2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng nghiên
cứu sinh. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng, không trùng lặp
với các công trình khoa học đã công
bố.
Tác giả luận án
Đỗ Như Hiến
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
5
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
9
1.1.
Tình hình nghiên cứu có liên quan đến phát triển văn hóa sư phạm quân
9
sự của giảng viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam
1.2.
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên
quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết 26
Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA SƯ PHẠM
QUÂN SỰ CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
32
2.1.
Văn hóa sư phạm, văn hóa quân sự và văn hóa sư phạm quân sự của
giảng viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam
32
2.2.
Quan niệm và vai trò phát triển văn hóa sư phạm quân sự của giảng
viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam
50
2.3.
Một số vấn đề có tính quy luật phát triển văn hóa sư phạm quân sự
của giảng viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam
60
Chương 3 THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN
ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA SƯ
PHẠM QUÂN SỰ CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ Ở CÁC
NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY
77
3.1.
Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu phát triển văn hóa sư
phạm quân sự của giảng viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay
77
3.2.
Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế phát triển văn hóa sư phạm
quân sự của giảng viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt
92
Nam hiện nay
3.3.
Một số vấn đề đặt ra trong phát triển văn hóa sư phạm quân sự của giảng
viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
105
Chương 4 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA SƯ PHẠM QUÂN SỰ CỦA GIẢNG VIÊN
TRẺ Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM HIỆN NAY
119
4.1.
Định hướng phát triển văn hóa sư phạm quân sự của giảng viên trẻ ở
các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
119
4.2.
Giải pháp cơ bản phát triển văn hóa sư phạm quân sự của giảng viên
129
4
trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
160
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
162
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
163
PHỤ LỤC
172
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Chữ viết đầy đu
Bộ Quốc phòng
Chính trị quốc gia
Giáo dục-Đào tạo
Giảng viên trẻ
Nghiên cứu khoa học
Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân ủy Trung ương
Sư phạm quân sự
Văn hóa sư phạm
Văn hóa sư phạm quân sự
Chữ viết tắt
BQP
CTQG
GD-ĐT
GVT
NCKH
QĐNDVN
QUTW
SPQS
VHSP
VHSPQS
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Văn hóa SPQS là một bộ phận của VHSP, những giá trị được định hình,
phát triển trong quá trình lao động SPQS của đội ngũ nhà giáo quân đội.
VHSPQS không chỉ phản ánh nét đẹp về giá trị nhân cách nhà giáo quân đội,
mà còn có vai trò quan trọng đối với nâng cao chất lượng GD-ĐT và việc hình
thành nhân cách học viên ở các học viện, nhà trường trong quân đội.
Trước yêu cầu mới, Đảng ta chủ trương thực hiện đổi mới căn bản và
toàn diện GD-ĐT, trong đó nhấn mạnh “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn
hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo” [29, tr.117] và
“Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý
luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc…” [29, tr.115].
Quán triệt tinh thần của Đảng, quá trình xây dựng và phát triển VHSP nói
chung, VHSPQS nói riêng trong những năm qua đã đạt được những thành
tựu hết sức quan trọng, song vẫn còn không ít những vấn đề phản ảnh sự
xuống cấp nghiêm trọng của VHSP như: quan hệ thầy trò và nhiều biểu
hiện tiêu cực trong thi cử, tuyển dụng gây bức xúc xã hội và nóng cả nghị
trường Quốc hội. Do vậy, phát triển VHSP nói chung, VHSPQS nói riêng
đang đặt ra như một vấn đề bức thiết.
Phát triển VHSPQS là trách nhiệm của tất cả tổ chức, lực lượng và cá
nhân trong quân đội, nhất là ở các học viện, nhà trường trong quân đội, trong
đó đội ngũ giảng viên trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng. Giảng viên trẻ ở các
nhà trường quân đội là một lực lượng kế cận thế hệ giảng viên đi trước, trực
tiếp tham gia giảng dạy, NCKH, hướng dẫn học viên thực hành thực tập.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là
7
sự lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW, BQP, Đảng ủy Ban Giám đốc (Ban giám
hiệu) các nhà trường quân đội, cùng với sự nỗ lực học tập, tu dưỡng, rèn luyện
một cách toàn diện trong môi trường văn hóa quân sự và VHSPQS. Đội ngũ
GVT từng bước có sự phát triển về VHSPQS, hoàn thiện nhân cách nhà giáo
quân đội, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ GD-ĐT ở các
nhà trường quân đội. Tuy nhiên, quá trình phát triển VHSPQS của GVT còn
bộc lộ một số hạn chế như: nhận thức, trách nhiệm của một số chủ thể đối với
phát triển VHSPQS của GVT chưa cao; thực hiện nội dung, hình thức, biện
pháp phát triển VHSPQS chưa đồng bộ, có mặt còn bất cập. Một số GVT rèn
luyện phẩm chất nhân cách nhà giáo quân đội còn hạn chế; các giá trị VHSPQS
trong họ có mặt chưa bền vững, chưa ngang tầm nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân
lực quân sự… Thực trạng trên do nguyên nhân khách quan và chủ quan khác
nhau, nên cần thiết phải nghiên cứu luận giải, tìm biện pháp khắc phục.
Đến nay, có nhiều công trình khoa học dưới các góc độ tiếp cận, khía cạnh
khác nhau đã bước đầu nghiên cứu về GVT, văn hóa, VHSP, văn hóa quân sự và
VHSPQS, tuy nhiên, dưới góc độ khoa học triết học chính trị - xã hội chưa có
công trình nghiên cứu cơ bản, chuyên sâu nào nghiên cứu về phát triển VHSPQS
của GVT ở các nhà trường QĐNDVN. Vì vậy, đề tài: “Phát triển văn hóa sư
phạm quân sự của giảng viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay”, tác giả lựa chọn làm luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa
xã hội khoa học là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, không trùng lặp với
các công trình đã nghiên cứu.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển VHSPQS của GVT ở
các nhà trường QĐNDVN, trên cơ sở đó đề xuất định hướng và một số giải
pháp cơ bản phát triển VHSPQS của GVT ở các nhà trường QĐNDVN hiện
nay góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT và hoàn thiện nhân cách của GVT
ở các nhà trường Quân đội.
8
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, xác định vấn đề tiếp
tục nghiên cứu trong luận án.
Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển VHSPQS của GVT
ở các nhà trường QĐNDVN.
Đánh giá thực trạng phát triển VHSPQS của GVT ở các nhà trường
QĐNDVN hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Đề xuất định hướng và một số giải pháp cơ bản phát triển VHSPQS của
GVT ở các nhà trường QĐNDVN hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Phát triển VHSPQS của GVT ở các nhà trường QĐNDVN.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Từ góc độ triết học chính trị - xã hội và giá trị văn hóa
quân sự luận án nghiên cứu sự phát triển VHSPQS của GVT ở các nhà trường
QĐNDVN hiện nay.
Về không gian: Nghiên cứu, khảo sát và tham khảo số liệu về GVT ở một
số học viện, trường sĩ quan ở khu vực phía Bắc có đào tạo sĩ quan cấp phân đội
như: Học viện Phòng không - Không quân; Học viện Biên phòng; Học viện
Khoa học Quân sự, Học viện Hậu cần; Học viện Quân y; Học viện Kỹ thuật
Quân sự; Trường Sỹ quan Chính trị; Trường Sỹ quan Lục quân 1; Trường Sỹ
quan Pháo binh; Trường Sỹ quan Tăng thiết giáp; Trường Sỹ quan Đặc công.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu từ năm 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý
luận phát triển văn hóa, VHSP và con người, vai trò của con người trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa; nhiệm vụ của quân đội về GD-ĐT, về công tác xây dựng và phát
triển đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường quân đội.
9
* Cơ sở thực tiễn: Qua điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về VHSPQS
của GVT cũng như các vấn đề có liên quan đến đề tài. Luận án còn kế thừa
những báo cáo tổng kết có liên quan đến công tác GD-ĐT của đội ngũ GVT ở
một số nhà trường quân đội đào tạo sĩ quan cấp phân đội khu vực phía Bắc.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích - tổng hợp; so
sánh; điều tra xã hội học; xin ý kiến chuyên gia... để làm sáng tỏ góc độ triết
học chính trị - xã hội của vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới cua luận án
Làm rõ quan niệm và những vấn đề có tính quy luật phát triển VHSPQS
của GVT ở các nhà trường QĐNDVN.
Đánh giá thực trạng phát triển VHSPQS của GVT ở các nhà trường
QĐNDVN hiện nay và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển VHSPQS của GVT ở các nhà
trường QĐNDVN hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn cua luận án
* Ý nghĩa lý luận: Góp phần cung cấp cơ sở khoa học về VHSPQS, một
nét văn hóa chuyên biệt của GVT ở các nhà trường quân đội. Trên cơ sở đó, bổ
sung phát triển lý luận về văn hóa SPQS trong quân đội xã hội chủ nghĩa, góp
phần làm sâu sắc khoa học xã hội và nhân văn trong lĩnh vực quân sự.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp
thêm cơ sở thực tiễn để các nhà trường quân đội đề ra chủ trương, biện pháp
phù hợp phát triển VHSPQS của GVT. Đề tài có thể dùng làm tài liệu nghiên
cứu, tham khảo để giảng dạy, bồi dưỡng VHSPQS cho GVT ở nhà trường
QĐNDVN hiện nay.
7. Kết cấu cua luận án
Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu; 4 chương (10 tiết); kết luận; danh
mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài
luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến phát triển văn hóa sư phạm
quân sự cua giảng viên trẻ ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam
1.1.1. Các công trình khoa học tiêu biểu nước ngoài liên
quan đến đề tài luận án
1.1.1.1.Các công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về văn hóa,
văn hóa sư phạm
Trong công trình khoa học “Sinh thái nhân văn” [33], tác giả Georges
Olivier đã khẳng định vai trò to lớn của văn hoá đối với sự phát triển xã hội,
theo tác giả sự phát triển kinh tế không thể tách rời sự phát triển của văn hoá,
rằng không thể có sự phát triển ổn định, bền vững nếu không đồng thời quan
tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá.
Công trình đã tập trung lý giải mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát
triển văn hoá; giữa con người - sản xuất - môi trường sinh thái, mà chưa đi
sâu giải quyết tính bản sắc và phát triển của văn hoá.
Công trình khoa học “Sự phát triển văn hoá, xã hội trong bối cảnh
tăng trưởng kinh tế ở Châu Á” [68], tác giả Ogura Kazuo đã khẳng định sự
phát triển của kinh tế - xã hội chỉ thực sự bền vững khi được đặt trong mối
quan hệ với phát triển văn hoá. Bản chất của văn hoá là sáng tạo, luôn tồn tại,
phát triển trong mối quan hệ biện chứng giữa tính thống nhất với tính đa dạng
mà nếu tuyệt đối hoá bất cứ mặt nào đều có thể dẫn cả một nền văn hoá đến
sự trì trệ. Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang làm tăng thêm khả năng phụ
thuộc lẫn nhau của các nền văn hoá, nếu các quốc gia, dân tộc, ngay từ bây
giờ không xác định được cho mình một chiến lược phát triển văn hoá phù hợp
thì tất yếu sẽ bị đào thải ra khỏi quá trình phát triển.
11
Trong công trình khoa học “Trân trọng bản sắc văn hoá và tính sáng tạo
của các nền văn hoá địa phương”[102], tác giả Kawada Junzo cho rằng:
“Không có một nền văn hoá nào được tạo lập nên bằng một nền văn hoá duy
nhất; trái lại, sự trao đổi của nền văn hoá đó với các nền văn hoá khác là rất quan
trọng để đi tới sự hình thành một truyền thống mới…, khơi dậy sự sáng tạo bằng
những nỗ lực để đuổi kịp tinh thần sáng tạo” [102, tr.388]. Do đó, các quốc gia,
dân tộc ngay từ bây giờ nếu không xác định được cho mình một chiến lược văn
hoá phù hợp, sát thực thì tất yếu sẽ bị đào thải ra khỏi quá trình phát triển.
Các công trình trên đã chỉ ra rằng, để có sự phát triển bền vững, các
quốc gia, dân tộc bên cạnh sự hợp tác về kinh tế, chính trị cũng cần tăng
cường hợp tác trên lĩnh vực văn hoá, nhằm tìm ra con đường phát triển, bởi
vì, văn hoá chính là nền tảng tinh thần xã hội, là tiêu chí quan trọng để đánh
dấu trình độ phát triển của con người và xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Tuy vậy, các công trình đó mới đưa ra những phác thảo bước đầu,
mang tính định hướng phát triển văn hoá trong bối cảnh mới.
Công trình: “Giáo dục trong thực tiễn”[62], tác giả A. S. Makarenkô - nhà
giáo dục Xô Viết (1888-1939) cho rằng nhà giáo phải có phẩm chất đạo đức, yêu
nghề, có ứng xử VHSP, mẫu mực trong lời nói, ăn mặc, cử chỉ, có lý tưởng, hoài
bão ước mơ, sống lạc quan. Muốn vậy, nhà giáo phải rèn luyện và học tập không
chỉ về phẩm chất tư cách mà cả về tri thức, năng lực, văn hóa, nghệ thuật giáo dục,
dạy học. Việc đào tạo giáo viên được coi trọng cả phẩm chất nhân cách VHSP và
kiến thức lý luận, thực tiễn chuyên sâu. Giáo viên luôn được tạo điều kiện để tự
rèn luyện về đạo đức và năng lực công tác. Trong nhà trường quân sự, giảng viên
được coi trọng giáo dục về niềm tin cộng sản chủ nghĩa và tính nguyên tắc, tinh
thần hoàn hảo, sự trong sạch về đạo đức, có văn hóa, lòng tôn trọng và yêu mến
con người; sự liên hệ mật thiết với con người, những phẩm chất ý chí: sự ngoan
cường, tính kiên trì, tự chủ, quyết tâm, chủ động, tính sáng tạo của tư duy... Điều
đó khẳng định việc phát triển VHSP rất được quan tâm cả trong và sau quá trình
GD-ĐT của mỗi nhà trường.
12
Trong tác phẩm “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên” [75], theo
quan điểm của Ph. N Gônôbôlin tuy không đưa ra định nghĩa, nhưng ông đã đề
cập đến người giáo viên cần có những phẩm chất: phẩm chất đạo đức, chí
hướng; năng lực sư phạm; phẩm chất ý chí. Như vậy, theo tác giả những phẩm
chất thuộc về năng lực, ý chí, đạo đức, xu hướng,… là những phẩm chất tâm lý,
năng lực, khí chất hay bất cứ hiện tượng tâm lý nào của cá nhân.
1.1.1.2.Các công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về
văn hóa sư phạm của giảng viên, giảng viên trẻ và giảng viên
trẻ trong các nhà trường quân đội
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của các quốc gia, nhất là đối với các nước
phát triển ở châu Âu, Hội thảo của ENTEP tại Brussels (Bỉ, 6/2005) đã thông
qua đề cương “Những nguyên tắc chung về trình độ và năng lực giáo viên ở
châu Âu” (6/2005), trong đó đề cập đến bốn nguyên tắc cơ bản và ba năng lực
chủ chốt của giáo viên. Bốn nguyên tắc đó là: giáo viên phải được trang bị nền
tảng nghề nghiệp tốt, phải tốt nghiệp các cơ sở giáo dục đại học; làm việc trong
bối cảnh học tập suốt đời; giáo viên là một nghề nghiệp mang tính cơ động;
nghề nghiệp được xây dựng trên cơ sở các mối hợp tác. Ba năng lực chủ chốt
giáo viên cần có: khả năng làm việc với người khác, kể cả với các đối tác xã
hội và nuôi dưỡng tiềm năng của mỗi người học; khả năng làm việc với công
nghệ thông tin, làm việc với nhiều dạng tri thức nhằm xây dựng và quản lý môi
trường học tập; khả năng làm việc với xã hội, chuẩn bị cho người học một tinh
thần trách nhiệm toàn cầu trong vai trò là một công dân châu Âu.
Những tư tưởng về VHSP của giảng viên - người thầy giáo với yêu cao về
đạo đức nghề nghiệp đã được hình thành rất sớm trong lịch sử giáo dục nhân
loại. Khổng Tử (551-479 TCN) là người thầy vĩ đại người Trung Hoa; Ông cho
rằng, người thầy giáo trước hết phải là người mẫu mực về đạo đức, lối sống, văn
hóa. Muốn vậy, thầy giáo phải thường xuyên “sửa mình theo lễ”; phải “dạy
không biết mỏi” để trò học không biết chán và tình cảm thầy - trò phải gắn bó
như tình cảm cha con. Khổng tử đánh giá rất cao vai trò đạo đức, văn hóa của
13
người thầy, trong đó coi trọng đến thái độ, quan hệ, lối sống tốt đẹp với những
người xung quanh, đó là những giá trị VHSP mẫu mực của người thầy.
Công trình khoa học “Phương pháp giảng dạy các môn khoa học xã
hội”[98], nhóm tác giả X.G.Lucônhin và V.V. Xêrêbriannicốp đã tổng kết những
kinh nghiệm giảng dạy khoa học xã hội ở các nhà trường cao đẳng quân sự, vận
dụng những phương pháp và hình thức tiên tiến trong giảng dạy khoa học xã hội,
nhằm phổ biến kinh nghiệm giảng dạy cho tất cả các giảng viên, đặc biệt là đối
với những giảng viên mới bước vào môi trường sư phạm. Các tác giả quan niệm,
giảng viên mới là những người có tuổi nghề từ 3 đến 5 năm. Với họ, sự trưởng
thành về nhân cách phụ thuộc vào sự tham gia các hoạt động giảng dạy và
NCKH. Tuy nhiên, đối với các chủ thể ở nhà trường quân sự phải vạch ra
phương hướng phấn đấu cho họ kết hợp với kiểm tra thường xuyên quá trình
thực hiện nhằm nâng cao kiến thức lý luận và nghiệp vụ sư phạm làm cơ sở để
củng cố niềm tin, thế giới quan cộng sản chủ nghĩa và tâm lý vững chắc cho đội
ngũ giảng viên mới ở các nhà trường quân sự.
Công trình khoa học “Nghiên cứu chất lượng cuộc sống của cán bộ
giảng dạy của các cơ sở giáo dục quân sự trong quân đội Nga” [52], tác giả
M.V. Kibakin đã nêu lên vai trò của nâng cao chất lượng cuộc sống cho cán
bộ giảng dạy trong các cơ sở giáo dục quân sự quân đội Nga, là nhằm bổ sung
hiệu quả cho những giá trị cơ bản khác nhau như: tận tụy với nhiệm vụ, trung
thành, sẵn sàng tuân thủ trình tự, sẵn sàng hi sinh. Những giá trị ấy chỉ có
được khi những cán bộ giảng dạy trong nhà trường quân sự được tôn vinh và
đảm bảo chất lượng trong cuộc sống. Chất lượng cuộc sống của giáo viên
trong các trường quân sự luôn phụ thuộc vào tình trạng vật chất, tinh thần của
đơn vị và quyền lực của nhà nước. Chính vì vậy, khi tính toán chất lượng
cuộc sống của cán bộ giảng dạy không chỉ đơn thuần là đảm bảo bằng tiền thù
lao và các vật chất đảm bảo khác, mà phải đảm bảo bằng những đặc điểm của
các giá trị tham chiếu trong mối quan hệ khác nhau đối với các nhóm xã hội
tương đồng và các nhà hoạt động kinh tế.
14
Công trình”What the Bets College Teachers Do”(Phẩm chất của những
nhà giáo ưu tú) [103], tác giả KenBain cho rằng, phẩm chất của nhà giáo ưu
tú là tổng hợp nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm… Nhưng để
tích lũy, hoàn thiện những phẩm chất đó, nhà giáo phải theo đuổi những phát
triển nghệ thuật, khoa học và tri thức quan trọng trong phạm vi chuyên môn
của mình để thực hiện những nghiên cứu, đưa ra những tư tưởng mới, độc đáo
về những chủ đề mà mình quan tâm, tìm hiểu một cách thận trọng và bao quát
tất cả những gì người khác thực hiện, nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên môn.
Thường xuyên đọc thêm toàn diện về các chuyên ngành liên quan để có kiến
thức tổng hợp, tri thức toàn diện.
Cuốn sách “Niềm vui dạy học - hướng dẫn thực hành cho tân giảng
viên Đại học” [104], tác giả Peter Filence đã cung cấp cho các giảng viên mới
vào nghề những lời hướng dẫn hữu ích, giúp giảng viên xây dựng chương
trình và giảng dạy những khóa học đầu tiên mà mình đảm trách. Thay vì đề ra
một mô hình duy nhất, tác giả đã cung cấp một cách nhìn hoàn toàn mới về
vai trò của giảng viên và chỉ ra những ưu khuyết điểm của nhiều chiến lược
sư phạm khác nhau, mời gọi các giảng viên mới đưa ra lựa chọn dựa trên tính
cách của mình, những giá trị mà mình theo đuổi và mục tiêu mà mình muốn
đạt được. Nội dung cuốn sách còn tập trung phân tích mối quan hệ ba chiều
giữa giảng viên, sinh viên và môn học. Peter Filence cho rằng, một giảng viên
giỏi phải hội tụ đủ 5 phẩm chất đó là: lòng nhiệt tình, sự rõ ràng, biết cách tổ
chức, biết cách khơi dậy và giỏi quan tâm. Trong đó, giảng viên có vai trò
quan trọng trong việc tạo ra một môi trường học tập đầy hứng khởi cho sinh
viên. Theo đó, tác giả đã hướng dẫn giảng viên cách thức, phương pháp để tạo
hứng khởi cho sinh viên trong học tập, trong xây dựng định hướng nghề
nghiệp. Giảng viên cần chú ý đến tất cả yếu tố của quá trình, từ cách xây
dựng đề cương khóa học, tổ chức giảng bài, hướng dẫn thảo luận, mở rộng
môi trường học tập đến đánh giá sinh viên.
15
Công trình khoa học “Qualities of effective teacher” (Phẩm chất người
giáo viên tốt) [108] của tác giả James H.Stronge đã cung cấp cho người đọc
về một hệ thống các yếu tố hình thành một người giảng viên tốt đó là: Việc
quan tâm học viên, lắng nghe, sự thấu hiểu về học viên; sự công bằng và tôn
trọng; tương tác xã hội với học viên; đẩy mạnh sự nhiệt tình và động lực cho
việc học tập; thái độ với công việc giảng dạy và tự đánh giá. Trong những
phẩm chất đó, tác giả đề cao mối quan hệ chặt chẽ giữa thái độ, tình cảm của
giảng viên với môn học và với học viên.
Công trình“Teacher’Professional Development” [110] (Sự phát triển
của giáo viên), tác giả Jaap Scheerens đã nhấn mạnh đến những yếu tố tạo nên
sự phát triển của giảng viên đó là phong cách, năng lực giảng dạy và kết quả
của việc giảng dạy. Ba yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó,
phong cách, năng lực giảng dạy của giảng viên là điều kiện để giảng viên thực
hiện có hiệu quả việc giảng dạy; ngược lại, hiệu quả việc giảng dạy là thước
đo chính xác năng lực của giảng viên.
Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc:
Người thầy giáo của thế kỷ XXI phải là người chuyên môn nắm vững khoa
học cơ bản, thấm nhuần khoa học sư phạm mới dựa trên cơ sở liên ngành, có
khả năng đối thoại với sinh viên và làm quen với một vài nguyên tắc cơ bản
về giáo dục người lớn. Khuyến cáo trên muốn đi đến một khẳng định, giáo
viên phải được đào tạo để trở thành nhà giáo dục có văn hóa hơn là người thợ
dạy. Muốn vậy, họ phải được giáo dục để phát triển phẩm chất, đạo đức, văn
hóa và năng lực đáp ứng yêu cầu của công việc. Cũng trong vấn đề này,
R.Sinhg - chuyên gia giáo dục UNESCO cho rằng: Giáo viên giữ vai trò
quyết định trong quá trình giáo dục, là người mẫu mực của người học. Tất cả
đều khẳng định mục đích chính là tạo điều kiện để đội ngũ nhà giáo nâng cao
trình độ kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, VHSP của người thầy
đáp ứng với những thay đổi về kinh tế - xã hội.
16
1.1.2. Các công trình khoa học tiêu biểu trong nước liên
quan đến đề tài luận án
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn hóa
và văn hóa quân sự Việt Nam
Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn của đời sống xã hội, được các nhà
khoa học trong nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Trong công trình khoa học“Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn
2011-2020. Những vấn đề phương pháp luận” [32], tác giả Phạm Duy Đức đã
đề cập đến vấn đề thế giới quan, phương pháp luận khoa học để phát triển nền
văn hóa Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trên cơ
sở tổng kết thực tiễn 25 năm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, các nhà khoa học đã làm rõ cơ sở lý luận thực tiễn
của nền văn hóa, vai trò lãnh đạo quản lý của Đảng, Nhà nước về văn hóa, chỉ
rõ các mối quan hệ văn hóa với các lĩnh vực kinh tế xã hội, chỉ rõ quan điểm
giải pháp có tính đột phá để phát triển nền văn hóa dân tộc trong thập kỷ tới.
Những vấn đề cơ bản trên của các nhà khoa học là cơ sở phương pháp luận rất
quan trọng trong quá trình nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng sáng tạo vào phát
triển nền văn hóa Việt Nam nói chung và phát triển VHSPQS nói riêng.
Công trình khoa học“Văn hoá quân sự Việt Nam” [69], nhóm tác giả
Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh (Đồng chủ biên) đã làm rõ cách tiếp cận mới
về văn hoá quân sự Việt Nam dưới góc nhìn của một phương pháp luận Triết
học, nhất là đã phân tích và làm sáng tỏ có sự khác nhau tương đối trong quan
niệm về văn hoá quân sự và văn hoá trong quân sự, tức là trong hoạt động quân
sự và là sự khái quát cao của văn hoá giữ nước. Còn văn hoá quân sự được thể
hiện một cách đầy đủ trong việc thiết lập và xây dựng củng cố và tăng cường
nền quốc phòng toàn dân, toàn dân đánh giặc “Trăm họ là binh”.
Trong công trình khoa học“Tìm hiểu văn hoá giữ nước Việt Nam”của
Viện khoa học xã hội và nhân văn quân sự - BQP [96], nhóm tác giả đã tiếp
cận văn hoá giữ nước, văn hoá quân sự với tính cách là một bộ phận đặc thù
17
của văn hoá xã hội, những giá trị riêng có của tinh thần yêu nước và nền khoa
học nghệ thuật quân sự Việt Nam được phát minh, được kế thừa và phát triển
liên tục trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam,
được liên tục trao truyền lại và tiếp nối trong công cuộc giữ nước qua các thời
đại, thành các giá trị văn hoá vững bền, khẳng định tầm vóc cốt cách của con
người Việt Nam, theo các tác giả, trong điều kiện hiện nay, các giá trị trong văn
hóa giữ nước cần phải tiếp tục nghiên cứu để tiếp thu và phát huy, phát triển
gắn với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Công trình nghiên cứu: “Văn hóa quân sự Việt Nam với xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam về chính trị hiện nay”[49], tác giả Nguyễn Văn Hữu đã
chỉ ra quan niệm, đặc điểm hình thành, phát triển của văn hóa quân sự. Tác giả
đã khái quát văn hóa quân sự Việt Nam gồm tổng thể các giá trị văn hóa nảy
sinh và phản ánh lĩnh vực quân sự tiến bộ, cách mạng trong đời sống xã hội. Từ
khái niệm đó tác giả khái quát một số giá trị tiêu biểu của văn hóa quân sự Việt
Nam rất phong phú, tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Phân chia theo lĩnh vực
sáng tạo văn hóa, có giá trị văn hóa vật chất quân sự, giá trị văn hoá tinh thần
quân sự; phân chia theo thời gian văn hóa có giá trị văn hóa truyền thống, giá
trị văn hóa quân sự hiện đại. Tác giả cũng đã chỉ ra những yêu cầu và định
hướng cơ bản phát huy vai trò văn hóa quân sự Việt Nam trong xây dựng
QĐNDVN về chính trị trong tình hình hiện nay. Đây là tài liệu hết sức cơ bản,
làm cơ sở để tác giả đi sâu vào nghiên cứu về lĩnh vực VHSP quân sự của GVT
ở các nhà trường quân đội hiện nay.
1.1.2.2. Các công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về văn
hóa sư phạm và văn hóa sư phạm quân sự
Công trình“Nghệ thuật ứng xử sư phạm”[45], nhóm tác giả Bùi Văn
Huệ, Nguyễn Trí và Nguyễn Trọng Hoàn đã đưa ra quan điểm: Việc dạy học
và giáo dục con người vừa mang tính khoa học vừa mang tính sáng tạo và
nghệ thuật. Đối tượng giáo dục của người giảng viên là học sinh, sinh viên.
18
Trong quá trình điều khiển sư phạm phát triển nhân cách, văn hóa, đạo đức
của người học, người giảng viên phải luôn luôn giải quyết các tình huống sư
phạm đa dạng, phong phú sinh động. Nhóm tác giả cũng nêu: Trong thực tế,
có một câu hỏi luôn đặt ra là nhà giáo sẽ ứng xử thế nào khi gặp các tình
huống ứng xử VHSP. Ở lĩnh vực này không có một công thức, một đáp án bất
di bất dịch. Nghệ thuật ứng xử sư phạm sẽ cung cấp cho giáo viên các bài tập
tình huống sư phạm và kinh nghiệm ứng xử sư phạm trong các trường hợp
nan giải của ngay chính giáo viên. Từ đó, người giáo viên tìm một giải pháp
thích hợp trong nhiều sự ứng xử mà tình huống đó đòi hỏi.
Trong công trình khoa học “Lịch sử giáo dục thế giới” [79], nhóm tác
giả Hà Nhật Thăng, Đào Thanh Âm khi bàn về sự phát triển của ngành sư
phạm, VHSP đã rút ra kết luận: “Ở mỗi giai đoạn, tuy có những đặc thù riêng,
biểu hiện ở mức độ khác nhau, nhưng đội ngũ các nhà giáo có chung đặc điểm
văn hóa cơ bản: Có lòng nhân ái, vị tha, có tình cảm dân tộc sâu sắc và tự trọng
cao; Trung thực, thẳng thắn, lao động hết mình vì sự tiến bộ của xã hội, vì sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ cho mai sau; ít tham vọng chính trị, ít đòi hỏi đãi ngộ
về vật chất; sống lạc quan, giàu hoài bão ước mơ, nghị lực; thông minh, sáng
tạo trong hoạt động nghề nghiệp, trong cuộc sống; lao động trí óc là dạng lao
động đặc trưng của nhà giáo, mong muốn hoàn thiện nhân cách. Tác giả còn
chỉ rõ, trong giai đoạn hiện nay: Một trong những nét đặc trưng VHSP của
người thầy giáo là sự mẫu mực, mô phạm về mọi mặt, chuẩn về đạo đức tư
cách người thầy, thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội
ngũ giảng viên đại học hiện nay”[35] của tác giả Ngô Văn Hà đã tập trung
nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về người
thầy giáo bao gồm: vai trò, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệm vụ và
phương pháp giảng dạy của người thầy giáo. Người thầy giáo trong tư tưởng
Hồ Chí Minh có vai trò quyết định đến sự hoạt động của nhà trường và chất
lượng giáo dục, đó là con người vừa có đức vừa có tài, trong đó đạo đức là nền
19
tảng là linh hồn. Bước vào thế kỷ 21, khoa học - công nghệ phát triển mạnh
mẽ, tri thức đóng vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp phát triển kinh tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục, nhất là giáo dục đại học, trở thành
chìa khóa cho sự thành công của các quốc gia. Người thầy giáo là yếu tố quyết
định đến chất lượng của giáo dục, sản phẩm của những bài giảng là tương lai
của dân tộc. Vì vậy, theo tác giả, người giảng viên đại học phải là người tiêu
biểu về đạo đức, trí tuệ của thời kỳ hội nhập và phát triển. Chuẩn mực đạo đức
của giảng viên là chuẩn mực đạo đức của xã hội. Người giảng viên đại học là
tấm gương sáng về sự phấn đấu rèn luyện cho sinh viên noi theo, nói đi đôi với
làm, truyền cho sinh viên ý thức tự học, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức của nhân
loại, sống có trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân.
Trong công trình “Đánh giá giảng viên đại học theo hướng chuẩn hóa
trong giai đoạn hiện nay” [2], tác giả Trần Xuân Bách đã làm rõ cơ sở lý luận
của hoạt động đánh giá trong giáo dục, triết lý và nguyên tắc đánh giá giảng
viên; đồng thời, phân tích thực trạng công tác đánh giá giảng viên theo hướng
chuẩn hóa ở các nước trên trên thế giới và Việt Nam. Trên cơ sở đó, nghiên
cứu đề xuất phương pháp và quy trình đánh giá giảng viên đại học theo hướng
chuẩn hóa về các cơ sở giáo dục đại học, áp dụng vào việc đánh giá giảng
viên của đơn vị mình góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại
học trong giai đoạn hiện nay. Việc đánh giá giảng viên bao gồm cả việc thu
thập, phân tích, giải thích và sử dụng các thông tin mang tính khoa học về
giảng viên nhằm mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên.
Công trình khoa học “Một số vấn đề lý luận về nâng cao đạo đức nghề
nghiệp của nhà giáo ở nhà trường quân đội” [82], tác giả Nguyễn Thanh Tịnh
đã nhấn mạnh đạo đức nghề nghiệp là phẩm chất quan trọng hàng đầu đối với
đội ngũ nhà giáo nói chung, nhà giáo quân đội nói riêng. Nó là nền tảng, động
lực thôi thúc tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt huyết để mỗi nhà giáo phấn đấu
hoàn thành vẻ vang sự nghiệp trồng người, xứng danh với nghề cao quý mà xã
hội tôn vinh. Theo tác giả, “đạo đức nhà giáo trong các nhà trường quân đội là
20
tổng hòa những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội, quân đội,
nghề nghiệp nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử trong các mối quan hệ
chuyên môn của họ tại cơ sở đào tạo” [82, tr.45]. Đây là yếu tố nền tảng trong
nhân cách, là cơ sở để đội ngũ nhà giáo ở các nhà trường quân đội tận tâm, tận
lực với nghề, ra sức phấn đấu, rèn luyện, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ,
góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT và nguồn lực con người trong sự nghiệp
xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Công trình khoa học “Chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo quân đội hiện nay thực trạng và giải pháp”[88], tác giả Phạm Đức Tú đã khẳng định việc chuẩn
hóa đội ngũ nhà giáo quân đội là yêu cầu khách quan nhằm xây dựng đội ngũ
nhà giáo có số lượng đủ, cơ cấu hợp lý, đạt các tiêu chuẩn nghề nghiệp theo
quy định của Nhà nước, của BQP đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển GDĐT trong quân đội giai đoạn 2011-2020. Trên cơ sở đánh giá thực trạng công
tác chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo quân đội, theo tác giả, việc chuẩn hóa đội ngũ
nhà giáo “cần tập trung vào tiêu chuẩn về: trình độ học vấn; nghiệp vụ sư
phạm; trình độ đào tạo chức danh khoa học; tin học; ngoại ngữ là vấn đề cấp
thiết trong công tác chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo quân đội hiện nay” [129, tr.18].
Muốn vậy, cần phải thực hiện tốt việc thường xuyên quán triệt mục tiêu, nhiệm
vụ chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo quy định của Nhà nước, BQP; Nghị quyết
29/ BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
GD - ĐT, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đồng bộ, khả thi để từng bước chuẩn
hóa đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chủ động, quyết tâm trong
thực hiện kế hoạch chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo; nêu cao tinh thần tự học, tự rèn
của mỗi nhà giáo gắn với công tác quản lý, đánh giá, sử dụng cán bộ; có chế độ
đãi ngộ về vật chất, động viên tinh thần đối với nhà giáo.
Công trình khoa học “Bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhà
giáo quân đội” [76], tác giả Trần Thanh Sơn đã khẳng định: Đạo đức nghề
nghiệp là phẩm chất quan trọng hàng đầu đối với đội ngũ nhà giáo nói chung,
21
nhà giáo quân đội nói riêng; nó là nền tảng, động lực thôi thúc trách nhiệm,
nhiệt huyết để mỗi nhà giáo phấn đấu hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của mình,
xứng danh với nghề cao quý trong xã hội. Thông qua hoạt động giảng dạy,
người giảng viên không chỉ truyền thụ tri thức khoa học chuyên ngành mà còn
giúp người học hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp luận mácxít,
bồi dưỡng tư duy, năng lực thực hành, phẩm chất đạo đức, lối sống, phương
pháp, tác phong công tác phù hợp cương vị, chức trách được giao… Trong điều
kiện hiện nay, tăng cường bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhà
giáo là một yêu cầu khách quan trong xây dựng đội ngũ nhà giáo quân đội.
Thực hiện tốt việc bồi dưỡng sẽ là cơ sở quan trọng để các nhà giáo tận tâm,
tận lực với nghề, ra sức phấn đấu, rèn luyện, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm
vụ, góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT và nguồn lực con người trong sự
nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Công trình khoa học “Rèn luyện phong cách của người giáo viên Khoa
học xã hội và nhân văn”[89], tác giả Đinh Hùng Tuấn đã chỉ rõ cùng với
những phẩm chất sư phạm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, khả năng giao tiếp sư
phạm thì VHSP là một thành phần quan trọng tạo nên phong cách sư phạm và
là một tiêu chí để đánh giá phong cách sư phạm của người giảng viên Khoa
học xã hội và nhân văn. Rèn luyện phong cách sư phạm phải thường xuyên
chú trọng toàn diện, trong đó có rèn luyện kỹ năng, năng lực, VHSP.
Công trình khoa học “Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho học viên Hệ
Sư phạm ở Học viện Chính trị hiện nay” [91], tác giả Phan Văn Tỵ đã cho
rằng năng lực sư phạm là một bộ phận cấu thành VHSP, là yếu tố trực tiếp
quyết định đến chất lượng, hiệu quả của các hoạt động sư phạm của người
giáo viên. Năng lực sư phạm của người giảng viên được hình thành, phát
triển thông qua quá trình rèn luyện lâu dài, dần dần từng bước, bằng nhiều
con đường và biện pháp khác nhau, trong đó bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho giảng viên ngay từ khi đang học tập tại các nhà trường luôn được xem
- Xem thêm -