thể liên quan đến giao dịch tài chính cơ bản,
giao dịch tài chính phức tạp, giao dịch qua biên giới quốc tế, giao dịch sản phẩm,
giao dịch thương mại, giao dịch dịch vụ, hay bất kỳ giao dịch nào khác nhằm tạo
lớp vỏ che đậy. Số lượng và kiểu xếp lớp tuỳ thuộc vào mức độ liều lĩnh của tội
phạm, phí tổn mà tội phạm sẵn sàng mất và thời gian tội phạm sẵn sàng chờ đợi
trước khi hưởng được khoản tiền, kiến thức của tội phạm về hệ thống tài chính, kỹ
năng rửa tiền, khả năng sử dụng vốn hiểu biết và kỹ năng này để tiếp cận với đồng
đảng và quan trọng nhất là nguy cơ bị phát hiện, điều tra và truy tố bởi cơ quan thực
thi pháp luật. Các nguy cơ bị phát hiện, điều tra và truy tố bởi cơ quan thực thi pháp
luật lại phụ thuộc vào khả năng và sự sẵn sàng của các tổ chức tài chính để phát
hiện và báo cáo các hoạt động rửa tiền và khả năng phối hợp của các cơ quan điều
tra và tư pháp trong việc điều tra và truy tố các hoạt động như vậy bất cứ khi nào và
9
ở bất cứ nơi nào tội phạm hoạt động, đặc biệt là khi hoạt động tội phạm vượt qua
các biên giới quốc tế và đòi hỏi phải có hợp tác quốc tế.
Thứ ba là giai đoạn hoà nhập:
Giai đoạn cuối cùng khi số tiền bất hợp pháp, vốn đã rất khó để lần theo dấu
vết, lại được tích hợp vào nền kinh tế chính thống để có vẻ ngoài hợp pháp và sinh
lợi cho tội phạm nguồn. Số tiền này được hoà nhập dưới nhiều hình thức có thể dưới
hình thức tiền lương, quà tặng, lãi từ đầu tư, thắng cờ bạc, tiền thu từ các thoả thuận
kinh doanh có vẻ như hợp pháp, tiền thuê.. v.v… Có vô số cách để rửa tiền thông
qua các phân đoạn này. Quá trình rửa tiền rất đa dạng và liên tục phát triển tinh vi
hơn trong bối cảnh nhà chức trách có các phương pháp điều tra, phát hiện và truy tố
tốt hơn. Mỗi lần cơ quan thực thi pháp luật xóa được một phương thức rửa tiền thì
một phương thức rửa tiền mới lại xuất hiện và điều này là không thể tránh khỏi, do
đó cơ chế phòng, chống rửa tiền cũng phải ngày càng phát triển với mục tiêu hiệu
quả là tiếp tục đẩy tội phạm rửa tiền ra khỏi hệ thống tài chính và buộc chúng phải
sử dụng các phương thức rửa tiền rủi ro, khó khăn và tốn kém hơn. Bằng cách gia
tăng rủi ro và làm giảm các lợi ích của tội phạm kinh tế, chúng ta sẽ triệt hạ được
căn nguyên để loại tội phạm này tồn tại.
Rửa tiền được thực hiện trong rất nhiều lĩnh vực như: Lĩnh vực đầu tư nước
ngoài; lĩnh vực tài chính – ngân hàng (như thông qua công ty bảo hiểm, qua đầu tư
chứng khoán, hệ thống ngân hàng, vận chuyển tiền mặt..) hoặc trong các giao dịch
bất động sản, kim loại quý, tuy nhiên rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng
hiện nay là phổ biển hơn cả và chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch rửa tiền.
Việc nghiên cứu cách thức, thủ đoạn rửa tiền rất hữu ích đối với các cấp quản
lý và bản thân các tổ chức tài chính hiểu được khách hàng có dấu hiệu nghi vấn
không để đưa ra biện pháp phòng ngừa kịp thời,
Về mặt không gian, cách thức, thủ đoạn rửa tiền thể hiện dưới 5 trường hợp:
- Trường hợp 1: Các nguồn tiền được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước.
Đây là quá trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp được thu, được rửa cũng như
được tái đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó.
10
- Trường hợp 2: Lượng tiền “Bẩn” có nguồn gốc trong nước, sau đó chuyển ra
nước ngoài để rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông
trên thị trường trong nước.
- Trường hợp 3: Tiền “bẩn” được tạo ra ở nước ngoài, được tẩy rửa ở đó hay
một nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển.
- Trường hợp 4: Số tiền được rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một quốc
gia đang phát triển để sử dụng ở nơi khác, không quay lại đầu tư cho quốc gia đó.
- Trường hợp 5: Lượng tiền sau khi rửa được chuyển vào một quốc gia đang phát
triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi.
Hành vi, phương thức, thủ đoạn rửa tiền rất phong phú đa dạng, gắn liền với
khe hở trong hệ thống pháp luật mỗi nước, nhất là pháp luật hình sự, pháp luật về
tài chính, ngân hàng...
Về mặt hành vi, một số cách thức rửa tiền, thường được gọi là hình thức/kiểu
hình rửa tiền phổ biến đã được sử dụng trên toàn thế giới trong lĩnh vực tài chính –
ngân hàng gồm:
Một là, hình thức vận chuyển tiền mặt:
Đây được coi là một hình thức rửa tiền đơn giản và truyền thống vẫn đang
được sử dụng rộng rãi. Thực tế cho thấy việc sử dụng phương pháp này đang có
chiều hướng gia tăng vì một số chính phủ đã quản lý hệ thống tài chính của họ hiệu
quả hơn. Theo phương pháp này, bọn tội phạm hoặc đồng phạm của chúng chỉ cần
thực hiện hành vi đơn giản là mang tiền qua biên giới. Sau khi qua biên giới, tiền có
thể được đổi sang nội tệ và được sử dụng để chi trả cho tài khoản ngân hàng, đầu tư,
mua hàng v.v… Thông thường tiền được di chuyển từ quốc gia nơi tiền có được do
phạm tội hình sự được tạo ra và di chuyển đến các quốc gia mà ở đó chúng có thể
được sử dụng hoặc cài đặt vào hệ thống. Quốc gia là điểm đến của luồng tiền thu
được do phạm tội này thường là các quốc gia có luật lệ và/ hoặc kiểm soát phòng,
chống rửa tiền yếu kém. Phương pháp này thường được gọi là buôn lậu tiền mặt số
lượng lớn. Lợi ích chủ yếu của phương pháp này ngoài tính giản đơn thì có ưu điểm
là không để lại dấu vết kiểm toán và rất khó để lần theo nguồn gốc của tiền.
Hai là, rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm:
11
Tội phạm có thể sử dụng tiền thu được để mua bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm.
Sau một khoảng thời gian, hợp đồng bảo hiểm có thể được hoàn trả bằng séc và có vẻ
như là một nguồn tiền hợp pháp. Đôi khi hợp đồng bảo hiểm có thể được sử dụng như
là tài sản thế chấp thể thực hiện các giao dịch khác (ví dụ như vay nợ, mua hàng).
Ba là, rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng:
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đã và đang trở thành một trong những mô
hình rửa tiền mà bọn tội phạm ưa thích sử dụng. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là
việc lợi dụng những kẻ hở trong các quy định giao dịch, cho vay của ngân hàng để
thực hiện tẩy rửa tiền. Một trong những ưu điểm nổi bật của phương thức này là nếu
thực hiện trót lọt, dấu vết của đồng “tiền bẩn” gần như được xóa bỏ hoàn toàn.
Đồng tiền đội lốt hợp pháp được bổ sung vào dòng chảy vốn của nền kinh tế một
cách tự nhiên. Hơn nữa, trên thế giới hầu như nước nào cũng có hệ thống ngân
hàng. Càng ở những nước có quy định về phòng, chống rửa tiền sơ khai, việc lợi
dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền càng thuận lợi hơn.
Bốn là, rửa tiền thông qua các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền tệ/
chuyển nhượng giá trị/các hệ thống chuyển tiền thay thế:
Hệ thống ngân hàng chính thức dựa trên các quy tắc và quy định nghiêm ngặt
và hiệu lực pháp lý của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh chuyển tiền của họ.
Vi phạm các quy định và luật lệ được điều chỉnh thông qua cưỡng chế hành chính
và hình sự. Nếu hợp đồng bị vi phạm, các bên có quyền viện dẫn tới quy định của
pháp luật trong nước và quốc tế. Khách hàng của các ngân hàng chính thức đặt niềm
tin vào "hệ thống". Ngược lại, các hệ thống phi chính thức dựa một mạng lưới các
mối quan hệ dựa trên sự tin tưởng giữa các nhà cung cấp dịch vụ chuyển tiền. Các
nhà cung cấp phi chính thức này sẽ ở trong mạng lưới chừng nào họ còn được các
đối tác và khách hàng của họ tin cậy. Khách hàng đặt niềm tin vào mối quan hệ cá
nhân hơn là hệ thống. Vì lý do đó, hệ thống chuyển giao giá trị không chính thức
thường được gọi là hệ thống tín thác. Thường, các hệ thống tín thác này có thể
chuyển tiền rẻ hơn và nhanh hơn so với các hệ thống chính thức do có tổng chi phí
hoạt động thấp và không mất chi phí tuân thủ theo quy định.
Năm là, thông qua hình thức cổ phần và các loại chứng khoán khác:
12
Chứng khoán là một công cụ tài chính có thể trao đổi được đại diện cho một
giá trị tài chính. Có nhiều loại chứng khoán khác nhau. Trong trường hợp này, trái
phiếu cũng giống như tiền mặt ở chỗ giúp cho việc che giấu danh tính cũng như truy
xuất nguồn gốc, tuy nhiên giá trị của chứng khoán đó có thể là lớn hơn nhiều so với
giá trị của tiền mặt (lưu ý trên thực tế, tiền tệ là một hình thức trái phiếu vô danh
ở cấp độ thấp). Vì lý do đó, các trái phiếu và chứng khoán vô danh có thể cực kỳ
hấp dẫn đối với tội phạm rửa tiền và trốn thuế.
Việc rửa tiền dù thông qua hình thức nào đi nữa cũng đều gây ra những hậu
quả khó lường cho nền kinh tế, chính trị và xã hội không chỉ một mà nhiều quốc gia
khác nhau trên thế giới, làm xói mòn hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị gia tăng
tội phạm, làm suy yếu các doanh nghiệp và tổ chức tài chính, ảnh hưởng tiêu cực tới
khu vực kinh tế tư nhân. Tiền bẩn bóp méo giá trị thực tế của các tài sản cá nhân,
làm giảm tính minh bạch của thị trường và gây khó khăn cho quyết định chi tiêu và
đầu tư, làm chệch hướng nguồn lực cho đầu tư phát triển. Ở cấp độ vĩ mô, rửa tiền
có thể bóp méo toàn bộ nền kinh tế do nó làm chệch hướng phân phối tài sản và đầu
tư khỏi những lĩnh vực hiệu quả và có năng suất tới những lĩnh vực kém hiệu quả và
kém năng suất hơn; từ các sản phẩm và dịch vụ có hiệu quả xã hội sang các sản
phẩm và dịch vụ kém hiệu quả xã hội. Do đó, việc áp dụng các biện pháp phòng,
chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng được các quốc gia đánh giá là vô
cùng cấp thiết để bảo hộ nền kinh tế quốc gia. Nhìn chung, hầu hết các quốc gia
phát triển đều đã thực hiện biện pháp phòng, chống rửa tiền cơ bản như sau:
Thứ nhất, Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
Hiện nay, tại hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng, chống rửa tiền.
Thời gian ban hành Luật ở mỗi nước có khác nhau, tùy thuộc vào quy mô, mức độ
tác hại của rửa tiền đối với quốc gia đó. Tuy nhiên, Luật phòng, chống rửa tiền ở
các nước có một số đặc điểm chung như: (i) Luôn hướng đến việc tuân thủ các
khuyến nghị của FATF; (ii) Liệt kê tất cả các tội danh liên quan đến rửa tiền; (iii)
Yêu cầu các tổ chức tài chính thực hiện quy tắc nhận biết khách hàng; (iv) Quy định
mức giao dịch phải báo cáo; (v) Các dấu hiệu của giao dịch đáng ngờ; (vi) Trách
nhiệm, quyền hạn của cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
13
Thứ hai, Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền. Hầu hết
các quốc gia đều xây dựng cho mình một cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa
tiền. Nhiệm vụ của cơ quan này là giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống rửa
tiền. Có hai mô hình hoạt động cơ bản: Mô hình thứ nhất, cơ quan phòng, chống rửa
tiền là đơn vị trực thuộc bộ máy Chính phủ, thường là trực thuộc ngân hàng trung
ương, trợ giúp chính phủ thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh việc
thực hiện chức năng giám sát thi hành Luật phòng, chống rửa tiền, cơ quan này còn
thực hiện chức năng thu thập các thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý báo cáo
giao dịch đáng ngờ và đề xuất các biện pháp liên quan đến công tác phòng, chống
rửa tiền. Mô hình thứ hai, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị hoàn toàn độc lập
với bộ máy Chính phủ, không chịu sự chi phối của bất kỳ đơn vị nào trong bộ máy
chính phủ. Nó có quyền hạn, chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn. Ưu điểm
nổi bật của mô hình này là đảm bảo sự độc lập, khách quan trong điều tra rửa tiền.
Thứ ba, Thiết lập quy trình nội bộ về phòng, chống rửa tiền và đánh giá khách
hàng, phân loại rủi ro.
Thứ tư, Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ. Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có
dấu hiệu bất thường liên quan đến rửa tiền được quy định cụ thể trong các văn bản
quy phạm pháp luật của từng quốc gia.
Thứ năm, Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về
phòng, chống rửa tiền. Ngày nay, hành vi rửa tiền không chỉ thực hiện trong phạm
vi một quốc gia mà còn có thể thực hiện xuyên suốt từ quốc gia này đến quốc gia
khác. Do vậy, công tác phòng, chống rửa tiền rất cần sự hợp tác của các quốc gia
trong việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm.
1.2. Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng:
Pháp luật về phòng, chống rửa tiền là tổng hợp các quy phạm pháp luật mang
tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong quá trình thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ
chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; Do tội phạm rửa tiền là loại tội phạm quốc tế điển
hình, nên các quốc gia trên thế giới sẽ xây dựng các quy tắc mang tính bắt buộc
chung dựa trên các tiêu chuẩn được quốc tế thừa nhận, một bộ tiêu chuẩn quốc tế đã
14
được Lực lượng Đặc nhiệm Tài chính (FATF) xây dựng dựa trên các Công ước
quốc tế liên quan đến phòng, chống rửa tiền đó là 40+9 khuyến nghị của FATF về
chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, và được hơn 130 quốc gia thông qua và trở thành
chuẩn mực về phòng chống rửa tiền. Hiện nay có hơn 190 quốc gia toàn cầu cam
kết thực thi bộ khuyến nghị, theo yêu cầu của khuyến nghị các quốc gia cần xây
dựng một hệ thống pháp lý bảo đảm các nội dung cơ bản sau:
1.2.1. Phạm vi của tội rửa tiền:
Việc đầu tiên tại luật pháp các nước cần hình sự hóa tội rửa tiền trên cơ sở
Công ước Viên và Công ước Palermo và áp dụng tội phạm rửa tiền vào tất cả các
tội nghiêm trọng với mục đích tập hợp thành một phạm vi rộng nhất các tội phạm
nguồn của tội rửa tiền. Các tội phạm nguồn của tội rửa tiền cần bao trùm cả hành vi
xảy ra tại một quốc gia khác mà hành vi đó cấu thành tội phạm tại quốc gia đó,
đồng thời nó cấu thành tội phạm tiền thân nếu nó xảy ra trong nước. Ngoài ra các
quốc gia cần đảm bảo rằng chủ ý và nhận thức cần thiết để chứng minh tội rửa tiền
là phù hợp với chuẩn mực nêu trong Công ước Viên và Palermo, bao gồm khái
niệm cho thấy trạng thái đó có thể suy ra từ hoàn cảnh và thực tế khách quan. Và
đảm bảo rằng trách nhiệm hình sự, dân sự hoặc hành chính sẽ được áp dụng với cả
các cá nhân và pháp nhân.
1.2.2. Quy định các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài
chính – ngân hàng đối với các định chế tài chính:
- Cần có các quy định về việc cập nhật, theo dõi thông tin khách hàng (CDD):
Yêu cầu các định chế tài chính phải thực hiện nhận dạng khách hàng và xác
minh nhận dạng của khách hàng thông qua việc sử dụng những tài liệu, các dữ liệu
và thông tin gốc, độc lập, đáng tin cậy, xác định chủ sở hữu thụ hưởng và thực hiện
các biện pháp thích hợp để xác minh nhận dạng của chủ sở hữu thụ hưởng để định
chế tài chính an tâm rằng định chế này biết được chủ sở hữu thụ hưởng là ai. Đối
với các pháp nhân và các thoả thuận pháp lý, các định chế tài chính cần áp dụng các
biện pháp thích hợp để hiểu được quyền sở hữu và cơ cấu kiểm soát của khách
hàng, phải lấy thông tin về mục đích và bản chất của quan hệ kinh doanh.
15
Ngoài ra còn phải thực hiện cập nhật thông tin khách hàng thường xuyên đối
với quan hệ kinh doanh và kiểm soát kỹ lưỡng các giao dịch được thực hiện trong
quá trình duy trì mối quan hệ đó để đảm bảo rằng các giao dịch đang tiến hành phù
hợp với những hiểu biết của định chế tài chính về khách hàng đó, về hoạt động kinh
doanh và về những rủi ro, khi cần thiết bao gồm cả nguồn gốc vốn của khách hàng
đó. Thực hiện các biện pháp CDD đặc biệt đối với những người có quan hệ chính
trị, đối với hoạt động ngân hàng đại lý qua biên giới hoặc các quan hệ tương tự, chú
ý đặc biệt tới bất cứ mối đe doạ về rửa tiền nào có thể phát sinh từ các công nghệ
mới hoặc đang phát triển có thể có lợi cho người nặc danh
Duy trì, lưu giữ ít nhất trong 5 năm, tất cả các hồ sơ cần thiết về các giao dịch cả
trong nước và quốc tế, cũng như các dữ liệu nhận dạng có được trong quá trình CDD,
Chú ý đặc biệt tới tất cả các giao dịch lớn, bất thường, phức tạp và tất cả các khía cạnh
bất thường của các giao dịch không có mục đích hợp pháp hay kinh tế rõ ràng
Như tại Anh, tháng 12/1990, nước Anh ban hành một loạt văn bản hướng dẫn
các ngân hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các hoạt động rửa tiền, trong đó tập
trung chủ yếu vào nhiệm vụ cảnh báo cho các cơ quan quyền lực biết những hoạt
động và giao dịch đáng ngờ. Các hướng dẫn này được xây dựng bởi Ngân hàng
Trung ương Anh và các ngân hàng thương mại với sự phối hợp, tham gia của cơ
quan tình báo quốc gia, hải quan, cảnh sát. Theo đó, ngân hàng phải đích thân nhận
dạng tất cả các khách hàng bằng mọi cách có thể, kể cả bằng cách gặp mặt trực tiếp.
Hướng dẫn cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận thông tin cá nhân, trong đó hộ chiếu
là hình thức được ưu tiên, ngoài ra các hình thức khác cũng được chấp nhận như thẻ
nhân viên, bằng lái xe… Hơn nữa, các ngân hàng phải lưu giữ tất cả các chứng từ
giao dịch trong 6 năm để phục vụ điều tra.
- Biện pháp thực hiện báo cáo các giao dịch đáng ngờ:
Nếu một định chế tài chính nghi ngờ hoặc có những cơ sở hợp lý để nghi ngờ
rằng khoản tiền này là khoản thu từ hoạt động phạm tội hoặc liên quan đến hoạt
động tài trợ khủng bố, thì theo luật định, định chế đó phải báo cáo ngay những nghi
ngờ của mình cho đơn vị tình báo tài chính.
16
- Xem thêm -