Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp ...

Tài liệu Phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay

.DOC
201
582
121

Mô tả:

MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1 Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến văn hóa nghề và phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp 1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học tiêu biểu đã được công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết Chương 2 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT TRONG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA NGHỀ CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP 2.1. Thực chất phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiê ̣p 2.2. Tính quy luật phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiê ̣p Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA NGHỀ CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY 3.1. Thực trạng phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiê ̣n nay 3.2. Dự báo nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay Chương 4 NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN VĂN HÓA NGHỀ CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY 4.1. Phát huy vai trò các tổ chức, các lực lượng trong phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiêṇ nay 4.2. Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương thức giáo dục, đào tạo gắn với phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiê ̣n nay 4.3. Xây dựng môi trường văn hóa, đổi mới cơ chế, chính sách và điều kiện bảo đảm phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiê ̣n nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5 10 10 26 31 31 67 79 79 115 130 130 146 155 168 170 4 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 171 186 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luâ ̣n an Văn hóa nghề là hệ giá trị nghề theo chuẩn mực chân, thiện, mỹ tạo thành dấu ấn sâu sắc trong tâm thức và hành vi ứng xử của người lao động đối với nghề nghiệp của mình, là một tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn lực lao động quốc gia, là một động lực quan trọng thúc đẩy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của người lao động nhằm nâng cao năng xuất lao động xã hội. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, thị trường trong nước và ngoài nước cạnh tranh gay gắt về chất lượng người lao động không chỉ ở kỹ năng, tay nghề mà còn ở trình độ văn hóa nghề. Trên thực tế, lực lượng lao động được đào tạo nghề ở Việt Nam hiện nay khá nhiều nhưng số lượng lao động được tuyển dụng vào các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nước ngoài lại ít, do đội ngũ lao động này thiếu văn hóa nghề, được biểu hiện ở việc tùy tiện, cẩu thả, vô tổ chức, vô kỷ luật, vô trách nhiệm, thiếu trung thực, thiếu tự giác, chưa yêu nghề, tự ti, tự phụ, thiếu tính cộng đồng, tính nhân văn. Những hành vi thiếu văn hóa nghề đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đội ngũ lao động hiện nay, dẫn đến không cạnh tranh được trên thị trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế. Do đó, việc xây dựng và phát triển văn hóa nghề cho người lao động đang trở thành vấn đề cấp thiết, là yếu tố quan trọng. Nó không chỉ tạo động lực cho việc hoàn thiện nhân cách người lao động trong xã hội công nghiệp hiện đại, mà còn tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xã hội. Bên cạnh đó, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng được thể hiện ở sự gia tăng về tốc độ, trình độ, phạm vi quốc tế hoá mọi mặt đời sống xã hội. Sự xâm nhập của văn hóa công nghiệp hiện đại từ nước ngoài vừa 5 tạo ra thời cơ, vừa tạo ra cả nguy cơ lớn. Những biểu hiện lệch chuẩn với hệ giá trị văn hóa nghề còn nhiều, làm tổn hại đến phát triển văn hóa dân tộc nói chung và quá trình hoàn thiện nhân cách người lao động Việt Nam nói riêng. Để phát triển văn hóa nghề, người lao động phải được quan tâm đến đào tạo văn hóa nghề ngay từ khi còn đang học nghề trong các nhà trường. Trong đó, các trường cao đẳng, đại học nói chung, các trường cao đẳng công nghiệp nói riêng có trách nhiệm rất lớn trong việc tạo dựng, định hướng phát triển văn hóa nghề cho người lao động bắt đầu từ học sinh, sinh viên. Học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp được đào tạo ở trình độ cao đẳng và các trình độ thấp hơn với các ngành, nghề chủ yếu thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ, kinh tế… là nguồn bổ sung quan trọng và trực tiếp cho lực lượng lao động xã hội trong tương lai. Điều đó, đòi hỏi trong quá trình đào tạo, các nhà trường không chỉ cung cấp, trang bị kiến thức, kỹ năng mà còn phải trang bị cả văn hóa nghề cho người học nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trên thực tế, việc quan tâm đến phát triển văn hoá nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của phát triển văn hóa nghề trong các trường cao đẳng công nghiệp, cần phải tiếp tục làm rõ cơ sở khoa học của hoạt động giáo dục, đào tạo trong phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên ở các trường này. Do đó, nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp là vấn đề cơ bản và cấp thiết. Đó là lý do, tác giả lựa chọn vấn đề “Phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay” làm đề tài Luận án tiến sĩ triết học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứuâ * Mục đích: Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp phát triển 6 văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay. * Nhiệm vụ: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Làm rõ thực chất và những vấn đề có tính quy luật trong phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp. Đánh giá thực trạng phát triển văn hóa nghề, chỉ rõ nguyên nhân, luận giải những vấn đề đặt ra đối với phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay. Đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứuâ * Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu bản chất và tính quy luật phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp. * Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay. Thời gian sử dụng tài liệu và điều tra, khảo sát thực tế phục vụ nghiên cứu luận án chủ yếu từ năm 2008 đến 2017. Đối tượng tập trung khảo sát, điều tra và lấy số liệu ở 8 trường cao đẳng công nghiệp trực thuộc Bộ Công Thương, khu vực phía Bắc. 4. Cơ sở lý luâận, thực tiễn và phương phap nghiên cứuâ * Cơ sở lý luận: Hệ thống các quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, đào tạo và xây dựng, phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 7 Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. * Cơ sở thực tiễn: Các báo cáo đánh giá, tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương; kết quả điều tra xã hội học, khảo sát thực tế của tác giả ở 8 trường cao đẳng công nghiệp trực thuộc Bộ Công thương, khu vực phía Bắc và các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, lãnh đạo, quản lý về công tác phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên. * Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hóa, lịch sử và lôgíc, hệ thống hoá, điều tra, so sánh, chứng minh, hệ thống - cấu trúc… Các phương pháp này được sử dụng phù hợp với từng nội dung của luận án, có tác dụng hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau để khái quát lý luận, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiê ̣n nay. 5. Những đóng góp mới của luâận an Khi nghiên cứu thành công đề tài luận án có một số đóng góp mới: Làm rõ khái niệm văn hóa nghề, văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiê ̣p, phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp; làm sáng tỏ bản chất và tính quy luâ ̣t phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp. Đề xuất các giải pháp cơ bản, đồng bộ phù hợp và có tính khả thi nhằm phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp trong giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luâận, thực tiễn của luâận an * Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu 8 sắc thêm cơ sở lý luận vấn đề phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay. * Ý nghĩa thực tiễn: Luận án cung cấp những luận cứ khoa học và giải pháp có tính khả thi giúp phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng về những nội dung liên quan đến vấn đề phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên các trường cao đẳng công nghiệp hiện nay. 7. Kết cấuâ của luâận an Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã được công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình khoa học tiêuâ biểuâ liên quâan đến văn hóa nghề và phat triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên Hiện nay, vấn đề văn hóa nghề nói chung và phát triển văn hóa nghề của học sinh, sinh viên nói riêng vẫn còn là vấn đề khá mới. Do đó có không nhiều bài viết, công trình được công bố nghiên cứu về vấn đề này. 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu có liên quan đến thực chất phát triển văn hoá nghề của học sinh, sinh viên Trong công trình Văn hóa nghề - Thước đo nguồn nhân lực [22], tác giả Vũ Dũng cho rằng: Việc đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đã không chỉ dừng lại ở các thông số về kỹ năng, trình độ tay nghề đơn thuần, mà còn ở nhận thức về nghề, ở những chuẩn mực, giá trị của người lao động, lòng yêu nghề và khả năng sáng tạo tích cực, góp phần tạo ra những nhân tố mới đem lại hiệu suất lao động cao. Đó chính là văn hóa nghề, văn hóa nghề chính là thước đo chất lượng nguồn nhân lực. Chỉ khi nào người lao động có văn hóa nghề theo đúng nghĩa của nó thì khi đó chúng ta mới có nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế đất nước. Tác giả Nguyễn Long Giao khi bàn về Văn hóa nghề - Yêu tô quan trọng trong viêc̣ nâng cao chât lương nguồn nhân lực [37], cho rằng: Văn hóa nghề có thể hiểu mô ̣t cách đơn giản là biến mô ̣t người người lao đô ̣ng lành nghề thành mô ̣t người lao đô ̣ng chuyên nghiê ̣p trên cơ sở kiến thức, kỹ năng, thái đô ̣ ứng xử, đạo đức nghề nghiê ̣p… nhằm thích nghi với môi trường nghề nghiê ̣p cụ thể. Nó được thể hiê ̣n qua những chuẩn mực căn bản thuô ̣c về văn hóa ứng xử của người lao đô ̣ng trong tâp̣ thể lao đô ̣ng và những chuẩn mực ứng xử có văn hóa trong từng ngành nghề nhất định với mô ̣t bầu không khí có văn hóa. Theo tác giả, nội dung 10 của văn hóa nghề gồm: Kiến thức, kỹ năng, thái độ và những chuẩn mực văn hóa thuộc về văn hóa ứng xử của một người lao động trong một tập thể. Những nội dung này được đào tạo ở nhà trường, các cơ sở dạy nghề. Theo tác giả đạo đức nghề nghiệp cũng là yếu tố quan trọng của văn hóa nghề. Tác giả Đặng Cảnh Khanh với vấn đề Văn hóa nghề - Thước đo nguồn nhân lực: Khơi gơi lòng yêu nghề ở giới trẻ [84], cho rằng, văn hóa nghề biểu hiện trước hết ở sự nhận thức về nghề, sự lựa chọn nghề nghiệp và việc học nghề. Nói cách khác, văn hóa nghề biểu hiện ở quan niệm về sự tiếp cận các cơ hội học nghề, lựa chọn nghề và vun đắp giá trị nghề nghiệp cho tương lai. Đáng lo nhất là giáo dục nhận thức về văn hóa nghề gắn với định hướng giá trị và hành vi nghề nghiệp trong thanh thiếu niên còn rất nhiều vấn đề đáng bàn. Tác giả khẳng định, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp là nền tảng cơ bản của quá trình tuyển chọn và sử dụng đội ngũ lao động công nghiệp. Trong công trình khoa học Nâng cao văn hóa nghề cho thanh niên yêu tô quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa [85], tác giả Đặng Cảnh Khanh đã khẳng định mỗi người lao động sẽ khó có được nhận thức và hành vi nghề nghiệp có văn hóa nếu bầu không khí xung quanh họ không có văn hóa. Chính vì vậy, vấn đề văn hóa nghề không phải chỉ tồn tại ở phạm vi các cá nhân riêng rẽ mà ở cả một thiết chế lao động, một phạm vi rộng lớn mà các nhà xã hội học gọi là “không gian văn hóa nghề”. Không phải chỉ có những người lao động nghề nghiệp mà cả những nhà đầu tư, những nhà quản lý, những nhà giáo dục, đào tạo nghề, cũng như tất cả chúng ta đều sống trong một “không gian văn hóa nghề” nhất định và đều phải biết cư xử với nó một cách có văn hóa. Tác giả Đặng Cảnh Khanh với công trình khoa học Văn hóa nghề và nâng cao văn hóa nghề cho thanh thiêu niên hiện nay [86, tr.67 - 71] cho rằng, làm ngành nghề nào trong xã hội, cũng phải có hành vi ứng xử có văn 11 hóa đối với ngành nghề đó. Văn hóa nghề nghiệp là cơ sở cho tính sáng tạo và chủ động của người lao động, tạo ra các giá trị kinh tế - xã hội và làm cơ sở cho sự sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới. Tác giả đã đưa ra quan niê ̣m về văn hóa nghề và cơ cấu nội hàm của văn hóa nghề. Theo tác giả, văn hóa nghề biểu hiện ở trình độ chuyên môn, nghề nghiệp cao, có sự hiểu biết sâu sắc về luật pháp và thực hiện đúng đắn các quy chuẩn luật pháp về nghề nghiệp và lao động nghề nghiệp, có ý thức nghề nghiệp tốt, tuân thủ một cách tự giác các giá trị đạo đức nghề nghiệp và các mối quan hệ nghề nghiệp. Một người có văn hóa nghề cao là người có đạo đức nghề nghiệp, nhận thức và xử lý các vấn đề nghề nghiệp một cách có văn hóa mà vẫn có thể đạt hiệu quả công việc cao nhất. Tác giả Trần Thị Lê khi bàn về văn hóa nghề trong công trình khoa học Vài nét về phát triển văn hóa nghề cho sinh viên hiện nay [98], cho rằng: Văn hóa nghề là một phương thức tiếp cận văn hóa ở một phạm vi hẹp, tương tự như các thuật ngữ: Văn hóa công sở, văn hóa tổ chức, văn hóa doanh nghiệp... văn hóa nghề là khái niệm dùng để chỉ tổng hòa sự nhận thức nghề, thái độ đối với nghề, hành vi ứng xử của con người cùng nghề trong quá trình lao động sản xuất. Cái cốt lõi của văn hóa nghề là đạo đức nghề nghiệp. Văn hóa nghề là việc người lao động có thể nhận thức và tiến hành những hoạt động thuộc về nghề nghiệp vừa có giá trị văn hóa lại vừa đạt được hiệu quả cao nhất. Văn hóa nghề có vai trò rất quan trọng, là một trong những động lực giúp cho người lao động làm việc có kỷ luật, sáng tạo, năng suất cao. Văn hóa nghề là cơ sở để người lao động tự giác hoạt động, chủ động tích lũy những kinh nghiệm trong lao động. Mặt khác, văn hóa nghề giúp cho họ tuân thủ những chuẩn mực trong quan hệ lao động với cấp trên, cấp dưới và đồng nghiệp. Tác giả Bùi Văn Hưng khi bàn về Giáo dục hướng nghiệp trong các trường dạy nghề [70] đã cho rằng, hướng nghiệp cho học sinh trong trường dạy nghề là việc làm hết sức quan trọng của các cơ sở đào tạo nghề. Hiện nay, 12 khi các trường phổ thông và xã hội còn chưa làm tốt chức năng hướng nghiệp thì việc điều chỉnh động cơ chọn nghề, hình thành lòng yêu nghề để yên tâm với nghề và rèn luyện nghề cho học sinh học nghề trong thời gian đang theo học tại các trường nghề là một trọng trách nặng nề đối với các cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, nếu các trường nghề làm tốt nhiệm vụ hướng nghiệp sẽ đào tạo ra những người thợ yêu nghề, có năng lực và thích ứng tốt với sự phát triển không ngừng của xã hội nói chung và nền giáo dục nước nhà nói riêng. Bàn về vấn đề định hướng nghề nghiệp, tác giả Vũ Xuân Hùng với bài viết Nên định hướng nghề nghiệp càng sớm càng tôt [59] đã cho rằng, việc định hướng nghề nghiệp cho tương lai một cách hiệu quả luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo dựng một sự nghiệp thành công cho tương lai. Theo tác giả, cần nghiêm túc nghiên cứu kỹ các xu hướng nghề nghiệp trong tương lai để giảm thiểu tối đa sai lầm, đưa ra quyết định đúng nhất. Khi đánh giá nhu cầu nghề nghiệp, nên xem xét toàn bộ nhu cầu tại tất cả các cấp độ. Cần nhìn nhận rất thực tế và thực dụng về năng lực, tính cách và hoàn cảnh nguồn lực của gia đình để lựa chọn các mức độ phù hợp với bản thân. Xác định ngành nghề phát triển tương lai rất quan trọng, cần nghiên cứu kỹ để xác định những lựa chọn nghề nghiệp cho các bạn trước khi học nghề. Trong công trình khoa học Quá trình hình thành động cơ nghề nghiệp của học viên sĩ quan ở nhà trường quân đội hiện nay [136], tác giả Nguyễn Văn Sơn cho rằng, động cơ nghề nghiệp là đối tượng thỏa mãn nhu cầu được con người phản ánh trở thành lý do thúc đẩy, định hướng họ lựa chọn, chiếm lĩnh và tham gia vào một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể nhằm đạt được đối tượng đó. Tác giả còn cho rằng, quá trình hình thành động cơ nghề nghiệp của học viên sỹ quan chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó hoạt động giáo dục, đào tạo của nhà tường có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc nhất. Tác giả Dương Thị Kim Oanh với công trình khoa học Động cơ học 13 tập của sinh viên [125], đã xác định các khái niệm động cơ, động cơ học tập của sinh viên, cấu trúc động cơ học tập, các loại động cơ học tập... Tác giả cho rằng động cơ học tập của sinh viên là yếu tố tâm lý phản ánh đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của sinh viên, nó định hướng, thúc đẩy và duy trì hoạt động học tập của sinh viên nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó. Ngoài ra, theo tác giả có thể đánh giá động cơ học tập của sinh viên qua các biểu hiện như nhận thức về động cơ học tập, thái độ và cảm xúc của sinh viên đối với hoạt động học tập tích cực hay không tích cực trong việc thực hiện các hành động học tập. Trong bài viết Bàn về phát triển kỹ năng nghề nghiệp [60], tác giả Vũ Xuân Hùng cho rằng, kỹ năng nghề nghiệp phải được hiểu theo nghĩa rộng (tức là năng lực), mới thấy được đầy đủ ý nghĩa của kỹ năng nghề nghiệp. Kỹ năng nghề nghiệp được hiểu là khả năng của con người thực hiện công việc nghề nghiệp một cách có hiệu quả trong một thời gian thích hợp, với các điều kiện nhất định, dựa vào sự tích hợp nhuần nhuyễn các kiến thức, kỹ năng, thái độ. Với nghĩa hẹp, phát triển kỹ năng nghề nghiệp là quá trình đào tạo, đào tạo lại, trang bị hoặc bổ sung thêm những kiến thức, kỹ năng và thái độ (năng lực) cần thiết để mỗi con người có cơ hội tìm việc làm, hoặc để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ mà họ đang làm. Khi bàn về Nhận thức về kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên ngành quản trị kinh doanh - Trường Đại học Lâm nghiệp [124], nhóm tác giả Hoàng Thị Kim Oanh, Trần Thị Hằng, Đặng Thị Xen cho rằng kỹ năng nghề nghiệp là một trong những “hành trang” quan trọng giúp sinh viên có thể đảm nhận tốt công việc theo chuyên môn đã được đào tạo cũng như có được mức lương cao sau khi ra trường. Đây không chỉ là mong muốn của bản thân các sinh viên mà còn là mong muốn chung của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong công trình Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong các trường dạy nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động [76], tác giả Bùi 14 Văn Hưng có bàn về nghề và nguyên tắc chọn nghề. Theo tác giả nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động, đòi hỏi con người tham gia phải có được những kiến thức, những kỹ năng, thái độ để làm ra các sản phẩm vật chất và tinh thần nào đó đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Theo tác giả, có ba nguyên tắc cơ bản để chọn nghề: Không chọn nghề mà bản thân không yêu thích; không chọn nghề mà bản thân không đủ điều kiện tâm lý, sinh lý cũng như điều kiện xã hội để đáp ứng yêu cầu của nghề; không chọn nghề nằm ngoài kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương hoặc của quốc gia. Trong Báo cáo tổng quan về Đào tạo nghề ở Việt Nam [142], bàn đến cấu trúc của bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia gồm 3 cấu phần cơ bản là: Mô tả nghề: Mô tả phạm vi, vị trí làm việc, các nhiệm vụ chính cần phải thực hiện, điều kiện và môi trường làm việc, bối cảnh thực hiện các công việc, công cụ, máy, thiết bị, dụng cụ chủ yếu cần thiết để thực hiện các công việc của nghề; danh mục công việc: Liệt kê đầy đủ các công việc cần phải thực hiện và sắp xếp các công việc đó theo các bậc trình độ kỹ năng nghề; tiêu chuẩn thực hiện công việc: Mô tả công việc, các tiêu chí thực hiện, các kỹ năng và kiến thức thiết yếu, các điều kiện thực hiện, tiêu chí và cách thức đánh giá Trong công trình khoa học Giá trị đạo đức nghề nghiệp và ý thức tuân thủ pháp luật trong hệ thông ngân hàng: Thực tiễn từ các ngân hàng thương mại cổ phần tại Thành phô Hồ Chí Minh [178], nhóm tác giả Đặng Công Tráng, Hồ Hữu Tuấn, Trần Vũ Hoàng Long cho rằng: Đạo đức nghề nghiệp là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội, là một loại đạo đức đã được thực tiễn hóa. Lương tâm nghề nghiệp là sự tự phán xét, tự ý thức về trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp. Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp và lương tâm nghề nghiệp có quan hệ mật thiết với nhau. Đánh mất ý thức về nghĩa vụ đạo đức là đánh mất ý thức về bản thân mình, làm mất ý nghĩa làm người, cũng như giá trị động lực của lao động. Do vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp chính là để 15 hình thành nhân cách nghề nghiệp của mỗi chủ thể, hướng con người vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động nghề nghiệp. Tính cách giá trị đạo đức luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế thị trường là điều không ai nghi ngờ. Những hiện tượng “trượt dốc đạo đức”, “đánh mất giá trị” do mặt trái của cơ chế thị trường gây nên đã làm cho nhiều người tỏ ra nghi ngờ vai trò của đạo đức. Việc coi nhẹ giáo dục đạo đức chủ yếu biểu hiện ở các mặt: Trước hết, bỏ qua tầm quan trọng của giáo dục đạo đức và cho rằng chỉ cần kinh tế phát triển thì trình độ đạo đức xã hội tự nhiên sẽ được nâng cao do đó chỉ cần làm tốt công tác kinh tế là đủ. Thứ hai, việc giáo dục đạo đức có khuynh hướng tách rời thực tế, thiếu tính hiện thực, tính mục đích, nội dung nghèo nàn và hình thức đơn điệu đã làm cho mọi người càng xem nhẹ đạo đức hơn. Việc xem nhẹ đạo đức đã dẫn đến nhiều hệ lụy trong xã hội, nhiều người dựa vào khe hở đó để có những hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế hiện nay. Trong công trình khoa học Giáo dục nghề nghiệp trong nền kinh tê thị trường và hội nhập quôc tê [122], tác giả Phan Văn Nhân đã đề cập đến những vấn đề hết sức cơ bản về mặt lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp hiện nay của nước ta. Tác giả đã trình bày trên những cơ sở và thành tố của quá trình giáo dục nghề nghiệp như: Giáo dục nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những cơ sở tâm lý của giáo dục nghề nghiệp. Phát triển chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tổ chức giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở tiếp cận lấy người học làm trung tâm. Tổ chức đào tạo nghề lưu động. Giám sát tổ chức dạy học Trong công trình khoa học Giáo dục học nghề nghiệp [179], tác giả Nguyễn Đức Trí đã cho rằng, giáo dục nghề nghiệp là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục nghề nghiệp có chức năng đào tạo người lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để trực tiếp tham gia các hoạt 16 động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... theo nhu cầu của thị trường lao động và có thể tiếp tục học bổ sung hoặc nâng cấp trình độ lên cao nếu có nhu cầu và điều kiện. Theo tác giả, giáo dục nghề nghiệp bên cạnh những đặc điểm của giáo dục, đào tạo còn có những đặc điểm riêng như: Giáo dục nghề nghiệp gắn liền chặt chẽ và đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và việc làm; giáo dục nghề nghiệp gắn chặt chẽ với quá trình lao động nghề nghiệp thực tế và công việc hàng ngày của người lao động; giáo dục nghề nghiệp tập trung đào tạo năng lực thực hành nghề nghiệp và giáo dục đạo đức cho người học; giáo dục nghề nghiệp là sự đáp ứng hợp lý về thời gian đào tạo ở các cấp trình độ khác nhau theo yêu cầu của thị trường lao động; tính liên thông trong giáo dục nghề nghiệp vừa kế thừa tiếp thu được kết quả của hệ thống giáo dục phổ thông vừa đảm bảo yêu cầu của hệ thống giáo dục nghề nghiệp. 1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu có liên quan đến thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với phát triển văn hoá nghề của học sinh, sinh viên Trong công trình khoa học Văn hóa nghề - Thước đo nguồn nhân lực [22], tác giả Vũ Dũng cho biết: Ở các nông trường cao su ở Tây Nguyên đã tuyển dụng nhiều lao động tại chỗ, với mục tiêu giải quyết việc làm cho lao động địa phương. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, họ bỏ nông trường về với ruộng, nương của mình. Vì quen với lao động tự do nên khi bị uốn vào nội quy với việc tuân thủ những yêu cầu mang tính bắt buộc, họ không thích ứng được. Hiện tượng này cũng đang diễn ra rất phổ biến và luôn là nỗi lo của các nhà sản xuất, các doanh nghiệp trong và ngoài các khu công nghiệp ở khắp các tỉnh, thành. Đáng lo là các biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông xuất phát từ văn hóa nghề thấp đang tác động sâu rộng lên đời sống xã hội, trong môi trường làm việc, ở mọi ngành nghề; không chỉ ở lĩnh vực xuất khẩu lao động, nông nghiệp, sản xuất mà ngay các công sở, cơ quan Nhà nước. Ở không ít cơ quan Nhà nước, có tình trạng cán bộ đi muộn, về sớm, không làm 17 đủ 8 giờ quy định. Trong thời gian làm việc ở cơ quan, nhân viên thiếu tinh thần trách nhiệm với công việc được giao, lạm dụng thời gian để làm việc riêng, đọc báo, tán gẫu; thậm chí đánh cắp thời gian rủ nhau đi uống bia, cà phê hoặc tranh thủ về sớm lo đón con, đi chợ, nấu ăn. Khi bàn về Văn hóa nghề nghiệp: Dục tôc bât đạt [186], tác giả Kim Vũ cho rằng: Mỗi năm Việt Nam đào tạo được khoảng hơn 1,5 triệu lao động, tuy nhiên chất lượng tay nghề cũng như văn hóa ứng xử trong nghề nghiệp của lực lượng này còn nhiều yếu kém. Tình trạng lao động xuất khẩu bỏ trốn xảy ra ở hầu khắp các thị trường. Đặc biệt, tình trạng lao động gian dối ngay từ trong nước đã ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh, uy tín của Việt Nam. Với lao động trong nước tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, "phông văn hóa nghề" của họ cũng đang gây đau đầu cho các cơ quan quản lý. Những hiện tượng đi muộn về sớm, không làm đủ 8 giờ, không sử dụng thiết bị bảo hộ lao động khi làm việc, thiếu trách nhiệm với công việc, bỏ việc khi không vừa ý, từ chối những yêu cầu về quản lý công nghiệp và sẵn sàng bỏ về quê là thói quen của không ít người thiếu văn hóa nghề như sau: Tùy tiện, cẩu thả, thiếu trung thực, thiếu tự giác, chưa yêu nghề; tự ty, tự phụ, thiếu tính cộng đồng, tính nhân văn, tự đánh mất mình đã khiến nhiều chủ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nước ngoài đánh giá chưa cao về chất lượng đội ngũ lao động của chúng ta hiện nay. Trong bài viết Thiêu Văn hóa nghề [16], tác giả Huệ Chi cho rằng, điều làm chạnh lòng những nhà quản lý khi đem so sánh nguồn nhân lực của Việt Nam với các nước trong khu vực, mặc dù tay nghề, sự sáng tạo thì không thua kém thậm chí có trội hơn, nhưng đem “văn hóa” ra so sánh thì phần đông lao động lại có vấn đề. Văn hóa nghề đang thiếu trầm trọng. Tác giả còn khẳng định: Việt Nam vẫn thiếu lao động có chất lượng. Trong đó, văn hóa nghề chưa được trang bị là một trong những yếu tố tạo nên thực trạng này. Tại khu 18 công nghiệp, khu chế xuất đã như vậy, tình trạng thiếu hiểu biết về văn hóa lao động nghề nghiệp còn nghiêm trọng hơn trong các làng nghề thủ công, tiểu công nghiệp. Cả nước đang có 1.500 làng nghề với hơn 4,2 triệu lao động. Tình trạng cán bộ đi muộn, về sớm, không làm đủ 8 giờ xảy ra khá nhiều. Trong thời gian làm việc lại thiếu tinh thần trách nhiệm với nhiệm vụ được giao, tụ tập đi uống cà phê, ăn nhậu… làm việc theo kiểu “nhất thân, nhì quen” là phổ biến. Trong vấn đề Phát triển công tác đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế [77], tac giả Nguâyễn Đắc Hưng cho rằng, với những yêu cầu đặt ra trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi nước ta phải có đội ngũ lao động kỹ thuật đủ về số lượng, có kiến thức, kỹ năng nghề thành thạo với cơ cấu và trình độ phù hợp, đáp ứng nhu cầu xã hội. Lực lượng lao động kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh đòi hỏi trình độ ngày càng cao và kỹ năng ngày càng giỏi. Những người qua đào tạo trong thời kỳ mới phải có phẩm chất, nhân cách tốt, tinh thông nghề nghiệp. Tac giả còn cho rằng, để phát triển công tác đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu xã hội, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác dạy nghề, đào tạo nghề có ảnh hưởng đến sự thành công khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Tác giả Võ Thị Xuân với công trình khoa học Quá trình phát triển giáo dục nghề nghiệp Việt Nam [187], đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lịch sử phát triển của giáo dục nghề nghiệp như địa lý, tự nhiên, kinh tế - xã hội, giáo dục, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế phát triển giáo dục nghề nghiệp của thế giới. Theo tác giả, giáo dục nghề nghiệp trải qua các thời kỳ như: Thời kỳ giáo dục nghề nghiệp kiểu tự phát; thời kỳ giáo dục nghề nghiệp Việt Nam chính quy; thời kỳ giáo dục nghề nghiệp Việt Nam phát triển. 19 Trong Báo cáo tổng quan về Đào tạo nghề ở Việt Nam [142], Tổng cục dạy nghề đã bàn đến thực trạng đội ngũ giao viên dạy nghề chất lượng giáo viên từng bước được nâng lên cả về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư phạm dạy nghề: Về cơ bản giáo viên trong các trường nghề đã đạt chuẩn về trình độ đào tạo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng giao viên dạy nghề từng bước được quan tâm, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề cho đội ngũ giáo viên dạy các nghề được đầu tư trọng điểm cấp độ khu vực và quốc tế. Việc xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng có nhiều đổi mới: Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề được cấu trúc theo modul với nội dung và thời gian đào tạo phù hợp; chương trình bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề được cập nhật, bổ sung theo sự thay đổi của kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất. 1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu có liên quan đến giải pháp phát triển văn hoá nghề của học sinh, sinh viên Khi bàn về vấn đề Nâng cao văn hóa nghề nghiệp cho người lao động [2], tác giả Hoàng Anh - Linh Phương cho biết, lao động nước ta đang thiếu văn hóa nghề nghiệp, nguyên nhân là lao động Việt Nam ý thức làm việc kém, thiếu tác phong chuyên nghiệp. Không chỉ lao động xuất khẩu, nhiều lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan trong nước cũng có ý thức làm việc kém, không tuân thủ nội quy, đi muộn về sớm, làm việc riêng, thiếu trách nhiệm, dễ dàng bỏ việc... những điều đó thể hiện văn hóa nghề chưa cao của người lao động. Nếu không chú ý nâng cao văn hóa ứng xử, không có thái độ làm việc nghiêm túc... thì người lao động sẽ không được đánh giá cao, khó có cơ hội tìm việc làm hoặc ít cơ hội thăng tiến Trong công trình khoa học Văn hóa nghề và nâng cao văn hóa nghề cho thanh thiêu niên hiện nay [86], theo tác giả Đặng Cảnh Khanh, những nghiên cứu về văn hóa nghề nói chung đang đặt ra rất nhiều vấn đề có liên 20 quan đến việc phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Theo tác giả, để nâng cao văn hóa nghề cho thanh thiếu niên. Cần phải có các chính sách và giải pháp phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, khơi dậy được những tiềm năng sẵn có về kinh tế, con người và văn hóa, sự ham học hỏi, lòng say mê và yêu thích lao động sáng tạo của các thế hệ thanh thiếu niên, xã hội hóa công tác đào tạo và học tập, xây dựng những chuẩn mực và giá trị lao động nghề nghiệp mới. Cần có những văn bản pháp quy, vừa khuyến khích, động viên, vừa ràng buộc và khẳng định trách nhiệm đối với các nhà quản lý, các nhà đầu tư và sử dụng lao động trong việc phải tham gia tích cực vào công tác đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là xây dựng những chuẩn mực và giá trị lao động mới trong thanh thiếu niên. Phải sớm xây dựng và hoàn thiện một cơ chế hợp lý, tạo điều kiện để các cơ quan chính quyền, đoàn thể, cộng đồng, gia đình và đặc biệt là ngành giáo dục, đào tạo và ngành lao động xã hội tham gia tích cực và trực tiếp vào công tác đào tạo cả về chuyên môn và về văn hóa nghề. Thông qua những hoạt động có hiệu quả của chiến lược đào tạo, chúng ta có thể xây dựng được những điều kiện khách quan, thực tế cho việc hình thành những chuẩn mực và giá trị lao động mới ở thanh thiếu niên. Trong công trình Vài nét về phát triển văn hóa nghề cho sinh viên hiện nay [98], tác giả Trần Thị Lê cho rằng để nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng văn hóa nghề cho sinh viên hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề: Trong các chương trình học phổ thông, cần lồng ghép hoặc đưa môn hướng nghiệp về đúng vị trí vốn có của nó, tương xứng với những môn học khác. Đồng thời, cần có sự khảo sát, đánh giá khách quan để cung cấp thông tin, dự báo có độ chính xác cao về thị trường lao động, xu hướng phát triển các ngành, nghề trong tương lai gần cho học sinh và gia đình. Trong các trường đại học, cao đẳng cần nâng cao và thống nhất trong nhận thức về công tác xây 21 dựng văn hóa nghề cho sinh viên. Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên... trong xây dựng văn hóa nghề. Cần đưa nội dung văn hóa nghề vào chương trình chính khóa cùng với các môn học cần thiết khác như đạo đức học, mỹ học và quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng... Ban Giám hiệu ở các trường cần tăng cường hiệu quả hoạt động kiến tập, thực tập của sinh viên. Đây là nội dung rất quan trọng để không ngừng củng cố văn hóa nghề cho người học. Khi bàn về Giáo dục văn hoá nghề cho sinh viên ngành khoa học thư viện và thông tin học [102], tác giả Phạm Thị Phương Liên ngoài việc cho rằng văn hóa nghề là việc nhận thức và xử lý những vấn đề nghề nghiệp sao cho có văn hóa mà vẫn đạt được hiệu quả công việc cao nhất. Việc thực hiện hành vi nghề nghiệp đồng nghĩa với thực hiện một hành vi tuân thủ pháp luật. Ở khía cạnh này có thể hiểu văn hóa nghề được hiểu là việc hành nghề được coi là có văn hóa khi việc hành nghề đó không sai phạm luật pháp. Một người lao động có văn hóa nghề trong trường hợp này phải có sự hiểu biết và tuân thủ mọi quy định pháp luật về nghề, còn đưa ra giải pháp nâng cao văn hóa nghề cho sinh viên ngành thư viện: Lồng ghép văn hóa nghề trong từng phần các môn học có thể được tiến hành ngay từ những môn học đầu tiên (những bài học đầu tiên) về ngành nghề. Bên cạnh đó, chương trình khung cũng cần có sự thay đổi nhằm tăng cường các kỹ năng mềm cho sinh viên: Như kỹ năng giải quyết vấn đề, giao tiếp, kỹ năng giải quyết tình huống… thậm chí cũng nên lồng ghép các bài học về văn hóa nghề như ý thức sống và làm việc đúng pháp luật, tính kỷ luật, tính chính xác, đạo đức nghề nghiệp. Quá trình thực tập của sinh viên tại các cơ sở cũng là cơ hội tốt cho việc giáo dục văn hóa nghề. Để văn hóa nghề trở thành một phần “máu thịt” không thể thiếu của mỗi người lao động cần có xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách phát triển 22 của từng loại hình nghề nghiệp, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá đối với mỗi ngành nghề, đồng thời với những nhiệm vụ đó là việc giáo dục văn hóa nghề phải bắt đầu từ những cấp học cơ sở. Trong các chương trình học phổ thông, cần lồng ghép những chương trình học tập hướng nghiệp, đưa môn học hướng nghiệp vào ngang hàng với những môn học quan trọng khác. Khi bàn về Đổi mới và nâng cao chât lương giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đât nước [19], tác giả Đào Ngọc Dung cho rằng: Những năm qua, hệ thống các cơ sở dạy nghề, các trường trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng đã có những bước phát triển về quy mô, từng bước đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, đứng trước một thị trường lao động năng động và thay đổi nhanh chóng trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa thay đổi theo kịp với yêu cầu. Thực tế đang đặt ra những đòi hỏi bức thiết về việc cần phải đổi mới cơ bản và toàn diện, tạo sự đột phá về chất lượng đào tạo giáo dục nghề nghiệp. Theo tác giả, mục tiêu tổng quát đặt ra là phải đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp; người học ra trường phải đáp ứng yêu cầu thị trường lao động, có việc làm và thu nhập tốt hơn; người đáp ứng yêu cầu và có nguyện vọng học cần được theo học các chương trình liên thông; không để tình trạng đào tạo ra không có việc làm, thất nghiệp, lãng phí nguồn lực xã hội… Tác giả còn đưa ra các giải pháp để thực hiện được nhiệm vụ đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Tác giả Phan Chính Thức với công trình khoa học Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá [177], đưa ra một số giải pháp chủ yếu phát triển đào tạo nghề như: Xây dựng chính sách đào tạo nghề; đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo nghề; phát triển chương trình đào tạo nghề; phát triển đội ngũ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan