TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở VIỆT NAM - MỘT TRONG
NHỮNG NHIỆM VỤ HÀNG ĐẦU TRONG QUẢN LÝ KINH
TẾ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC
Giáo viên hướng dẫn
Dũng
:
Phan Trần Trung
Sinh viên
: Trần Phương Dung
Lớp
: Nhật 1 - K38F - KTNT
HÀ NỘI - 2003
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành
nhu cầu bức xúc, tất yếu đối với mỗi quốc gia. Đó là xu thế khách
quan, lôi cuốn các nước, bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực, nó vừa
thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị
trường và toàn cầu hoá như tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các
quốc gia, gây ô nhiễm môi trường và mất dần bản sắc dân tộc cũng
gây ra không ít trở ngại, thách thức đặc biệt là ở các nước kém phát
triển và ở cả những nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Kết thúc chiến tranh đã gần 30 năm, Việt Nam đi lên từ hàn
gắn, khôi phục nền kinh tế xã hội do hậu quả của chiến tranh bị tàn
phá nặng nề để lại và đang từng bước xây dựng, chuyển đổi, phát
triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Một quãng thời gian chưa dài so
với khối lượng công việc đồ sộ, bề bộn và vô cùng phức tạp của một
quốc gia, mà mọi thứ đều phải làm để xây dựng một đất nước phồn
vinh: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong xu
hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của
thanh toán quốc tế là tất yếu khách quan để đáp ứng được nhu cầu
thương mại quốc tế cũng như thị trường xuất, nhập khẩu và các
giao dịch trên thị trường vốn quốc tế. Thanh toán ngày càng phát
triển thì cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước với
các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tại Việt Nam ngày
càng gay gắt. Từ thực tế đó, việc tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của thanh toán quốc tế nhất là thanh toán không dùng
tiền mặt là yêu cầu cấp thiết về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Vì
vậy, cùng với kết quả từ việc nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu thực tế
hoạt động của ngân hàng tại Việt Nam về nghiệp vụ thanh toán
không dùng tiền mặt, đặc biệt từ quá trình thực tập tại ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi nhánh Thăng Long em
đã chọn và hoàn thiện đề tài: “Phát triển và hoàn thiện chế độ
thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam - Một trong những
nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước”.
Mục đích của đề tài này là làm sáng tỏ vị trí và vai trò của nghiệp
vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế; các phương
thức thanh toán, các ưu nhược điểm và các nguyên nhân gây ra
nhược điểm đối với từng phương thức; để từ đó thấy được sự cần
thiết phải hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt và tìm
ra những giải pháp tối ưu nhất.
Khoá luận được chia làm 3 chương chính:
Chương I: Những lý luận cơ bản về thanh toán không dùng
tiền mặt.
Chương II: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt
Nam
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thanh
toán không dùng tiền mặt.
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG
DÙNG TIỀN MẶT
1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG
DÙNG TIỀN MẶT
1.1. Khái niệm
1.1.1. Định nghĩa
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán trích
chuyển vốn trên tài khoản từ tài khoản của người phải trả sang tài
khoản của người thụ hưởng, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông
qua vai trò trung gian của ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
1.1.2. Đặc điểm
Ngược lại với hình thức thanh toán bằng tiền mặt, và xuất phát
từ việc không sử dụng đến tiền mặt của nó, thanh toán không dùng
tiền mặt có một số điểm khác biệt sau:
Thứ nhất, thanh toán không dùng tiền mặt có sự tách biệt giữa
không gian và thời gian, giữa sự vận động của vật tư, hàng hoá và
tiền tệ. Nó được thực hiện không chỉ trên cơ sở giữa bên mua và bên
bán mà còn qua một chủ thể trung gian là ngân hàng hoặc các tổ
chức tài chính khác. Thực hiện thanh toán một thương vụ có an toàn
hay không không chỉ phụ thuộc vào người xuất khẩu, người nhập
khẩu mà còn phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề như mã hoá thông tin,
bảo mật, lọc thông tin gây nhiễu, đối chiếu số liệu qua mạng máy
tính...
Thứ hai, khi thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, sẽ
giảm thiểu được các công việc như vận chuyển, đếm, bảo quản tiền
mặt...Vì thế sẽ hạn chế được những mất mát, nhầm lẫn do việc sử
dụng tiền mặt gây nên. Do đó, ta có thể khẳng định rằng: Độ an toàn
trong thanh toán không dùng tiền mặt là cao. Mặt khác, nó sẽ giải
quyết tình trạng bị ứ đọng vốn gây lãng phí vốn. Từ đó, vốn được
khai thác triệt để đem lại lợi ích cho bản thân các doanh nghiệp, cho
các ngân hàng (do việc thu phí đem lại) và đáp ứng được một phần
vốn cho nền kinh tế (bởi vì khi sử dụng thanh toán không dùng tiền
mặt sẽ rút ngắn thời gian thanh toán và tăng nhanh vòng quay của
vốn).
Thứ ba, thanh toán không dùng tiền mặt tạo môi trường ứng
dụng công nghệ ngân hàng. Hệ thống ngân hàng trên thế giới dù
phát triển đến mức nào thì cũng vẫn phải quan tâm đến mảng thanh
toán, nhất là thanh toán không dùng tiền mặt. Cùng với sự phát triển
của công nghệ điện tử, nhu cầu thanh toán ngày càng mở rộng, sự
cạnh tranh ngày càng phát triển, các ngân hàng sẽ không ngừng
hoàn thiện mình bằng việc đầu tư vào công nghệ thông tin và xử lý
dữ liệu.
1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh
tế
Hệ thống ngân hàng, cùng với sự đổi mới nền kinh tế đã thực
hiện quá trình hiện đại hoá, đặc biệt là trong việc thanh toán, nhờ áp
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật như áp dụng công nghệ tin
học ngân hàng, công nghệ thông tin ... mà thanh toán quốc tế được
tổ chức thành một hệ thống nhất định. Trong hệ thống này, ngân
hàng là một trung tâm thanh toán, mọi hoạt động trao đổi hàng hoá
dịch vụ đều được kết thúc bằng thanh toán. Quan hệ thanh toán liên
quan đến mọi hoạt động trong xã hội. Vì vậy, tổ chức tốt công tác
thanh toán đặc biệt là thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa rất
lớn. Nó được thể hiện ở những mặt sau:
- Thanh toán không dùng tiền mặt là một quá trình thanh toán
không có sự xuất hiện của tiền mặt mà bằng cách trích chuyển từ tài
khoản của người chi trả vào tài khoản của người thụ hưởng. Do vậy
nó góp phần tạo điều kiện cho quá trình thanh toán được tiến hành
nhanh chóng, kịp thời, an toàn ... từ đó sẽ góp phần thúc đẩy sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Thanh toán vừa là khâu mở đầu, vừa là
khâu kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó, nếu tổ chức
tốt khâu thanh toán sẽ làm tăng sự vận động của vật tư và tiền vốn,
giúp cho các doanh nghiệp thu được vốn nhanh để phục vụ cho chu
kỳ sản xuất sau cũng tức là phục vụ cho quá trình tái sản xuất không
ngừng phát triển.
- Thanh toán không dùng tiền mặt tiết kiệm chi phí cho lưu
thông tiền mặt như các chi phí: in ấn, phát hành, bảo quản, vận
chuyển, kiểm đếm. Hơn nữa, thanh toán không dùng tiền mặt làm
giảm nhẹ khâu kế hoạch và điều hoà lưu thông tiền tệ, tăng sức mua
của đồng tiền, góp phần làm cho lưu thông tiền tệ ổn định. Mặt
khác, ngày nay, trong khi nền kinh tế thương mại và đầu tư quốc tế
làm cho tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng tăng, thì quá
trình thanh toán không chỉ giới hạn trong nước mà còn mở rộng ra
khu vực thế giới. Vì thế, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng
hấp dẫn với các nhà đầu tư và các nhà xuất khẩu. Và qua đó, ngân
hàng có cơ hội tiếp cận khách hàng ở nước ngoài, tạo cơ hội lập một
hình ảnh và vị trí trên thị trường ngân hàng thế giới và đó là cơ sở
đầu tiên vững chắc cho kế hoạch mở rộng thanh toán về lâu dài của
ngân hàng. Đối với một ngân hàng, mỗi giao dịch thành công là một
điểm cộng cho ngân hàng trong mắt thị trường quốc tế. Điều này có
lợi cho Việt Nam để hướng tới hoà nhập với thị trường thế giới.
- Thanh toán không dùng tiền mặt buộc các đơn vị sản xuất
kinh doanh, cá nhân muốn thực hiện thanh toán mở tài khoản tại
ngân hàng phục vụ mình và trên tài khoản luôn phải có số dư để
đảm bảo cho khả năng thanh toán, chi phí của mình khi có nghiệp
vụ phát sinh bất cứ lúc nào. Qui định này, sẽ vừa đảm bảo cơ sở cho
công tác thanh toán, vừa tạo được khả năng tập trung nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng, dùng làm nguồn vốn lưu động cho
vay phục vụ phát triển sản xuất, đáp ứng mọi nhu cầu vốn cần thiết
trong xã hội. Đây là nguồn vốn lớn, nếu có kế hoạch sử dụng tốt sẽ
đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho ngân hàng nói riêng và cho nền
kinh tế nói chung. Ngoài ra, nó còn đem lại lợi ích kinh tế cho chính
khách hàng vì khi khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán,
ngân hàng sẽ trả cho khách hàng số lãi nhất định.
- Khi thanh toán không dùng tiền mặt, khách hàng phải mở tài
khoản tại ngân hàng và ký thác vốn của mình vào đó. Điều này tạo
tiền đề thuận lợi để cho ngân hàng kiểm soát được một phần lượng
tiền trong nền kinh tế, từ đó tiến hành cung ứng một lượng tiền thích
hợp cho nền kinh tế. Hơn nữa, nó còn đánh giá được khả năng tình
hình tài chính, sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp cũng như
của tổng thể nền kinh tế.
- Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho các ngân hàng
thương mại thực hiện tốt vai trò làm trung gian thanh toán của mình
bằng sản phẩm dịch vụ đa dạng. Qua đó ngân hàng sẽ thu được
những khoản phí không nhỏ, góp phần làm tăng thu nhập ngân
hàng.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt tác động tới tất cả
các hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: nghiệp vụ thanh toán
quốc tế, nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ huy động vốn… Mặt khác,
đây còn là một trong những cơ sở cho sự ổn định tiền tệ, giải quyết
được vấn đề tiền mặt trong nền kinh tế, làm cho lưu thông hàng hoá
được trôi chảy, từ đó thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát
triển. Đồng thời còn làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế và phát
huy vai trò kiểm soát bằng đồng tiền của ngân hàng đối với nền
kinh tế. Do vậy, một trong những trọng trách của ngân hàng là
không ngừng phát huy vai trò to lớn của thanh toán không dùng tiền
mặt đối với sản xuất kinh doanh.
2. CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT
2.1. Các phương tiện thanh toán quốc tế
Phương tiện thanh toán là công cụ giúp con người thực hiện
việc trả tiền cho nhau trong quan hệ buôn bán. Tiền mặt là một
phương tiện thanh toán nhưng trong thanh toán quốc tế nó giữ vai
trò thứ yếu. Phương tiện thanh toán chủ yếu trong thanh toán quốc
tế là: Hối phiếu (Bill of Exchange), Séc (Cheque), Thẻ tín dụng
(Credit card) và các phương tiện thanh toán khác. Mỗi công cụ
thanh toán đều có công dụng riêng của nó, thích hợp cho từng đối
tượng và loại hình giao dịch thanh toán của các chủ thể kinh tế.
2.1.1. Hối phiếu (Bill of Exchange)
a. Khái niệm.
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một
người ký phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối
phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có
thể xác định được trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho
một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác
hoặc trả cho người cầm phiếu.
b. Luật áp dụng.
Về phương diện pháp lý, cho đến nay, có ba nguồn luật điều
chỉnh lưu thông hối phiếu, đó là:
- Luật thống nhất về hối phiếu (Uniform law for Bill of
Exchange - ULB) trong công ước Giơnevơ năm 1930.
- Luật hối phiếu của Anh 1882 (Bill of Exchange Act of 1882
- BEA).
- Luật thương mại thống nhất của Mỹ năm 1962 (Uniform
Commercial Code of 1962 - UCC)
c. Các bên liên quan
- Người ký phát hối phiếu (Drawer): Người ký phát hối phiếu
là người bán, người chủ nợ. Người ký phát hối phiếu có trách nhiệm
pháp lý chính đối với hối phiếu cho đến khi nó được chấp nhận, có
trách nhiệm thanh toán cho người giữ hối phiếu, hoặc đền bù cho
người ký hậu nếu hối phiếu bị từ chối thanh toán. Trong ngoại
thương người ký phát hối phiếu là người xuất khẩu;
- Người trả tiền hối phiếu (Drawee): Người trả tiền hối phiếu
là người mua, là người thứ ba được sự chỉ định của người mua
(thường là ngân hàng đóng vai trò ngân hàng chấp nhận hoặc ngân
hàng mở tín dụng thư);
- Người thụ hưởng (Beneficiary): Là người nhận được số tiền
ghi trên hối phiếu, đó là người ký phát hoặc một người nào đó do
người ký phát chỉ định;
- Người chuyển nhượng hối phiếu (Endorser): Là người đem
quyền lợi hưởng hối phiếu của mình chuyển cho người khác bằng
thủ tục ký hậu;
- Người cầm phiếu (Bearer): Là người có quyền nhận tiền trên
hối phiếu khi hối phiếu được trả tiền.
d. Phân loại hối phiếu
Tuỳ theo từng căn cứ khác nhau mà người ta có thể chia hối
phiếu theo từng loại khác nhau.
- Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối
phiếu thành ba loại: Hối phiếu trả tiền ngay (At sight bill), hối phiếu
trả tiền sau một số ngày nhất định (At…days after sight bill) thường là từ 5 đến 7 ngày, hối phiếu có kỳ hạn (Usance bill).
- Căn cứ vào hối phiếu có kèm chứng từ hay không, có thể
chia hối phiếu thành hai loại: Hối phiếu trơn (Clean bill) và hối
phiếu kèm chứng từ (Documentary bill).
- Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu, có thể
chia hối phiếu thành hai loại: Hối phiếu đích danh (Nominal bill) và
hối phiếu vô danh (Bill to bearer).
- Căn cứ vào người ký phát hối phiếu, người ta chia hối phiếu
thành hai loại: Hối phiếu thương mại (Trade bill) và hối phiếu ngân
hàng (Bank bill).
2.1.2. Séc (Cheque, Check)
a. Khái niệm
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của người chủ tài
khoản, ra lệnh cho ngân hàng trích trả cho người có tên trong séc,
hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số
tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản.
b. Luật áp dụng
- Luật thống nhất về séc (Uniform law for Check - ULC) theo
công ước Giơnevơ năm 1931.
- Văn kiện về séc quốc tế của Uỷ ban về luật thương mại quốc
tế Liên Hợp Quốc, kỳ họp thứ 15 tại New York từ ngày 26/07/1982
đến 26/09/1982.
c. Các bên liên quan
- Người phát séc để trả nợ gọi là người phát hành séc
(Drawer);
- Người phát séc là ngân hàng thanh toán (Paying bank);
- Người nhận tiền là người hưởng lợi tờ séc (Beneficiary);
- Người cầm séc là người có quyền hưởng lợi tờ séc sau khi
séc được phát hành (Drawee).
d. Phân loại séc
- Đứng ở một góc độ, có thể chia thành: Séc ghi tên (Nominal
cheque), séc vô danh (Cheque to bearer), séc theo lệnh (Cheque to
order).
- Đứng ở góc độ khác có thể chia thành: Séc gạch chéo
(Crossed cheque)- Gồm séc gạch chéo thường (Cheque crossed
generally) và séc gạch chéo đặc biệt (cheque crossed specially), séc
chuyển khoản (Cheque transfera -ble), séc du lịch (Traveller’s
cheque), séc xác nhận (Certified cheque).
Ở nước ta hiện nay đang sử dụng hai loại séc chủ yếu là séc
bảo chi và séc chuyển khoản.
2.1.3. Kỳ phiếu (Promissory note)
a. Khái niệm
Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do
người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người
hưởng lợi hoặc theo lệnh cuả người này trả cho người khác qui định
trong kỳ phiếu đó.
b. Luật áp dụng
- Luật hối phiếu và kỳ phiếu quốc tế của Uỷ ban Luật Thương
mại quốc tế của Liên Hợp Quốc, kỳ họp thứ 15, New York ngày
26/07/1982 đến 06/08/1982, tài liệu số A/CN 9/211 ngày
18/02/1982.
c. Các bên liên quan
- Người phát hành kỳ phiếu (Drawer): Là con nợ;
- Người hưởng lợi (Beneficiary, drawee): Là người có tên trên
kỳ phiếu, là chủ nợ.
2.1.4. Thẻ thanh toán (Credit card)
a. Khái niệm
Thẻ thanh toán là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành
và bán cho khách hàng của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ,
thanh toán công nợ hoặc lĩnh tiền tại các ngân hàng đại lý thanh
toán hoặc các quầy trả tiền mặt tự động.
b. Các bên liên quan
- Chủ thẻ (Card’s owner): Là người trực tiếp mua thẻ tại ngân
hàng và dùng thẻ để mua hàng hoá và dịch vụ;
- Cơ sở chấp nhận thẻ (Card acceptable point) : Là các doanh
nghiệp cung ứng hàng hoá dịch vụ cho người sử dụng thẻ;
- Ngân hàng phát hành (Issuing bank): Là ngân hàng đã bán
thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thanh toán số tiền do người
sử dụng thẻ trả cho người thụ hưởng. Ngân hàng phát hành thẻ có
thể uỷ nhiệm cho một số chi nhánh ngân hàng phát hành và quản lý
thẻ;
- Ngân hàng thanh toán (Paying bank): Là các chi nhánh ngân
hàng do ngân hàng phát hành thẻ qui định. Ngân hàng đại lý chi
nhánh có trách nhiệm thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán
bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán.
c. Các loại thẻ hiện nay
- Thẻ rút tiền mặt (Payment card).
- Thẻ tín dụng (Credit card).
- Thẻ ghi nợ (Debt card).
- Thẻ thông minh (Smart card).
Để rút tiền mặt, người ta có thể sử dụng các máy rút tiền tự
động: DAB (Distributuers autinatiques de banque), CD’s
(Cash dispense), ATM (Automatic teller machine).
2.2. Các phương thức thanh toán quốc tế
Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất trong bất
kỳ một hoạt động thanh toán nào, đặc biệt là trong Thanh toán quốc
tế. Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức
nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người
xuất khẩu và người nhập khẩu. Trong quan hệ ngoại thương có rất
nhiều phương thức thanh toán khác nhau như chuyển tiền, ghi sổ,
nhờ thu, tín dụng chứng từ…Mỗi phương thức đều có ưu và nhược
điểm, thể hiện thành mâu thuẫn về quyền lợi giữa người xuất khẩu
và người nhập khẩu; nhưng xét cho cùng, việc lựa chọn phương
thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền
nhanh, đầy đủ, đúng và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng
đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn.
Ta có thể chia các phương thức thanh toán thành hai nhóm
chính: Nhóm phương thức thanh toán không phụ thuộc vào chứng
từ và nhóm phương thức thanh toán phụ thuộc vào chứng từ.
- Nhóm phương thức thanh toán không phụ thuộc vào chứng
từ (còn gọi là nhóm phương thức thực giao - thực thanh): Là nhóm
phương thức mà việc đòi tiền và trả tiền giữa người bán và người
mua chỉ dựa trên cơ sở hàng hoá mà không phụ thuộc vào chứng từ
hàng hoá. Ở đây, ngân hàng chỉ đóng vai trò thứ yếu. Chính vì thế
nhóm phương thức này chỉ được áp dụng khi quan hệ giữa người
bán và người mua là thực sự tin cậy. Nó bao gồm các phương thức
thanh toán sau: Phương thức thanh toán chuyển tiền, phương thức
thanh toán ghi sổ, phương thức thanh toán bảo lãnh.
- Nhóm phương thức thanh toán phụ thuộc vào chứng từ: Là
nhóm phương thức thanh toán căn cứ vào chứng từ hàng hoá để xác
định việc đòi tiền và trả tiền. Với nhóm phương thức này, ngân hàng
làm nhiệm vụ khống chế bộ chứng từ đối với việc nhận hàng của
người mua hoặc người trả tiền. Đối với nhóm phương thức này, bao
gồm các phương thức: Nhờ thu, tín dụng chứng từ, uỷ thác mua.
Trong đề tài này, ta sẽ xem xét cụ thể một số phương thức
thanh toán sau:
2.2.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance)
a. Định nghĩa
Chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người
trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định
cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định
bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
b. Các bên tham gia
- Người trả tiền (Payer) (người mua, người mắc nợ), người
chuyển tiền (người đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người
chuyển kinh phí ra ngoài nước) là người yêu cầu ngân hàng chuyển
tiền ra nước ngoài;
- Người hưởng lợi (Payee) là người bán, chủ nợ, người tiếp
nhận vốn đầu tư hoặc là người nào đó do người chuyển tiền chỉ
định;
- Ngân hàng chuyển tiền (Remmiting bank) là ngân hàng ở
nước người chuyển tiền;
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền (Corresponding
bank) là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
c. Qui trình thanh toán
Ngân hàng
chuyển tiền
(3)
Ngân hàng đại
lý
(2)
Người chuyển
tiền
(4)
(1)
Người hưởng
lợi
Chú thích:
(1) Giao dịch thương mại;
(2) Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (Bằng thư hoặc bằng điện)
cùng với uỷ nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng);
(3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng;
(4) Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi.
d. Phân loại
Gồm hai loại:
- Chuyển tiền bằng thư M/T (Mail Transfer)
- Chuyển tiền bằng điện báo T/T (Telegraphic Transfer)
Ngày nay khi tham gia mạng SWIFT (Society for Worldwide
Interbank Financial Telecomunication – Hiệp hội truyền tin về tài
chính liên ngân hàng toàn cầu) thì hầu hết các chuyển tiền được
thực hiện qua mạng này. Từ năm 1997, các ngân hàng trên thế giới
đều thông qua mạng lưới truyền thông liệu ngân hàng Quốc tế
(SWIFT) cho phép tự động hoá toàn việc sử dụng các lệnh thanh
toán, sự chính xác các thông tin đến và đi (dựa vào kỹ thuật mã số)
và tốc độ chóng mặt của thông tin.
đ. Ưu, nhược điểm của phương thức chuyển tiền
Ưu điểm: Đây là phương thức đơn giản, nhanh chóng, việc
chuyển tiền không phải thông qua những thủ tục rườm rà, phức tạp.
Ngân hàng khi thực hiện phương thức này không bị ràng buộc bởi
bất kỳ trách nhiệm nào đối với cả bên mua và bên bán nên thường ít
gặp rủi ro.
Nhược điểm: Phương thức thanh toán này không đảm bảo
quyền lợi cho bên xuất khẩu vì theo phương thức này, việc giao
hàng và thanh toán là tách rời nhau. Chính vì vậy, việc thanh toán
hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của bên mua, từ đó nảy sinh
trường hợp chậm thanh toán, đòi giảm giá, gây khó khăn cho bên
bán (gây tình trạng ứ đọng vốn, giảm vòng quay của vốn). Bên cạnh
đó, rủi ro cũng xảy ra cho người mua khi họ chuyển tiền trước khi
nhận hàng thì có thể không những bị ứ đọng vốn mà còn đứng trước
những rủi ro về hàng hóa.
2.2.2. Phương thức ghi sổ (Open account)
a. Định nghĩa
Người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ
người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ,
đến từng định kỳ (tháng, quí, nửa năm) người mua trả tiền cho
người bán.
b. Các bên tham gia:
Chỉ bao gồm người bán (Seller) và người mua (Buyer) tham
gia vào hoạt động thanh toán.
c. Qui trình thanh toán
Ngân hàng
bên bán
(3)
Ngân hàng
bên mua
(3)
(3)
(2)
Người bán
(1)
Người mua
Chú thích:
(1) Giao hàng hóa hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng
hoá;
(2) Báo nợ trực tiếp;
(3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi
đến định kỳ thanh toán.
2.2.3. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment)
a. Khái niệm
- Xem thêm -