Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển thị trường vốn việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế...

Tài liệu Phát triển thị trường vốn việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

.PDF
108
24
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ TRẦN THỊ MỸ DUNG Phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế luËn v¨n th¹c sÜ KINH TẾ Hµ néi – 2006 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ TRẦN THỊ MỸ DUNG Phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Mã số : 60.31.07 luËn v¨n th¹c sÜ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn Hµ néi - 2006 MỤC LỤC Lời nói đầu Danh mục các từ viết tắt CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN 1.1. Những vấn đề chung về thị trường vốn 1.1.1. Khái niệm 1.1.2. Các chủ thể và công cụ tham gia trên thị trường vốn 1.1.3. Chức năng và vai trò của thị trường vốn 1.2. Xu hướng phát triển thị trường vốn trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay 1.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường vốn của một số nước trên thế giới 1.3.1. Tình hình phát triển thị trường vốn và kinh nghiệm của Trung Quốc 1.3.2. Tình hình phát triển TTV và kinh nghiệm của một số nước khác 1.3.2.1. Các nước chuyển đổi ở Châu Âu và cộng đồng các quốc gia độc lập 1.3.2.2. Các nước Đông Á 1.3.3. Bài học kinh nghiệm phát triển TTV của các nước CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN TTV VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HNKTQT 2.1. Tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình HNKTQT 2.1.1. Thị trường chứng khoán 1 2.1.2. TTTD dài hạn 2.2. Những bước phát triển và hạn chế, tồn tại chủ yếu của TTV Việt nam trong quá trình HNKTQT 2.2.1. Những thành tựu đã đạt được 2.2.2. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân 2.2.2.1. Hạn chế và tồn tại trên TTCK 2.2.2.2. Hạn chế và tồn tại trên TTTD CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN TTV VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HNKTQT 3.1. Định hướng phát triển thị trường vốn Việt Nam trong thời gian tới 3.1.1. Những thách thức đối với thị trường vốn Việt Nam trong quá trình HNKTQT 3.1.2. Mục tiêu, quan điểm và định hướng phát triển thị trường vốn Việt Nam trong thời gian tới 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình HNKTQT 3.3.1. Định hướng các giải pháp phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình HNKTQT 3.3.2. Một số giải pháp chủ yếu phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục 2 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước ĐTNN : Đầu tư nước ngoài HNKTQT : Hội nhập kinh tế quốc tế IPO : Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (Initial Public Offering) NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại SGDCK : Sở Giao dịch Chứng khoán TCTD : Tổ chức tín dụng TTCK : Thị trường chứng khoán TTCP : Thị trường cổ phiếu TTGDCK : Trung tâm Giao dịch chứng khoán TTLKCK : Trung tâm lưu ký chứng khoán TTTD : Thị trường tín dụng TTTP : Thị trường trái phiếu TTV : Thị trường vốn WTO : Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) 3 Phần mở đầu Sự cần thiết của đề tài Thị trường vốn là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Đây là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn (thường có thời hạn trên một năm). Các công cụ được giao dịch trên thị trường vốn gồm cổ phiếu của các doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, các loại khế ước thế chấp và tín dụng ngân hàng…Các doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá nhân, hộ gia đình, chính phủ và các định chế trung gian tham gia trên thị trường vốn với tư cách là các chủ thể. Cho đến nay, các nghiên cứu vẫn chưa đưa ra một khái niệm thống nhất về thị trường vốn. Căn cứ vào cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể có quan niệm khác nhau về thị trường vốn. Hiện nay, có hai trường phái quan điểm chính; đó là trường phái theo quan điểm của Pháp và trường phái theo quan điểm của Mỹ, Anh, Đức. Cách phân chia thị trường theo hai trường phái quan điểm này đều có ưu, nhược điểm nhất định; do đó, tùy vào mục đích nghiên cứu, người ta có thể lựa chọn cách phân loại phù hợp. Trong phạm vi Luận văn, chúng tôi chọn quan niệm của Mỹ, Anh, Đức (và một số nước khác), trong đó thị trường vốn là một bộ phận của thị trường tài chính và là nơi giao dịch các nguồn vốn trung và dài hạn. Thị trường vốn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Vai trò đó thể hiện trước hết ở những đóng góp to lớn khi nó được vận hành hiệu quả; ngược lại, những thiệt hại nặng nề trong trường hợp đổ vỡ thị trường cũng cho thấy việc đảm bảo một thị trường vốn hoạt động lành mạnh luôn luôn là một yêu cầu cấp thiết. Thị trường vốn phát triển là cơ chế hiệu quả để phân bổ nguồn vốn và thúc đẩy hoạt động kinh doanh vốn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa thị trường vốn vừa là nội dung, và cũng là giải pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán nội địa. 4 Thêm vào đó, là một kênh dẫn vốn của nền kinh tế, việc mở cửa hội nhập thị trường vốn (và đi kèm theo nó là quá trình tự do hoá dòng chảy vốn đầu tư giữa các quốc gia) sẽ có tác động trực tiếp trong việc gia tăng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế; kích thích sự phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường vốn nội địa; tăng áp lực cạnh tranh, tạo điều kiện giúp khu vực tài chính hoạt động có hiệu quả và bền vững hơn; đồng thời giúp các tổ chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý. Tuy nhiên, mở cửa thị trường vốn cũng sẽ tăng tính phụ thuộc và chịu những tác động trực tiếp từ những biến động trên thị trường vốn quốc tế. Thị trường vốn thiếu lành mạnh và non trẻ là đối tượng dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết. Do đó, cần phải thận trọng và có những giải pháp thích hợp để đảm bảo an toàn và hiệu quả của hội nhập. Thực tiễn và kinh nghiệm của các nước là những minh chứng tin cậy về vấn đề này. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của thị trường vốn, Đảng và nhà nước ta đã xác định trong Nghị quyết Đại hội IX năm 2001 “Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn”. Ở nước ta, thực tiễn phát triển trong nhiều năm qua cho thấy, các cấu thành cơ bản của thị trường vốn đã dần hình thành và đang được vận hành trong một khuôn khổ pháp lý xác định. Tuy nhiên, thị truờng vốn nước ta vẫn còn sơ khai, đang phát triển ở trình độ thấp và quy mô nhỏ so với các nước trong khu vực và thế giới. TTCK ở nước ta chưa thực sự trở thành kênh đắc lực trong huy động và phân bổ vốn trung, dài hạn; do đó, nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp chủ yếu vẫn là các ngân hàng thưong mại. Hệ thống các định chế trung gian của thị trường vốn còn kém phát triển; hoạt động của hệ thống ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; khuôn khổ pháp lý chưa hoàn chỉnh; các nguyên tắc quốc tế và quản lý thị trường chưa được áp dụng một cách đồng bộ. Thực tế này đã đặt ra những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng với nhiều rủi ro và nguy cơ không lành mạnh tiềm ẩn. 5 Như vậy, những nghiên cứu về thị trường vốn thực sự có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trước những vấn đề đặt ra trong thực tế đối với phát triển thị trường vốn nước ta trong điều kiện hội nhập. Do đó, tôi đã chọn đề tài “Phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” với mục đích nghiên cứu thực trạng và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường vốn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của Luận văn sẽ được phân tích theo cơ cấu các chương, bao gồm: Chương I. Cơ sở lý luận chung về thị trường vốn Chương I. Tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Chương III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tình hình nghiên cứu Thị trường vốn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế, do đó đã nhận được sự quan tâm của nhiều tác giả và là đối tượng của một số đề tài nghiên cứu khoa học của các cơ quan chức năng. Các bài viết về thị trường vốn tương đối đa dạng về hình thức nghiên cứu, bao gồm đề tài, đề án, luận án, các bài viết nghiên cứu, các bài báo, một phần trong giáo trình giảng dạy ở các trường Đại học và cao đẳng….Trong đó, điển hình là một số nghiên cứu dưới hình thức đề tài khoa học hoặc Luận án Tiến sĩ như sau: 1. Trần Mạnh Dũng (1998): “Sự hình thành và phát triển thị trường vốn ở Việt Nam hiện nay”, Luận án TS kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung: Phân tích quá trình hình thành và phát triển thị trường vốn Việt Nam; đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường vốn Việt Nam hiện nay. 6 2. Phạm Văn Hùng (2003), “Tác động của việc mở cửa thị trường vốn đối với nền kinh tế các nước đang phát triển: Bài học cho Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Nội dung: Cơ sở lý luận và thực tiễn về mở cửa hội nhập thị trường vốn tại các nước đang phát triển. Tác động của mở cửa thị trường vốn đầu tư và phát triển của các nước đang phát triển. Trên cơ sở đó, khái quát một số bài học khoa học dành cho Việt Nam. 3. Đỗ Đức Quân (2001), “Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Luận án TS khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung: Quy luật hình thành và phát triển thị trường vốn, điều kiện, tiền đề cơ bản cho sự hình thành và phát triển của thị truờng vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những giải pháp phát triển thị trường vốn từ nay đến năm 2010. 4. Ban Kinh tế Trung ương (2004), Đề tài khoa học “Định hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường vốn ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng” Nội dung: Làm rõ những chủ trương, quan điểm về phát triển thị trường vốn Việt Nam; đánh giá tình hình thị trường vốn từ 2001-2004; đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường vốn ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Nhìn chung, do nghiên cứu từ lâu nên những công trình nói trên chưa cập nhật; mặt khác, tùy thuộc mục đích, yêu cầu nghiên cứu nên chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu về thị trường vốn gắn với quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ bổ sung tình hình phát triển mới của thị trường vốn Việt Nam, đặc biệt là phần hội nhập kinh tế quốc tế. 7 Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích lý luận chung và tình hình phát triển của thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để đề xuất một số gợi ý giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường vốn Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: môi trường pháp lý và hiệu quả hoạt động của thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập KTQT - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thị trường vốn Việt Nam bao gồm thị trường tín dụng dài hạn và thị trường chứng khoán gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 nhưng chủ yếu tập trung những năm gần đây khi những tác động của quá trình hội nhập đã trở nên rõ ràng. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong Luận văn là phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh và xin ý kiến chuyên gia. Luận văn đã vận dụng quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển thị trường vốn Việt Nam hiện nay; có kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đi trước. Những đóng góp của Luận văn - Làm rõ một số cơ sở lý luận chung về thị trường vốn - Phân tích tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; trong đó cập nhật tình hình mới trong điều kiện hiện nay. - Đề xuất một số gợi ý giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường vốn nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bố cục của luận văn: Luận văn được trình bày theo kết cấu chương, mục. Ngoài phần mở đầu, kết luận, các danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương và 7 mục. 8 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN 1.1. Những vấn đề chung về thị trường vốn 1.1.1. Khái niệm Thị trường vốn là một phạm trù của kinh tế thị trường. Phạm trù này có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ dẫn đến các quan niệm khác nhau. Tùy vào mục đích nghiên cứu, người ta có thể lựa chọn quan niệm và cách phân loại phù hợp. Hàng hóa được trao đổi trên TTV là loại hàng hóa có tính chất đặc biệt, gọi chung là vốn. Vậy trước hết, vốn là gì? Thực tế hiện nay còn tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về vốn (tư bản). Từ điển Kinh tế thị trường định nghĩa vốn (tư bản) “là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được tái tạo ra” (3, tr 56). Theo định nghĩa này, vốn là tài sản và có khả năng tạo ra một nguồn thu nhập khác ngoài bản thân nó. Bên cạnh đó, trong Bộ Tư bản, Mác đã kết luận quá trình chuyển hoá của tiền thành tư bản như sau: “Như vậy là giá trị ứng ra ban đầu không những được bảo toàn trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá trị thặng dư, hay đã tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy đã biến giá trị đó thành tư bản” (46, tr228). Sự khác biệt giữa hàng hóa tư bản và các hàng hóa thông thường khác được Mác nhấn mạnh: “Đối với các hàng hoá khác, cuối cùng, giá trị sử dụng của chúng đều do người mua tiêu dùng đi, đồng thời, thực thể của hàng hoá và giá trị của nó cũng biến mất theo. Trái lại, hàng hoá tư bản lại có đặc tính là khi giá trị sử dụng của nó được đem tiêu dùng đi, hàng hoá- tư bản không những vẫn giữ nguyên giá trị và giá trị sử dụng của nó, mà còn làm cho giá trị và giá trị sử dụng của nó tăng thêm lên nữa” (47, tr 537) Tuy hiện vẫn còn nhiều khái niệm khác nhau về vốn (tư bản), nhưng khi nghiên cứu bản chất của nó, chúng ta có thể nhận thấy một số đặc trưng 9 chung. Trước hết, vốn là hình thái giá trị được biểu hiện bằng tiền. Nói như vậy có nghĩa là vốn không chỉ tồn tại dưới hình thức giá trị độc lập (tiền tệ) mà còn tồn tại trong các tài sản hữu hình, vô hình và đại diện cho một lượng giá trị hàng hoá, dịch vụ, tài sản nhất định. Vốn còn được thể hiện bằng tiềm năng và lợi thế vô hình như vị trí địa lý, bản quyền sáng chế…Thứ hai, vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng không phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền chỉ là vốn khi nó được đưa vào sử dụng với mục đích đầu tư hoặc kinh doanh. Trong quá trình vận động, tiền quay trở về điểm xuất phát với một lượng lớn hơn bản thân nó. Cuối cùng, trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hoá đặc biệt. Theo Mác, “Tiền chỉ được đem nhượng lại với hai điều kiện, một là nó sẽ quay về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định, và hai là nó sẽ quay về điểm đó với tư cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là sau khi đã thực hiện các giá trị sử dụng của nó, thực hiện được các khả năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư”. Tóm lại, vốn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là tài sản (đã được giá trị hoá), có thể là tiền tệ. Nhưng đã là vốn thì phải gắn với sự vận động và phải sinh lời. Trong cơ chế thị trường, vốn trở thành hàng hoá với tính chất đặc biệt đã được Mác nêu rõ như phần phân tích trên. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, vốn có thể được phân loại theo nhiều cách thức. Mác căn cứ vào khả năng thay đổi giá trị của các bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất để phân loại thành tư bản bất biến và tư bản khả biến (nguồn gốc sinh lời của vốn bắt nguồn từ bộ phận tư bản khả biến). Mặt khác, căn cứ vào tính chất chu chuyển và phương thức chuyển dịch, tư bản (vốn) lại được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Ngoài ra, tuỳ từng mục đích nhất định, người ta cũng có các cách phân loại hàng hoá đặc biệt này khác nhau. Căn cứ vào hình thức tồn tại có vốn tiền tệ và tài sản; căn cứ vào chủ sở hữu có vốn chủ sở hữu và vốn vay; căn cứ vào thời gian cho vay và trả nợ có vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong đó, 10 cách phân chia dựa vào tiêu chí chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu và phân tích TTV. Trong một nền kinh tế, hiện tượng thừa và thiếu vốn luôn luôn tồn tại song hành. Hiện tượng này làm phát sinh cung và cầu về vốn. Trong đó, cung về vốn có nguồn gốc từ những tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân…có tiền nhàn rỗi (do chi tiêu ít hơn thu nhập, hoặc chưa đến hạn phải chi tiêu). Để không làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, họ có nhu cầu cho vay số tiền này trong một thời gian nhất định để hưởng lãi. Đồng thời, cầu về vốn lại xuất phát từ những tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đang thiếu vốn cho hoạt động đầu tư hoặc tiêu dùng của mình. Chính hệ thống luân chuyển vốn giữa một bên là người có vốn và một bên là người cần vốn gọi chung là thị trường vốn. Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong quan điểm về thị trường vốn. Căn cứ vào cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể có quan niệm khác nhau, giới hạn phạm vi khác nhau về phạm trù này. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy có hai trường phái chủ yếu; đó là các trường phái theo quan điểm của Pháp (và một số nước khác) và trường phái theo quan điểm của Mỹ, Anh, Đức (và một số nước khác). Theo quan điểm của Pháp (và một số nước khác), TTV là thị trường giao dịch cả nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Căn cứ vào phương thức chuyển dịch vốn theo thuộc tính thời gian và hình thức vận động, TTV được phân chia thành thị trường tiền tệ và thị trường tài chính. Cụ thể: Thị trường vốn Thị trường tiền tệ - Thị trường tín dụng - Thị trường Liên ngân hàng - Thị trường các giấy tờ có giá ngắn hạn Thị trường tài chính - TT chứng khoán 11 Như vậy, theo quan điểm này, TTV là khái niệm rộng và bao hàm cả thị trường tài chính. Trong đó, các nguồn vốn ngắn hạn vận động không tập trung, chủ yếu là các phương tiện thanh toán và được quy thành đối tượng của thị trường tiền tệ. Các nguồn vốn dài hạn, ngược lại, vận động tập trung thành các kênh lớn để đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh và được tụ lại trên các điểm giao dịch vốn lớn, được quy thành đối tượng của thị trường tài chính. Cách phân chia theo quan điểm này đã bao quát được cả nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, việc phân chia thành các bộ phận nhỏ hơn là thị trường tiền tệ và thị trường tài chính lại chưa có đủ căn cứ thuyết phục. Bởi vì, tài chính là một khái niệm rộng gồm nhiều khâu và lĩnh vực hoạt động giao dịch các nguồn vốn tài chính, kể cả nguồn vốn tài chính ngắn hạn và dài hạn. Khác với quan điểm của Pháp, trường phái quan điểm thứ hai của Mỹ, Anh, Đức (và một số nước khác) lại cho rằng TTV chỉ là một bộ phận của thị trường tài chính; đối tượng được mua bán trên thị trường này là chứng khoán và các giấy ghi nợ trung hoặc dài hạn. Cụ thể: Thị trường tài chính Thị trường tiền tệ Thị trường vốn (TTTD dài hạn, TTCK) Cách phân chia từ cách tiếp cận hệ thống thị trường như trên tương đối dễ hiểu. Căn cứ vào thời gian sử dụng, vốn vay của người đi vay và người tích luỹ được phân biệt thành nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn. Thị trường tiền tệ là nơi giao dịch các nguồn vốn ngắn hạn giữa các ngân hàng thương mại, giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương. Trong khi đó, các nguồn vốn dài hạn là đối tượng của TTV (gồm TTTD dài hạn và TTCK, trong đó chủ yếu là TTCK). Như vậy, trong khi cách phân chia thứ nhất bao quát hết các nguồn vốn giao dịch trên thị trường thì trường phái thứ hai lại bỏ qua nguồn vốn ngắn 12 hạn. Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò quan trọng của các nguồn vốn dài hạn đối với đầu tư phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời, để dễ tiếp cận trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi chọn cách phân chia theo quan điểm của trường phái thứ hai. Theo quan điểm này, TTV và thị trường tiền tệ là hai bộ phận của thị trường tài chính. Hai bộ phận này trên thực tế có quan hệ chặt chẽ với nhau. Những biến đổi về giá cả, lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn. Ngược lại, những thay đổi của TTV (chỉ số chứng khoán hay giá cả cổ phiếu…) cũng phản ánh các hiện tượng tốt, xấu đang hoặc sẽ xảy ra đối với thị trường tiền tệ. TTV được cấu thành bởi hai bộ phận: TTTD dài hạn và TTCK, trong đó TTCK đóng vai trò chủ yếu và quan trọng. TTTD dài hạn hoạt động thông qua các nghiệp vụ vay để cho vay của các TCTD. Tùy từng loại hình cụ thể, những TCTD này được phép huy động vốn bằng các nghiệp vụ nhận tiền gửi, phát hành các giấy tờ có giá, vay vốn giữa các TCTD và vay ngân hàng nhà nước. Đồng thời, các TCTD được phép cấp tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau (cho vay, cho thuê tài chính…). Thị trường này có vai trò quan trọng trong các kênh huy động vốn cho phát triển, đặc biệt khi TTCK vẫn đang ở giai đoạn đầu phát triển như nước ta. Tuy nhiên, hoạt động của thị trường này lại tách rời người sở hữu vốn và người sử dụng vốn. Những ràng buộc như quy định lãi suất, điều kiện cho vay của các TCTD…đã khiến cho hoạt động của thị trường này mang tính chất độc quyền. Để khắc phục những hạn chế trên TTTD dài hạn, TTCK ra đời như một bổ sung tất yếu khách quan vào các kênh huy động vốn truyền thống. Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, TTCK được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua chứng khoán lần đầu từ những người phát hành; ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. 13 Trên lý thuyết, căn cứ vào các bộ phận cấu thành, TTCK được phân loại thành TTCK nhà nước, TTCP và TTTP. Trong đó, TTCK nhà nước (các giấy ghi nợ của Nhà nước như trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước dài hạn và các chứng chỉ đầu tư…); TTTP là thị trường mua bán các chứng khoán có lãi suất cố định (trái phiếu). Trong số các bộ phận cấu thành TTCK, thị trường cổ phiếu là hạt nhân cơ bản và rất nhạy cảm với các biến động của nền kinh tế như lạm phát, thất nghiệp… 1.1.2. Các chủ thể và công cụ tham gia trên thị trường vốn Các chủ thể chủ yếu và cơ bản tham gia trên TTV gồm có Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian, các cá nhân và hộ gia đình. Tùy vào tư cách tham gia, tùy vào thực lực tài chính mà góc độ và mức độ tham gia của các chủ thể này vào TTV khác nhau. Trước hết, Nhà nước tham gia vào TTV với tư cách là nhà quản lý và tổ chức các hoạt động của thị trường này thông qua bộ máy quản lý và hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có thể tham gia với tư cách là một doanh nghiệp bình thường. Chẳng hạn, trên TTCK thứ cấp, Nhà nước (Bộ Tài chính) tham gia mua bán các chứng khoán của doanh nghiệp (khối lượng nhiều hay ít tùy thuộc vào mức độ tham gia quản lý); Nhà nước (Ngân hàng Nhà nước) lại có thể thực hiện điều hành lưu thông thị trường tiền tệ bằng hoạt động nghiệp vụ trên thị trường mở. Các doanh nghiệp tham gia trên TTV với tư cách là người tạo hàng (chứng khoán), đồng thời là người tiến hành các hoạt động mua bán chứng khoán. Trong đó, các công ty cổ phần là chủ thể quan trọng nhất trên TTCK. Ở nước ta, các công ty cổ phần được hình thành chủ yếu từ quá trình cổ phần hóa các DNNN. Các cá nhân, hộ gia đình cũng là những chủ thể cung ứng vốn quan trọng. Họ có thể tham gia trực tiếp trên thị trường hoặc thông qua quỹ tương hỗ hay quỹ đầu tư. 14 Các tổ chức tài chính trung gian tham gia với tư cách là những doanh nghiệp kinh doanh tín dụng. Đây chính là cầu nối giữa người đi vay và người cho vay bao gồm các TCTD (các NHTM, các công ty tài chính…), các công ty tài chính khác (quỹ tương hỗ, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí…). Các công ty tài chính khác với các NHTM ở chỗ chúng không thực hiện các dịch vụ thanh toán và tiền mặt, không huy động tiền gửi tiết kiệm, không sử dụng vốn vay của dân để làm phương tiện thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, các công ty tài chính gắn liền với các nghiệp vụ về chứng khoán, có tên gọi khác nhau như: công ty chứng khoán, công ty tài chính chứng khoán, hiệp hội các nhà buôn chứng khoán… Ở nước ta, sau 20 năm đổi mới, các chủ thể theo thông lệ quốc tế cơ bản đã được hình thành nhưng vẫn còn ít về số lượng và non kém về mặt nghiệp vụ. Các công cụ tài chính (hàng hóa) trên TTV được hiểu là quyền đòi nợ tài chính như chứng chỉ, cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, hợp đồng bảo hiểm…Các công cụ này đều có tính thanh khoản và có thể được phân loại thành các công cụ của từng thị trường. Trên TTV, các công cụ tài chính thường có thời gian đáo hạn trên một năm, bao gồm các công cụ nợ và công cụ vốn. Các công cụ của TTV có mức giá biến động mạnh hơn so với các công cụ trên thị trường tiền tệ và được coi là những khoản đầu tư có rủi ro cao. Tuy nhiên, khi thị trường tài chính ngày càng phát triển, các công cụ tài chính được sử dụng đan xen giữa các thị trường. Những công cụ mới không ngừng ra đời và mang đặc trưng của nhiều loại công cụ tài chính khác. Chính vì vậy, ranh giới giữa các công cụ tài chính và giữa các bộ phận thị trường cấu thành ngày càng mang tính tương đối. Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc của một công ty cổ phần. Cổ phiếu 15 là một loại chứng khoán vốn, thể hiện quan hệ đồng sở hữu giữa người phát hành và nhà đầu tư. Người mua cổ phần được gọi là cổ đông của công ty. Cổ đông nhận được một (các) giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Người mua cổ phiếu trở thành người sở hữu một phần công ty và được hưởng các quyền đối với công ty tương ứng với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Khi công ty làm ăn thua lỗ, các cổ đông phải chịu thiệt hại tương ứng với giá trị cổ phiếu của họ. Căn cứ vào tính chất các quyền lợi cổ phiếu mang lại cho cổ đông, cổ phiếu được phân loại thành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Trái phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả cho người nắm giữ trái phiếu một khoản tiền xác định trong những khoảng thời gian cụ thể và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi đáo hạn. Trái phiếu là chứng khoán nợ; người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ và chủ thể phát hành là con nợ. Khế ước thế chấp (mortage) là khoản tiền mà các cá nhân hay các công ty kinh doanh vay để mua nhà, đất hoặc những công trình kiến trúc khác, trong đó hiệp hội tiết kiệm và cho vay và những ngân hàng tiết kiệm tương hỗ là những người cho vay hàng đầu trong thị trường cho vay thế chấp nhà ở. Tuy nhiên, các NHTM cũng tham gia tích cực hơn vào thị trường này. Đa số những món cho vay thế chấp thương mại và nông trại do các ngân hàng thương mại và công ty bảo hiểm thực hiện. Những khoản vay thương mại ngân hàng cấp và vay tiêu dùng là những khoản vay dành cho người tiêu dùng và cho những công ty kinh doanh. Các khoản vay này có thể được ngân hàng hoặc các công ty tài chính cấp. Thường không có thị trường thứ cấp để mua bán lại những món vay này và do đó, chúng được coi là có tính thanh khoản thấp nhất trong các công cụ của thị trường vốn. Tuy nhiên, thị trường thứ cấp hiện cũng đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. 16 Công cụ tài chính phái sinh là tài sản tài chính có giá trị trong tương lai, phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản tài chính cơ sở tại thời điểm hợp đồng được ký kết. Các công cụ tài chính phái sinh bao gồm: Hợp đồng kỳ hạn (Forwards) là một thỏa thuận, trong đó, một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch với khối lượng xác định tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Hợp đồng kỳ hạn được thỏa thuận, ký trực tiếp bởi hai bên ký hợp đồng; được mua bán trên thị trường phi tập trung và được thanh toán vào ngày đáo hạn. Hợp đồng tương lai (Futures) cũng là hợp đồng mua hoặc bán một lượng xác định các tài sản cơ sở tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá xác định tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai nói chung được xử lý trên một Sở giao dịch. Điều này cho phép giá cả được hình thành hợp lý hơn do các bên mua, bên bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai. Mặt khác, các giao dịch của hợp đồng tương lai giúp xóa bỏ rủi ro tín dụng. Việc thực hiện các hợp đồng tương lai được đảm bảo bằng lòng tin và uy tín của những người chủ sở hữu giao dịch và công ty thanh toán bù trừ. Chính sự linh hoạt của hợp đồng tương lai đã khắc phục được những nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn và thương được xem là một cách thức tốt hơn để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh. Quyền chọn (Options) là một công cụ cho phép người nắm giữ có quyền mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một số lượng xác định các đơn vị tài sản cơ sở tại hay trước một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá xác định (strike price) ngay tại thời điểm thỏa thuận. Quyền mua trước (Rights) là quyền ưu tiên các cổ đông được mua chứng khoán mới phát hành (theo tỷ lệ với số lượng cổ phiếu mà cổ đông đang nắm giữ) với mức giá xác định (thường rẻ hơn giá thị trường) và trong 17 một thời hạn nhất định (thường có thời hạn rất ngắn, có khi chỉ vài tuần) trước khi cổ phiếu được chào bán lần đầu ra công chúng (thông qua TTCK). Chứng quyền (Warrants) là quyền cho phép các cổ đông mua một số cổ phần nhất định theo một mức giá xác định trong một thời hạn tương đối lâu (hàng năm). Chứng quyền tương tự quyền chọn mua, nhưng thời hạn của chứng quyền dài hơn nhiều (hàng năm) trong khi thời hạn của quyền mua trước ngắn hơn. Hơn nữa, chứng quyền được phát hành và đảm bảo bởi một công ty trong khi quyền mua trước chỉ là một công cụ tài chính và không được các công ty phát hành. Trên TTV, cơ chế hình thành giá cả khác nhau tùy theo đó là TTCK hay TTTD dài hạn. Trên TTTD dài hạn, giá cả của hàng hóa (vốn) chính là chi phí để được quyền sử dụng vốn. Chi phí này trên tổng số vay được gọi là lãi suất và phụ thuộc vào 2 yếu tố: tiền lãi và tiền vốn. Lãi suất cao hay thấp là do tỷ suất lợi nhuận bình quân hay hiệu quả hoạt động của nền kinh tế quyết định. Trong khi đó, giá cả của hàng hóa trên TTCK phụ thuộc vào đó là loại hình TTCK sơ cấp hay thứ cấp. TTCK sơ cấp là nơi phát hành chứng khoán lần đầu; do đó, giá hàng hóa ở giai đoạn này chính là giá phát hành chứng khoán. Giá chứng khoán có lãi suất cố định (trái phiếu) là giá trị được in trên trái phiếu. Giá chứng khoán có lãi suất biến động (cổ phiếu) là giá được in trên cổ phiếu. Giá cả chứng khoán ở TTCK thứ cấp là giá mà các chứng khoán thực sự mua bán trên thị trường và do đó, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu chứng khoán. 1.1.3. Chức năng và vai trò của TTV Chức năng chủ yếu của TTV là cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài hạn của chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình. Đồng thời, hoạt động trên TTV được xem như “hàn thử biểu” đo xu hướng vận động của nền kinh tế; giảm thiểu vấn đề mất cân đối kép của hệ thống ngân hàng. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất