Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển tư duy phản biện cho học sinh thông qua đối thoại trong dạy học môn t...

Tài liệu Phát triển tư duy phản biện cho học sinh thông qua đối thoại trong dạy học môn toán ở trường trung học phổ thông

.PDF
165
29
87

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2013 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” đồng thời nhấn mạnh: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp”. Trong nghị quyết số 29-NQ/TW năm 2013 đã đề cập: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành: lý luận gắn với thực tiễn…”. Nghị quyết cũng đã đưa ra nhiệm vụ: “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,…Tập trung dạy cách học, cách nghĩ…tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Với mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, giáo dục cần tạo ra những cá nhân tích cực, năng động, độc lập và có tư duy tốt. Bên cạnh đó, xu thế trong nước và thế giới hiện nay đang nghiên cứu nhiều về lý thuyết dạy học, phương pháp dạy học, vận dụng những thành tựu hiện đại về tâm lý giáo dục học, lý luận dạy học vào trong quá trình dạy học, trong đó có việc nghiên cứu, hình thành và phát triển năng lực tư duy cho học sinh (HS) đặc biệt là tư duy phản biện (TDPB) (hoặc gọi là tư duy phê phán (TDPP)) [6, tr.5; 7, tr.154]. Theo các nhà giáo dục học, TDPB là một trong những năng lực tư duy cần có ở HS trung học phổ thông (THPT). Trong hoạt động dạy học Toán ở trường phổ thông hiện nay, cần hướng người học thực hiện các hành động nhận thức một cách tích cực, hướng HS tái tạo lại kiến thức, kinh nghiệm xã hội, biến kiến thức thành vốn liếng của mình, biến đổi bản thân, hình thành và phát triển ở họ những 2 phẩm chất, năng lực chuyên môn, nghề nghiệp [34]; coi trọng việc dạy cho HS TDPB và tư duy sáng tạo (TDST) [45]; TDPB đóng vai trò cơ bản trong việc đưa ra quyết định, TDPB giúp chúng ta xây dựng những câu hỏi đúng, đánh giá câu trả lời có thể, đánh giá độ tin cậy của các nguồn thông tin,…[140]. Theo chúng tôi, việc phát triển TDPB cho HS hiện nay là cấp thiết, bởi vì xã hội chúng ta hiện nay đang thay đổi với tốc độ chóng mặt, dường như có một sự mất cân bằng giữa một bên là tri thức ngày càng phát triển mà thời gian để HS lĩnh hội lại có hạn. Vì vậy chỉ có cách là chúng ta hướng dẫn cho HS cách tìm kiếm tri thức, lĩnh hội tri thức và tự làm chủ tri thức cho bản thân. Muốn thực hiện điều này tốt cần phải có tư duy tốt, đặc biệt là TDPB. TDPB sẽ giúp HS biết xem xét, cân nhắc, lựa chọn những gì là đúng, là phù hợp, là cần thiết đối với cuộc sống của chính các em. Như vậy có thể nói TDPB có thể giúp chúng ta đưa ra một quyết định tốt nhất cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề làm thế nào để phát triển được TDPB của HS THPT hiện là vấn đề được các nhà giáo dục đặc biệt quan tâm và nghiên cứu. Hơn nữa, môn Toán là môn học có nhiều điều kiện giúp chúng ta có thể phát triển tư duy nói chung và TDPB nói riêng cho HS THPT. Các nội dung toán học đều chứa đựng các vấn đề mà thông qua quá trình tiếp cận và giải quyết, HS sẽ khám phá ra nhiều điều có thể ứng dụng vào trong thực tiễn đời sống. Môn Toán có tính logic, chính xác; chứa đựng nhiều cơ hội để có thể phát triển TDPB. Vì vậy, việc lựa chọn những nội dung thích hợp để có thể phát triển TDPB cho HS là điều hoàn toàn có thể làm được. Hơn thế, môn Toán về cơ bản được xây dựng theo văn phong của phương pháp tiên đề nên trong trình bày rất cần sự lập luận (suy luận) hợp logic. Trong nhiều trường hợp, người học toán, làm toán thường hay vi phạm quy tắc suy luận. Nhưng muốn nhận ra được sự vi phạm, sự thiếu chặt chẽ, cần có hiểu biết về kiến thức toán và hiểu biết về các quy tắc suy luận, quy tắc 3 kết luận logic…mới có thể nhận ra sai lầm trong tình bày lời giải của một bài toán, hay trình bày một chứng minh…Như thế môn Toán tiềm ẩn cơ hội để phát triển TDPB. Và, các sai lầm trong lập luận giải toán, hay chứng minh thường khó nhận ra, nhất là tự mình nhận ra sai lầm của chính bản thân mình. Vì thế, rất cần có người đọc lại, rồi chỉ ra sai lầm thông qua tranh luận hay đối thoại…Theo đó, môn Toán tiềm ẩn nhiều cơ hội cho việc phát triển TDPB. Do đó, vấn đề đặt ra là chúng ta làm thế nào để giáo dục cho HS có thể đối phó với những thay đổi trong cuộc sống, trong nghề nghiệp của mình sau này và trong một xã hội liên tục có nhiều biến động? Chúng ta nên sử dụng cách tiếp cận nào trong giáo dục toán học để HS làm quen với các mô hình thực hành chuyên nghiệp sau này? Ngoài ra, theo các nhà kiến tạo xã hội, tương tác xảy ra khi HS giao tiếp các ý tưởng toán học là môi trường để phát triển nhận thức, và tư duy con người bộc lộ qua ngôn ngữ. Dựa trên nghiên cứu của Vygotsky, Voigt (1994) cho rằng, thông qua sự chia sẻ và tranh luận giữa HS với HS, giữa HS và GV trong quá trình học toán, HS tham gia tích cực vào hoạt động học tập [121, tr.199]; bên cạnh đó, quan điểm của Cobb (1995) lại xem xét việc học toán của HS chính là việc tích cực kiến tạo kiến thức toán học của cá nhân người học qua nỗ lực tương tác với bạn học [79, tr.25]; thêm vào đó, khi HS tham gia vào môi trường trao đổi, tranh luận về các nội dung toán học hoặc về các ý tưởng toán học thì HS sẽ kiến tạo được tri thức toán học và phát triển được tư duy toán học [110, tr.310; 124, tr.225]; tác giả Bùi Văn Nghị (2009) cũng đồng ý rằng, “HS luôn đặt ra vô số những câu hỏi “tại sao?”” chứng tỏ các em có lòng ham muốn được hiểu biết càng nhiều càng tốt [38, tr.136]. Ông cũng nhận xét, sự phát triển về tư duy diễn ra chủ yếu trong quá trình giao tiếp với người lớn và các bạn cùng lứa tuổi. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, đối thoại là một môi trường tốt để thông qua đó phát triển được TDPB cho HS. 4 Hiện nay, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về rèn luyện TDPB qua dạy học một số chủ đề trong môn Toán như “Rèn luyện tư duy phê phán của HS trung học phổ thông qua dạy học chủ đề phương trình và bất phương trình” của Phan Thị Luyến (2008), “ Rèn luyện tư duy phê phán cho HS thông qua dạy Toán 4” của Trương Thị Tố Mai (2007),… Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào về phát triển TDPB thông qua đối thoại, một hình thức dạy học rất có hiệu quả. Thực tiễn dạy học môn toán ở trường THPTcho thấy chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện và phát triển TDPB, cũng như việc sử dụng hình thức đối thoại trong dạy học toán một cách phổ biến và đúng đắn mặc dù đối thoại chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong quá trình dạy học toán. Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Phát triển tư duy phản biện cho học sinh thông qua đối thoại trong dạy học môn toán ở trường trung học phổ thông”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về TDPB và vai trò của đối thoại trong dạy học toán, đề xuất được một số biện pháp nhằm phát triển TDPB cho HS THPT thông qua đối thoại, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể của nghiên cứu này là quá trình dạy học môn Toán ở trường THPT; đối tượng của nghiên cứu này là quá trình sử dụng đối thoại trong dạy học toán để phát triển TDPB. 4. Giả thuyết khoa học Nếu xây dựng và thực hiện được một số biện pháp sử dụng đối thoại trong quá trình dạy học môn Toán ở trường THPT thì có thể phát triển được TDPB cho HS, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán. 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu về vấn đề này, luận án cần trả lời được những câu hỏi như: - Những biểu hiện đặc trưng của TDPB trong dạy học môn Toán là gì? - Đối thoại có tác dụng phát triển tư duy toán học cho HS, đặc biệt là TDPB như thế nào? - Sử dụng các biện pháp nào để phát triển TDPB thông qua đối thoại trong dạy học toán? Để trả lời các câu hỏi trên, các nhiệm vụ được đặt ra là: - Về lý luận: (1) Cần tìm hiểu khái niệm TDPB và các đặc trưng của TDPB; (2) Cần làm rõ khái niệm về đối thoại và vai trò của đối thoại trong dạy học toán và (3) Tìm hiểu các tính chất, các kỹ thuật và các yêu cầu của một cuộc đối thoại, hơn nữa là một cuộc đối thoại hiệu quả trong dạy học toán; - Về thực tiễn: Tìm hiểu thực trạng phát triển TDPB ở trường THPT; - Đề xuất một số biện pháp để phát triển TDPB thông qua đối thoại; - Thực nghiệm sư phạm để bước đầu kiểm chứng cho các biện pháp đã đề xuất. 6. Phạm vi nghiên cứu Trong luận án này chúng tôi nghiên cứu sự phát triển TDPB thông qua đối thoại trong dạy học môn Toán phần lớn ở HS lớp 10, lớp 11 và một phần nhỏ ở lớp 12 THPT. 7. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận án này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận 6 Chúng tôi nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề tư duy và TDPB, đối thoại và đối thoại trong lớp học. Bằng cách tra cứu các tài liệu trong các thư viện lẫn các tài liệu online, chúng tôi đề ra một cơ sở lý luận cho TDPB và các biện pháp phát triển nó, song song với đó, chúng tôi tìm hiểu về đối thoại, các cách đối thoại thành công, và các biện pháp đưa đối thoại vào trong quá trình dạy học để tích cực hóa hoạt động học tập cho HS, chúng tôi nhận thấy thông qua đối thoại, TDPB được phát triển một cách mạnh mẽ. 7.2. Phương pháp điều tra – quan sát Khi sử dụng phương pháp này chúng tôi đã thực hiện một số công việc sau: Để có cái nhìn thực tiễn về việc phát triển TDPB cho HS ở trường THPT, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp một số HS, GV tại 11 trường THPT tỉnh An Giang, đồng thời phát phiếu hỏi trên hai đối tượng là HS , GV tại tỉnh An Giang. Từ số liệu thu thập được, chúng tôi có cái nhìn khái quát và chân thực về hiện trạng phát triển TDPB cho HS tại các trường THPT ở tỉnh An Giang. Phương pháp quan sát được tiến hành song song trong quá trình thu thập số liệu điều tra và thực nghiệm sư phạm. Ở đây, các quan sát viên đã tiến hành quan sát thái độ của HS, GV khi tham gia điều tra, thực nghiệm. Bên cạnh đó, trong quá trình thực nghiệm các quan sát viên đã quan sát hoạt động học của HS, hoạt động dạy của GV và tiến hành ghi chép đầy đủ các nhận định nhằm có cơ sở cho các nhận xét về sau. 7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Phương pháp thực nghiệm sư phạm được tiến hành ngay sau bước thăm dò thực tiễn vừa tiến hành. Chúng tôi đã tổ chức dạy học và ghi âm, ghi hình một số hoạt động đã diễn ra nhằm mục đích kiểm định lại các kỹ 7 thuật đối thoại trong lớp học, sau đó đem về phân tích, nhận xét, đánh giá và rút kinh nghiệm cho đợt TNSP. Phương pháp thực nghiệm sư phạm được tiến hành sau khi rút kinh nghiệm từ TNSP, ở lần này chúng tôi không tiến hành ghi hình, chỉ ghi âm và nhận xét đánh giá dựa vào phiếu quan sát thu về, và rút kinh nghiệm sau tiết dạy của GV đứng lớp. 7.4. Phương pháp xử lý thông tin và thống kê giáo dục Phương pháp này được sử dụng để phân tích và tổng hợp các số liệu từ đợt khảo sát thực trạng và TNSP. 7.5. Phương pháp chuyên gia Để thực hiện luận án này, chúng tôi thường xuyên xin ý kiến chuyên gia trước và trong quá trình nghiên cứu, áp dụng và thực nghiệm để có được những góp ý và điều chỉnh kịp thời cho nghiên cứu. 8. Nội dung đưa ra bảo vệ - TDPB là loại hình tư duy cần được phát triển cho HS THPT trong dạy học môn Toán; việc nghiên cứu các biện pháp phát triển TDPB là thực sự cần thiết. - Đối thoại trong dạy học môn Toán có vai trò quan trọng trong việc phát triển TDPB; nếu tạo ra được môi trường thuận lợi cho việc đối thoại thì sẽ góp phần phát triển TDPB cho HS. - Thông qua đối thoại, các KN TDPB được phát triển tốt như: lắng nghe, quan sát, đặt câu hỏi, lập luận, phán đoán, trình bày, đánh giá, tự điều chỉnh. - Các biện pháp đề xuất trong luận án góp phần phát triển TDPB cho HS có tính khả thi và hiệu quả. 9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn; đóng góp mới của luận án - Luận án góp phần làm rõ vai trò của đối thoại trong việc phát triển TDPB cho HS THPT trong dạy học môn Toán. Cụ thể, chúng tôi đã hệ thống hóa 8 lý luận về TDPB (quan niệm, tính chất, các KN cơ bản có thể phát triển thông qua đối thoại); lý luận về đối thoại trong dạy học môn toán (quan niệm, các hình thức, các dạng, các cấp bậc, các công cụ để đối thoại,…). - Phân tích và làm rõ vai trò của đối thoại trong việc rèn luyện và phát triển TDPB thông qua đối thoại cho HS THPT trong dạy học môn Toán. - Đề xuất một số biện pháp để phát triển TDPB thông qua đối thoại trong dạy học môn Toán. - Những biện pháp đã đề xuất có tác dụng, có tính khả thi và hiệu quả trong việc phát triển TDPB. 10. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận án gồm ba chương: Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Chương 2. Phát triển tư duy phản biện thông qua đối thoại trong dạy học toán. Chương 3. Thực nghiệm sư phạm. 9 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu vấn đề của luận án Các nghiên cứu về TDPB đã có từ rất lâu. Vào thời cổ đại, khoảng 500 năm trước công nguyên, Socrates đã quan tâm đến những vấn đề của cuộc sống con người, vì ông tin rằng mọi người ai cũng biết lẽ phải, sẵn sàng làm theo lẽ phải nếu được thức tỉnh. Do đó, nhiệm vụ của ông không phải là rao giảng, thuyết phục, trái lại, bằng phương pháp và kỹ thuật đặt câu hỏi, giúp mọi người tự tìm thấy lẽ phải, chân lý vốn còn bị che phủ bởi sự mê muội. Socrates tiến hành nghệ thuật đối thoại bằng bốn bước [133] - Giả vờ không biết để nhờ người đối thoại giảng cho. Rồi bằng những câu hỏi trúng đích (có khi châm biếm, mỉa mai) chứng minh rằng người đối thoại thật ra chẳng biết gì; - Tiếp theo là dùng phương pháp quy nạp để xây dựng từng bước cái biết vững chắc. Đó là phân tích chính xác những ví dụ cụ thể trong đời thường, từ đó rút ra những kết luận và định nghĩa tạm thời; - Bằng phương pháp định nghĩa, làm cho những khẳng định tạm thời ấy ngày càng tinh vi và chính xác hơn; - Sau cùng, có được định nghĩa rõ ràng, phổ quát về vấn đề đang bàn. Phương pháp đối thoại ấy trở thành cơ sở cho sự phát triển triết học và khoa học của bao thế hệ về sau. Ông đã chỉ ra tầm quan trọng của việc đặt những câu hỏi sâu để điều tra một cách sâu sắc những suy nghĩ trước khi chúng ta chấp nhận ý kiến. Ông coi việc tìm kiếm những bằng chứng là rất quan trọng. Ngoài ra, ông cũng đánh giá cao việc nghiên cứu một cách tỉ mỉ các lập luận và các giả định, phân tích nội dung cơ bản và vạch ra những định hướng cho các giả thuyết và thực hành như thế nào. Theo ông, đó là cách tốt nhất cho việc rèn luyện TDPB. Socrates là người đầu tiên đặt nền tảng cho TDPB. Trên cơ sở 10 phát triển các phương pháp của ông, Platon, Aristote, Greek đã đưa ra những phương pháp tư duy để đánh giá bản chất của sự vật. Một câu hỏi được đặt ra: Ta học được gì từ Socrates? Ta hãy nhớ đến để có thể rút ra mấy kinh nghiệm hay [133]: - Biết nghe và biết hỏi là yếu tố cơ bản để thành công. Nhưng, hỏi không phải để truy bức, để bắt bí mà để người được hỏi có dịp suy nghĩ và tự trả lời: câu trả lời và giải pháp là do chính họ tìm ra; - Kiểm tra có phê phán sự hiểu biết của chính mình; - Nền móng của đối thoại là sự trung thực và minh bạch, là sự tin cậy lẫn nhau: “lắng nghe một cách lễ độ, trả lời một cách rõ ràng, cân nhắc một cách hợp lý và quyết định một cách vô tư”; - Tránh mọi sự cực đoan: “Sự cực đoan bao giờ cũng tạo ra sự cực đoan ngược lại”. 1.1.1. Những kết quả nghiên cứu trên thế giới Về lịch sử nghiên cứu TDPB, chúng tôi kế thừa nghiên cứu của Phan Thị Luyến (2008) [34, Tr.9-10] và bổ sung thêm một số vấn đề khác, cụ thể như sau: Đến thời kỳ phục hưng ( khoảng thế kỷ XV và XVI ), một số trí thức ở Châu Âu (như Colette, Erasmus và Thomas Moore) bắt đầu suy nghĩ một cách có phê phán về tôn giáo, nghệ thuật, xã hội, tự nhiên. Francis Bacon đã đặt nền móng cho khoa học hiện đại với việc nhấn mạnh về quá trình thu thập thông tin. Những luận điểm của ông đã chứa đựng những vấn đề truyền thống của TDPB. Khoảng 50 năm sau đó, Descartes đã viết cuốn “Rules For the Direction of Mind” (Những quy tắc định hướng suy nghĩ). Trong tác phẩm này, tác giả bàn về việc cần có sự rèn luyện trí óc một cách có hệ thống để định hướng tư duy và phát triển phương pháp suy nghĩ phê phán dựa trên nguyên tắc nghi ngờ. Cuốn sách này được xem là cuốn sách thứ hai về TDPB. 11 Vào thế kỷ XVII, Thomas Hobbes chấp nhận quan điểm về thế giới tự nhiên mà trong đó mọi thứ đều phải được giải thích bằng chứng cứ và lập luận. Còn John Locke thì ủng hộ sự phân tích, phán đoán trong cuộc sống và suy nghĩ hàng ngày. Đến thế kỷ XVIII, các học giả người Pháp như Montesquieu, Voltaire…đưa ra giả thuyết rằng trí tuệ của loài người được rèn luyện bởi lập luận sẽ có khả năng tốt hơn để nhận thức bản chất của thế giới. Họ đã có những đóng góp có ý nghĩa quan trọng cho TDPB. Vào thế kỷ XIX, Auguste Comte và Herbert Spencer mở rộng suy nghĩ phản biện hơn trong các lĩnh vực xã hội loài người. Nhờ TDPB, Karl Marx đã nghiên cứu phản biện kinh tế xã hội của chủ nghĩa tư bản,…Vào thế kỷ XX, các kiến giải về năng lực và bản chất của TDPB được trình bày một cách tường minh. Năm 1906 William Graham Sumner đã công bố công trình nghiên cứu cơ sở về xã hội học và nhân loại học. Ông nhận thấy sự cần thiết của TDPB trong giáo dục. Johnson và các cộng sự của mình đã có 122 nghiên cứu (1981) và 193 nghiên cứu (1989) về giáo dục hợp tác. Ông đã nghiên cứu sâu về ảnh hưởng của giáo dục hợp tác tới TDPB, lòng tự trọng và các mối quan hệ về chủng tộc, các hành vi xã hội. Các nghiên cứu của nhóm này đã chỉ ra rằng giáo dục hợp tác tỏ ra ưu việt hơn đa số các hình thức truyền thống. Robert J.Stemberg (1980) cho rằng TDPB có nhiều thành tố đặc trưng [108]. Cuộc sống có thể được mô tả như một chuỗi các vấn đề mà mỗi cá nhân phải giải quyết cho mình. Các kĩ năng TDPB chính là các kĩ năng giải quyết vấn đề để đưa đến tri thức đáng tin cậy. Con người liên tục xử lý thông tin. TDPB là sự thực hành việc xử lý thông tin theo cách thức khéo léo, chính xác và nghiêm ngặt nhất có thể, theo một cách mà nó dẫn đến những kết luận chắc chắn, hợp logic và đáng tin cậy nhất, mà dựa trên đó người ta có thể đưa ra những quyết định có trách nhiệm cho cuộc sống, hành vi và những hành động của mình với kiến thức đầy đủ cho những giả 12 định và hệ quả của những quyết định này. Raymond S. Nickerson (1987), đã chỉ ra 16 đặc trưng của một nhà TDPB tốt trên phương diện kiến thức, các năng lực, thái độ và các cách thức theo thói quen [104]. Sự liệt kê này dĩ nhiên là chưa hoàn chỉnh, nhưng nó cũng giúp chỉ ra kiểu tư duy và cách tiếp cận đối với cuộc sống mà TDPB được xem như đã có. Những mô tả tương tự về các thuộc tính của TDPB có thể tìm thấy trong các tài liệu rất phong phú về TDPB như là: Giảng dạy các kĩ năng tư duy (1987) của J. B. Baron and R. J. Steinberg; Phát triển các trí tuệ (1985) của A. L. Costa; Giảng dạy về tư duy (1985) của R. S. Nickerson và cộng sự; TDPB (ấn bản lần thứ 5, 1998) của B. N. Moore và Richard Parker; và TDPB (ấn bản lần 2, 1990) của John Chaffe. Cơ sở lí luận cho TDPB được William T. Daly (1990) giải thích trong một bài báo ngắn “Phát triển các kĩ năng phê phán” với những nhận định như phong trào TDPB trong nước Mỹ được nâng đỡ và xác nhận bởi nhu cầu muốn hoàn thiện của cộng đồng kinh doanh trong một nền kinh tế toàn cầu. Các cấp độ kĩ năng tổng quát cần thiết nơi lực lượng lao động đang tăng lên trong khi các cấp độ kĩ năng của những nhân công tiềm năng lại đang hạ xuống dần. Dẫn đến là, phong trào cải cách giáo dục đặc thù này… sẽ vẫn mang tính quyết định đối với sự giáo dục cho lực lượng lao động và hiệu suất của nền kinh tế trên vũ đài thế giới. Áp lực kinh tế này đối với việc giảng dạy các kĩ năng TDPB sẽ tấn công các thiết chế giáo dục, bởi vì những kĩ năng này, mà phần lớn chúng, hiếm khi được dạy hay được củng cố bên ngoài các thiết chế giáo dục chính qui. Các kỹ năng TDPB hiếm khi được giảng dạy trong giáo dục. Robert H. Ennis (1993) (là một trong những tác giả nổi tiếng nhất về xây dựng và phát triển TDPB) xác định 13 đặc điểm của người có TDPB [107]: có xu hướng (1) cởi mở, (2) giữ quan điểm [hoặc thay đổi quan điểm] khi chứng cứ yêu cầu, (3) xem xét toàn bộ tình hình, (4) tìm kiếm 13 thông tin, (5) tìm kiếm sự chính xác trong thông tin, (6) xử lý các phần của tổng thể phức tạp theo thứ tự, (7) tìm các lựa chọn khác, (8) tìm các lý do, (9) tìm kiếm sự khẳng định rõ ràng của vấn đề, (10) giữ trong đầu vấn đề cơ bản, (11) sử dụng các nguồn có uy tín, (12) phù hợp với đặc điểm đang xem xét, (13) nhạy cảm với những tình cảm và trình độ kiến thức của người khác. Như vậy, nếu chúng ta dạy cho HS những thành tố của TDPB nêu trên sẽ giúp HS ý thức được các quá trình nhận thức riêng của họ, dạy HS kiểm tra cái mà họ đang nghĩ, phân biệt và so sánh để thấy lỗi trong cách mà họ tư duy về nó và để tự kiểm tra sửa chữa. Và những thành tố này sẽ được rèn luyện và phát triển mạnh mẽ khi HS được rèn luyện trong môi trường đối thoại phù hợp. Có thể nói rằng, TDPB đã được nghiên cứu từ lâu và chứng tỏ rất cần thiết cho con người trong thời đại ngày nay. Vì vậy, rèn luyện TDPB là vấn đề cấp thiết. Hơn nữa, thông qua môi trường đối thoại, TDPB sẽ có nhiều cơ hội để phát triển. Thật vậy, kể từ sau nghiên cứu đáng kể của Wilkinson (1971) về lớp học truyền thông và sự tương tác thông qua nói chuyện trong học tập [127], hàng loạt các dự án khác ở Úc cũng đã được phát triển mạnh mẽ như các dự án của Cormack, Wignell, Nichols, Bill và Lucas (1998) [80]. Các dự án này đã tìm cách mô tả thực hành trong lớp học, tăng cường nghe và nói thông qua các môn học khác nhau. Kết quả dự án đã chứng minh được khả năng sử dụng nói chuyện để học hỏi và hỗ trợ cho việc học tập của HS là rất khả quan, đặc biệt kết quả cũng cho thấy GV có ảnh hưởng rất lớn trong việc định hình các cuộc nói chuyện nhằm hỗ trợ HS học tập [116]. 1.1.2. Những kết quả nghiên cứu ở Việt Nam Vào đầu thế kỷ XXI đã có một số nghiên cứu về TDPB trong giáo dục. TDPB cần được rèn luyện cho HS từ cấp tiểu học đến THPT. Một số công trình trong nước đã được công bố như: “ Rèn luyện TDPP của HS 14 THPT qua dạy học chủ đề phương trình và bất phương trình” của Phan Thị Luyến (2008) [34], “Rèn luyện TDPP cho HS thông qua dạy Toán 4” của Trương Thị Tố Mai (2007) [35], “Tư duy phản biện” của Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang (2011) [14].… Trong luận án của mình, Phan Thị Luyến (2008) [34] đã (1) hệ thống hóa và đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan đến TDPP và việc rèn luyện TDPP của người học; (2) đưa ra các dấu hiệu của năng lực TDPP và dấu hiệu năng lực TDPP trong môn Toán, nghiên cứu được mối quan hệ giữa việc rèn luyện TDPP với việc phát huy tính tích cực học tập của HS; (3) tiến hành khảo sát thực trạng TDPP và rèn luyện TDPP của HS một số trường THPT trong dạy học Toán; (4) Đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm rèn luyện TDPP của HS qua dạy học chủ đề phương trình, bất phương trình như: Nâng cao nhận thức của GV và HS về việc rèn luyện TDPP; Rèn luyện kỹ năng xem xét, phân tích đề bài để từ đó tìm cách giải quyết bài toán; Chú trọng rèn luyện các thao tác tư duy cơ bản và rèn luyện cho HS đặt câu hỏi; Rèn luyện khả năng xác định các tiêu chí đánh giá và vận dụng chúng để đánh giá các ý tưởng, giải pháp; Xây dựng hệ thống câu hỏi và thiết kế các nhiệm vụ học tập để rèn luyện kỹ năng lập luận của HS; Tạo cơ hội để HS tự trình bày giải pháp và nhận xét, đánh giá các giải pháp được đưa ra; Tạo điều kiện để HS phát hiện và khắc phục sai lầm khi giải toán. Tuy nhiên trong công trình của mình, tác giả vẫn chưa đề cập đến tầm quan trọng của sự đối thoại để phát triển TDPB như thế nào. Luận văn của tác giả Trương Thị Tố Mai (2007) cũng đã xác định được các căn cứ để rèn luyện TDPP cho HS thông qua dạy học toán [35] và đề xuất các biện pháp sư phạm nhằm hình thành và phát triển TDPP cho HS tiểu học như: rèn luyện thao tác tư duy tạo cơ sở rèn luyện TDPP cho HS thông qua dạy học toán 4; rèn TDPP cho HS thông qua một số tình huống dạy học tích cực. Tác giả đã xây dựng một số dạng bài tập nhằm rèn 15 luyện, phát triển TDPP cho HS trong dạy học Toán (Số học và yếu tố đại số, Đo đại lượng, Một số yếu tố hình học, Giải toán có lời văn). Và tác giả Trương Thị Tố Mai cũng không đề cao công dụng của đối thoại toán học trong quá trình dạy học để phát triển TDPB. Qua các nhận xét trên cho thấy, hầu hết các tác giả đều khẳng định việc rèn luyện và phát triển TDPB của HS là rất cần thiết, các tác giả đã đưa ra các biện pháp để rèn luyện và phát triển TDPB, nhưng vẫn chưa đề cập nhiều đến việc tạo điều kiện cho HS được trao đổi, thảo luận, bàn bạc với nhau. Vì lẽ trong môi trường đối thoại đó HS được trình bày ý kiến của mình, nhận xét và đánh giá ý kiến của người khác một cách tích cực hơn. 1. 1.3. Vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Gần đây, một nghiên cứu lớn đã được tiến hành trong năm quốc gia Anh, Mỹ, Nga, Pháp và Ấn Độ (Alexander, 2000) [116]. Nghiên cứu đặc biệt tập trung chú ý vào việc đối thoại trong lớp học. Họ cho rằng giữa các quốc gia này có nhiều điểm tương đồng về ngoại cảnh, nhưng GV ở Pháp và Nga đã sử dụng phương pháp đối thoại nhiều hơn một cách đáng kể, điều này đem đến lợi ích cho kết quả học tập của HS, cũng như sự phát triển xã hội và các hành vi trong lớp học. Robin Alexander và các đồng nghiệp của ông trong nghiên cứu “Five Nations” (2005) đã nghiên cứu về vấn đề đối thoại trong lớp học. Nghiên cứu này đã đề cập đến cách thức tổ chức lớp học tương tác và phong cách khác nhau của cuộc nói chuyện họ gặp phải trong lớp học tiểu học ở Anh, Mỹ, Nga, Pháp và Ấn Độ có nhiều điểm chung, bên cạnh đó giữa các quốc gia cũng có sự cân bằng giữa các nguyên tắc tổ chức, chiến lược học tập và các loại thảo luận khác nhau. Ở Việt Nam, từ lâu các GV cũng đã tăng cường sử dụng đối thoại trong dạy học Toán, nhưng chưa có một nghiên cứu nào thật sự sâu về vấn đề này mà chỉ sử dụng một số phương pháp dạy học có liên quan đến đối thoại ví dụ như dạy học đàm thoại và giải quyết vấn đề, sử dụng câu hỏi có 16 kết thúc mở trong dạy học toán,…Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề phát triển TDPB cho HS THPT thông qua đối thoại, mặc dù ai cũng công nhận thông qua đối thoại, tư duy phát triển rất mạnh mẽ, đặc biệt là TDPB. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi quan tâm sâu sắc đến vấn đề này, vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu về việc sử dụng đối thoại trong dạy học môn Toán ở trường THPT để phát triển TDPB cho HS. 1.2. Tư duy phản biện (Critical thinking) 1.2.1. Quan niệm về tư duy phản biện Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (1997), phê phán là “vạch ra, chỉ ra cái sai trái để tỏ thái độ không đồng tình hoặc lên án” [41, tr.1205]; phản biện là “đánh giá chất lượng một công trình khoa học khi công trình đó được đưa ra bảo vệ để lấy học vị trước hội đồng chấm thi; hoặc đánh giá chất lượng một công trình khoa học khi công trình đó được đưa ra bảo vệ trước hội đồng thẩm định” [41, tr.1188]. Trong quá trình tìm hiểu về “critical thinking” chúng tôi nhận thấy có một số tác giả sử dụng thuật ngữ “tư duy phản biện” cho cụm từ “critical thinking” thay vì dùng thuật ngữ “tư duy phê phán”. Thuật ngữ TDPB được dùng thay cho TDPP bởi lẽ các nhà nghiên cứu đã cho rằng, phê phán chỉ xem xét mặt tiêu cực, mà không mang ý nghĩa đánh giá cho những cái tốt của hiện tượng, sự vật: “Phê phán là từ chỉ hành động chỉ ra cái chưa tốt, cái sai lầm, từ này không bao hàm ý nghĩa “đánh giá”. Đánh giá là phải nhìn nhận cả các giá trị, các kết quả đạt được bên cạnh những thiếu sót và tồn tại”[14]. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu khác vẫn sử dụng thuật ngữ TDPP cho cụm từ “critical thinking” như Phan Thị Luyến [34], Trần Vui [53, 55], [32],… Với quan điểm TDPB không chỉ phê phán ở mặt tiêu cực, mà còn phê phán tích cực, chúng tôi dùng thuật ngữ TDPB cho cụm từ “critical thinking”. Chúng tôi đã dựa trên những ý kiến, quan điểm có trước 17 của một số tác giả để có cái nhìn tổng thể về TDPB. Sau đó, chúng tôi sẽ đưa ra ý kiến của chúng tôi về TDPB. Dưới đây là một số giải thích cũng như một số quan niệm của các tác giả: TDPB là tư duy có suy xét, cân nhắc để quyết định hợp lý khi hiểu hoặc thực hiện một vấn đề (J. B. Baron và R. J. Sternberg [2] ). TDPB là khả năng phân tích thực tế, tổng quan và tổ chức các ý tưởng, ủng hộ các ý kiến, đưa ra sự so sánh, rút ra kết luận, đánh giá những lập luận và giải quyết vấn đề (Chance, 1986). TDPB là cách lập luận đòi hỏi phải chứng minh một cách đầy đủ để những người có lòng tin và cả những người không có lòng tin đều bị thuyết phục (Tama, 1989). TDPB là suy nghĩ một cách có lý tập trung vào việc giải quyết vấn đề nhằm tạo được niềm tin hoặc hành động (Ennis, 1993). TDPB là sự quyết định một cách cẩn thận và có tính toán việc liệu có chấp nhận, bác bỏ hoặc tạm ngừng đánh giá (Moore & Parker, 1994). TDPB là loại tư duy có mục đích, được trình bày một cách lôgic và hướng tới thực hiện mục tiêu. Tư duy đó bao gồm giải quyết vấn đề, đưa ra những kết luận chính xác, có hệ thống, tính đến những khả năng có thể xảy ra (Halpern, Diane F. 1996). TDPB là quyết định dựa trên lý trí xem tin tưởng hoặc không tin tưởng cái gì (Norris, Stephen P). Theo Richard Paul, có hai điểm cốt yếu trong TDPB: (i)TDPB không chỉ là suy nghĩ mà là suy nghĩ tự cải thiện; (ii) Những cải thiện này có từ những KN trong việc dùng những tiêu chuẩn bởi một cách đánh giá tư duy thích hợp. Nói ngắn gọn, đó là sự tiến bộ trong suy nghĩ. Mục đích của TDPB là giúp chúng ta hiểu, đánh giá quan điểm và giải quyết vấn đề, cả ba lĩnh vực trên đều liên quan đến việc đặt câu hỏi; 18 chúng ta có thể nói rằng TDPB là việc đặt câu hỏi hoặc điều tra (Maiorana và Victor ). Ngoài ra, TDPB là tư duy đang thẩm định chính mình” (Center for Critical Thinking, [61]). TDPB là năng lực suy nghĩ về tư duy của mình theo cách như sau: nhận ra những mặt mạnh và mặt yếu của nó; và do đó, tổ chức lại tư duy trong hình thức đã được cải thiện[62]. Có lẽ định nghĩa của Beyer (1995) là đơn giản nhất: “TDPB … nghĩa là tạo ra các phán đoán có cơ sở” [73]. Về cơ bản, Beyer xem TDPB là việc sử dụng các tiêu chí để phán đoán tính chất của điều gì, từ lúc thực hiện đến kết luận của một bài nghiên cứu. Thực chất, TDPB là một phương cách được thao luyện của tư tưởng mà một người dùng để thẩm định tính hiệu lực của điều gì (các phát biểu, các tình tiết mới, các luận chứng, nghiên cứu, v.v..) Một số ý kiến cho rằng: TDPB là quá trình vận dụng tích cực trí tuệ vào việc phân tích, tổng hợp, đánh giá sự việc, ý tưởng, giả thuyết… từ sự quan sát, kinh nghiệm, chứng cứ, thông tin và lý lẽ nhằm đưa ra nhận định về sự việc, ra quyết định và hình thành cách ứng xử của mỗi cá nhân. TDPB vận dụng cách nghĩ và lập luận logic với các KN như phân loại, so sánh, phân tích trình tự, nguyên nhân - tác động, mô hình, phép diễn dịch, quy nạp, loại suy, tổng hợp, dự đoán, lập giả thuyết, đánh giá, ra quyết định, lập kế hoạch và giải quyết vấn đề. TDPB là thuộc tính của những người thành đạt và các nhà khoa học. TDPB là một nền tảng cần thiết và quan trọng cho mỗi cá nhân có thể độc lập trong xã hội. Ngoài kiến thức và những KN TDPB trong cuộc sống hàng ngày, tức là TDPB tổng thể, trong từng lĩnh vực còn đòi hỏi nền tảng lý thuyết và những KN cụ thể hơn. Hầu hết các định nghĩa hình thức mô tả đặc trưng của TDPB như là sự vận dụng có chủ ý các KN tư duy duy lý, ở bậc cao hơn, như: phân tích, 19 tổng hợp, nhận biết vấn đề và giải quyết vấn đề, suy luận và đánh giá” [118, tr. 6] Theo Phan Thị Luyến, TDPB (TDPP) là tư duy có suy xét, cân nhắc, đánh giá và liên hệ mọi khía cạnh của các nguồn thông tin với thái độ hoài nghi tích cực, dựa trên những tiêu chuẩn nhất định để tìm ra những thông tin phù hợp nhất nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra. TDPB là quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề [141]. Theo Angela Jones, TDPB là một phạm trù chỉ suy luận theo lối mở, không bị hạn chế, số lượng các giải pháp là không giới hạn, bao hàm cả việc xây dựng các điều kiện, các quan điểm và ý tưởng đúng đắn để đi đến kết luận vấn đề. [142, tr.45]. TDPP là quá trình vận dụng tích cực trí tuệ vào việc phân tích, tổng hợp, đánh giá sự việc, xu hướng, ý tưởng, giả thuyết từ sự quan sát, kinh nghiệm, chứng cứ, thông tin và lý lẽ nhằm mục đích xác định đúng – sai, tốt – xấu, hay – dở, hợp lý – không hợp lý, nên – không nên và rút ra quyết định, cách ứng xử của mỗi cá nhân [46, tr.75]. Theo chúng tôi, TDPB là cách suy nghĩ của mỗi người tự đánh giá thế giới xung quanh, tìm hiểu những ý tưởng và những tư tưởng mới. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về TDPB nhưng ta vẫn nhận ra được những nét chung nhất, đó là: TDPB là cách suy nghĩ có chủ định của con người tích cực vận dụng trí tuệ vào việc phân tích dựa trên bằng chứng, kinh nghiệm, quan điểm và niềm tin xác đáng để đánh giá và giải thích dẫn đến một phán đoán, hay kết luận về một hiện tượng hoặc vấn đề. Vì vậy, trong luận án này, chúng tôi quan niệm: TDPB là cách suy nghĩ có chủ định xây dựng và hoàn thiện với thái độ hoài nghi tích cực trong việc phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn 20 khác cho vấn đề đã đặt ra, nhằm đi đến một phán đoán hay kết luận vấn đề bằng những lập luận có căn cứ. Trong đó: + Suy nghĩ có chủ định xây dựng và hoàn thiện: là cách suy nghĩ có thiện chí. + Thái độ hoài nghi tích cực thể hiện ở chỗ: luôn đánh dấu hỏi trên mọi vấn đề, mọi khía cạnh, mọi giả thuyết...cho đến khi thu thập đủ chứng cứ để có thể rút ra kết luận chính xác. + Có cách nhìn khác: thể hiện cách nhìn đa chiều đối với sự vật hiện tượng, xem xét vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, tiếp cận vấn đề từ nhiều quan điểm khác nhau. + Lập luận có căn cứ: là những lập luận dựa trên những tiền đề đúng, phù hợp với thực tiễn và hợp logic. 1.2.2. Một số biểu hiện đặc trưng của tư duy phản biện Đã có một số nghiên cứu về biểu hiện đặc trưng của TDPB. Chẳng hạn: K. B. Beyer (1995) nêu lên các đặc điểm thiết yếu của người có TDPB [73], đó là: - Không có thành kiến (biết lắng nghe và chấp nhận ý kiến trái ngược với mình, biết xem xét các quan điểm khác nhau và sẽ thay đổi quan điểm khi suy luận cho thấy phải thay đổi); - Biết vận dụng các tiêu chuẩn (cần phải có các điều kiện được thỏa mãn nhất định để một phát biểu trở thành có thể tin cậy được); - Có khả năng tranh luận (đưa ra các lý lẽ với các bằng chứng hỗ trợ, biết nhận dạng, đánh giá và xây dựng các lý lẽ); - Có khả năng suy luận (có khả năng rút kết từ một hoặc nhiều chi tiết (để làm được điều này cần phải thấy được mối quan hệ logic giữa các dữ liệu));
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất