Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Stt
Chữ viết tắt
Ý nghĩa
1
CtyCP
Công ty cổ phần
2
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
3
CPH
Cổ phần hoá
4
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
5
DNV&N
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
6
NHTM
Ngân hàng thương mại
7
TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán
8
TTCK
Thị trường chứng khoán
9
Tp. HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
10
UBCKNN
Uỷ ban chứng khoán nhà nước
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu.
Thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 5 năm triển khai và đi vào hoạt
động, những kết quả đạt được bước đầu là không thể phủ nhận, tuy nhiên hoạt
động của thị trường cũng còn nhiều tồn tại và bất cập. Thực tế hiện nay, TTGDCK
Tp.Hồ Chí Minh đã bước đầu ổn định, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài
hạn cho các doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, thị
trường này mới chỉ đáp ứng cho các doanh nghiệp có vốn lớn trên 10 tỷ đồng, và
có khả năng đáp ứng những yêu cầu khắt khe để được niêm yết trên Trung tâm,
như vậy quy mô của thị trường còn rất nhỏ bé. Trong khi hiện nay các DNV&N ở
nước ta chiếm tỷ trọng tương đối lớn, khoảng 88% tổng số doanh nghiệp hiện có,
đóng góp khoảng 45% GDP cho nền kinh tế. Nhưng thực tế các doanh nghiệp này
đang gặp khó khăn rất lớn về vốn để đầu tư mở rộng và tiếp tục sản xuất.
TTGDCK Hà Nội cũng đã chính thức đi vào hoạt động, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp DNV&N được tham gia vào thị trường chứng khoán để có thể
tiếp cận được nguồn vốn trung và dài hạn. Song quy mô thị trường còn rất nhỏ,
hàng hoá ít, chưa thu hút được nhiều các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNV&N
tham gia thị trường mặc dù các quy định niêm yết đã được nới lỏng hơn rất nhiều
so với trên TTGDCK Tp.HCM. Trong khi đó, thị trường tự do lại hoạt động khá
sôi động, có quy mô khá lớn song lại tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro và về lâu dài khó
đảm bảo được tính bền vững. Việc tổ chức và phát triển thị trường chứng khoán
cho DNV&N là đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, em đã chọn
“Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”
làm đề tài nghiên cứu.
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về việc phát triển TTCK của các
DNV&N.
- Đánh giá thực trạng của TTCK của các DNV&N ở Việt Nam.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp phát triển TTCK của các DNV&N.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn thị trường cổ phiếu của các DNV&N ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu phát triển thị trường cổ
phiếu của các DNV&N trên TTGDCK Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử làm căn bản. Đồng thời kết hợp với các phương pháp cụ thể như phân tích, đánh
giá…
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về TTCK của các DNV&N.
Chương 2: Thực trạng TTCK của các DNV&N ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp phát triển TTCK của các DNV&N ở Việt Nam.
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Tổng quan về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của thị trường chứng
khoán
TTCK được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK được hiểu
một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán-các hàng
hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia, theo những quy tắc ấn định
trước.
TTCK ra đời xuất phát từ nhu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế. Một nền
kinh tế muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết phải đáp ứng đủ
nhu cầu về vốn đầu tư. Tới một lúc nào đó, nhu cầu vốn này vượt quá khả năng
đáp ứng của các kênh huy động truyền thống. Mà trên thực tế, đang tồn tại một
lượng vốn rất lớn trong cộng đồng dân cư chưa tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh, gây mất cân đối trong nền kinh tế, đó là những người có cơ hội đầu tư
sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội
đầu tư, dẫn đến vốn bị ứ đọng, gây lãng phí. Xuất phát từ nghịch lý này, TTCK đã
ra đời đóng vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng, góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ,
tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế.
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm vào
khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương
Tây. Cho đến nay, quá trình phát triển của nó đã trải qua nhiều bước thăng trầm.
Lịch sử đã đánh dấu hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mĩ, Tây
Âu, Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ ngày thứ 5 đen tối”, 29/10/1929 và
“ngày thứ 2 đen tối”, 19/10/1987. Song, cùng với yêu cầu phát triển của nền kinh
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
tế, thị trường đã được phục hồi, tiếp tục phát triển và trở thành một thể chế tài
chính không thể thiếu của kinh tế thị trường.
1.1.2. Khái niệm và vai trò của thị trường chứng khoán.
1.1.2.1. Khái niệm thị trường chứng khoán.
TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán,
trao đổi các chứng khoán. Nghĩa là ở đâu có giao dịch mua bán chứng khoán thì
đó là hoạt động của TTCK.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó có
khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư, cho phép chủ sở hữu có quyền
yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu cầu này có sự
khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Có
nhiều cách để phân loại chứng khoán dựa theo các tiêu thức khác nhau. Nếu dựa
theo tính chất của chứng khoán thì hàng hoá trên thị trường bao gồm hai loại chủ
yếu là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
Với chứng khoán vốn, mà đại diện là cổ phiếu, nó xác nhận sự góp vốn và
quyền sở hữu phần vốn góp đó của cổ đông đối với tài sản của công ty cổ phần. Cổ
đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ
cấp theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, cổ đông còn có quyền tham gia quản lý
công ty thông qua quyền tham gia và bỏ phiếu tại Đại hội cổ đông, quyền mua
trước đối với cổ phiếu phát hành mới.
Với chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu, là loại chứng khoán quy định
nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả cho chủ sở hữu chứng khoán toàn bộ giá trị
cam kết bao gồm cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định.
Với các đặc tính trên, chứng khoán được xem là các tài sản tài chính mà giá
trị của nó phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ bản của các quyền của chủ sở hữu đối
với tổ chức phát hành.
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
Đặc điểm cơ bản nhất của TTCK là thị trường tự do, tự do nhất trong các
loại thị trường. Ở TTCK không có sự độc đoán, can thiệp cưỡng ép về giá. Giá
mua bán hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ
cấp hay ở thị trường thứ cấp, tại Sở giao dịch hay tại thị trường giao dịch qua quầy,
ở thị trường giao ngay hay ở thị trường kì hạn. Các quan hệ mua bán trao đổi làm
thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, thực chất đây chính là quá trình vận động
của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Quá trình vận động của tư bản được thực hiện xuất phát từ chức năng kinh tế
nòng cốt của thị trường tài chính trong việc dẫn vốn từ những người tạm thời dư
thừa vốn sang những người cần vốn. Sự chuyển dịch vốn được thể hiện qua sơ đồ
H1.1
Tài trợ gián tiếp
Các trung gian tài chính
Vốn
- Ngân hàng thương mại
- Bảo hiểm, quỹ hưu trí
- Tổ chức nhận tiền gửi và
cho vay
Người cho vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
3. Chính phủ
4. Nước ngoài
Vèn
vố
n
Thị trường tài
chính
- Thị trường tiền tệ
- Thị trường vốn
Vốn
Người đi vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
3. Chính phủ
4. Nước ngoài
Vèn
Tài trợ trực tiếp
Sơ đồ 1: Các dòng vốn qua hệ thống tài chính
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con
đường trực tiếp và gián tiếp. Những người cần vốn có thể huy động trực tiếp từ
những người tạm dư thừa vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Hoặc con
đường thứ hai để dẫn vốn là thông qua các trung gian tài chính, đây là một bộ phận
đã chuyển tải một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm đưa vào đầu tư và góp phần
tích cực trong việc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn.
Như vậy, thị trường tài chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc tích tụ,
tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế. Được xem là đặc
trưng cơ bản của thị trường vốn, TTCK là thị trường mà giá cả của chứng khoán
(hàng hoá trên thị trường) chính là giá cả của vốn đầu tư, vì vậy, TTCK được coi là
hình thức phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường.
1.1.2.2. Vai trò của TTCK
Xu thế hội nhập và quốc tế hoá nền kinh tế đòi hỏi tự bản thân mỗi quốc gia
phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Một thị trường tài chính
năng động có khả năng làm tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế hơn bất cứ một
loại tài nguyên nào, mà trong đó TTCK là một định chế tài chính rất quan trọng.
Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan
trọng của TTCK trong phát triển kinh tế:
Thứ nhất, TTCK cùng với sự vận hành của mình đã tạo ra các công cụ có
tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời hạn của
vốn phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh
tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả.
Thứ hai, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý
doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp. Với cơ
chế thông tin hoàn hảo đã tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm
tác động của các tiêu cực trong quản lý, đảm bảo phân bổ lợi ích một cách hài hoà
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
giữa người sở hữu, nhà quản lý và người làm công ăn lương. Đồng thời, TTCK đã
tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN.
Thứ ba, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua
việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, từ đó
phân tán quyền lực kinh tế trong tay một số tập đoàn, tránh hiện tượng độc quyền,
song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc giải toả tập trung quyền lực
kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng
trưởng kinh tế.
Thứ tư, TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ có thể huy động được các nguồn
tài chính để phục vụ cho các mục đích của mình mà không tạo áp lực về lạm phát,
hơn nữa, hoạt động của TTCK còn giúp tăng thu ngân sách cho Nhà nước, đồng
thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
Thứ năm, việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị
trường quốc tế hay nói khác đi muốn khẳng định đến tính hiệu quả của quốc tế hoá
TTCK. Điều này cho phép các công ty có thể huy động được một lượng vốn đầu tư
lớn ở thị trường ngoài nước, bên cạnh đó mở rộng các cơ hội kinh doanh cho các
công ty trong nước, cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn được rẻ hơn.
Thứ sáu, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh
trong tương lai. Việc giá chứng khoán lên xuống có xu hướng đi trước chu kỳ kinh
doanh đã đưa ra một dự báo giúp cho Chính phủ và các công ty có kế hoạch phân
bổ các nguồn lực của họ. Như vậy, TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh
tế.
Ngoài những tác động tích cực trên, hoạt động của TTCK cũng có những tác
động tiêu cực nhất định. Ta biết rằng, thị trường hoạt động dựa trên cơ sở thông tin
hoàn hảo, tuy nhiên ở hầu hết các thị trường không phải nhà đầu tư nào cũng có
khả năng tiếp cận thông tin đầy đủ và như nhau, vì vậy việc đưa ra các quyết định
đầu tư không hoàn toàn dựa trên việc xử lý thông tin, dẫn tới việc giá cả chứng
khoán không phản ánh chính xác giá trị công ty và chưa phân bổ một cách hiệu quả
các nguồn lực. Ngoài ra, còn có một số hiện tượng tiêu cực khác trên TTCK như
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
hiện tượng đầu cơ, mua bán nội gián, xung đột quyền lực…gây tâm lý e ngại cho
các nhà đầu tư. Thực tế này đặt lên vai các nhà quản lý thị trường phải có những
biện pháp hiệu quả để giảm thiểu đến mức tối đa các tiêu cực trên thị trường nhằm
đảm bảo cho tính hiệu quả của thị trường, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho các nhà
đầu tư.
Như vậy ta thấy vai trò của TTCK đã được thể hiện dưới nhiều góc độ khác
nhau. Vai trò này có thực sự được phát huy hay không nó phụ thuộc vào sự quản lý
của Nhà nước và các chủ thể tham gia thị trường.
1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
TTCK là một thực thể phức tạp mà hoạt động của thị trường có nhiều loại
chủ thể khác nhau tham gia. Các chủ thể này hoặc là bán chứng khoán, hoặc là
mua chứng khoán, hoặc chỉ là trung gian môi giới cho hai bên mua bán để hưởng
hoa hồng. Bên cạnh đó còn có các chủ thể quản lý là Nhà nước và các tổ chức phụ
trợ.
1.1.3.1. Chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý có nghĩa vụ bảo đảm cho TTCK hoạt động theo đúng các
quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm cho việc mua bán chứng khoán trên thị
trường diễn ra một cách công khai, công bằng, tránh những yếu tố tiêu cực có thể
xảy ra, từ đó bảo vệ lợi ích của người đầu tư.
Hiện nay hầu hết các nước có TTCK đều có cơ quan quản lý và giám sát về
chứng khoán và TTCK. Với những tên gọi khác nhau (tuỳ theo mỗi nước) nhưng
thường là UBCK Quốc gia, bên cạnh đó còn có Hiệp hội kinh doanh chứng khoán,
các Sở giao dịch chứng khoán. Ở mỗi quốc gia, với những đặc trưng riêng có mà
có những hình thức quản lý khác nhau và thiết lập nên những cơ quan quản lý khác
nhau.
Ở Việt Nam hiện nay, UBCKNN đang trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan
quản lý cao nhất về chứng khoán và TTCK. Theo đó, UBCKNN sẽ nghiên cứu
vạch kế hoạch, dự thảo các văn bản pháp luật và các thể lệ chế độ về tổ chức và
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
hoạt động TTCK để trình cấp có thẩm quyền quyết định ban hành. Đồng thời quản
lý, giám sát hoạt động của TTCK, đưa ra các giải pháp hữu hiệu để đảm bảo thị
trường hoạt động tốt. Ngoài UBCKNN, các cơ quan quản lý khác như Ngân hàng
Nhà nước, các Bộ, đặc biệt là Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán cũng có
vai trò rất lớn trong hoạt động quản lý các thành viên tham gia thị trường, và bảo
vệ lợi ích cho các thành viên.
1.1.3.2. Chủ thể kinh doanh ( Trung gian tài chính )
Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của TTCK, TTCK hoạt
động hiệu quả một phần là nhờ sự thủ vai tốt của các trung gian này. Với tư cách là
nhà kinh doanh chứng khoán, họ thực hiện việc mua bán chứng khoán cho chính
bản thân mình nhằm mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh đó, họ còn đóng vai trò là thành
viên hỗ trợ cho hoạt động của thị trường thông qua các nghiệp vụ đại lý bão lãnh
phát hành, tư vấn và môi giới chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Trên thực tế,
các công ty chứng khoán tham gia với vai trò là nhà môi giới kinh doanh chứng
khoán thường làm cả hai nghiệp vụ là môi giới để hưởng hoa hồng và tự doanh để
tìm chêch lệch giá. Sự tham gia của các công ty chứng khoán này đã góp phần làm
cho hoạt động của thị trường diễn ra liên tục, thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
1.1.3.3. Các nhà đầu tư
Chủ thể đầu tư là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào
TTCK bằng cách thực sự mua các chứng khoán đang được phát hành nhằm hưởng
lãi và lợi nhuận. Chủ thể đầu tư trên thị trường có thể là tổ chức đầu tư hoặc các
nhà đầu tư cá nhân.
Nhà đầu tư cá nhân chính là công chúng, một loại chủ thể có khả năng cung
cấp một khối lượng tiền tệ rất lớn. Công chúng khi có vốn tạm thời nhàn rỗi, họ
tham gia mua chứng khoán với mục đích đầu tư kiếm lời. Khi có nhu cầu vốn họ
đem bán lại các chứng khoán đã mua trên thị trường thứ cấp. Họ tham gia thị
trường bằng nhiều cách khác nhau có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các
nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính.
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
Nhà đầu tư có tổ chức, có thể là các NHTM, công ty bảo hiểm, các quỹ hưu
trí, quỹ tương hỗ, công ty quản lý quỹ…họ thường xuyên mua bán chứng khoán
với số lượng lớn trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. Các tổ chức đầu tư thường
đầu tư theo danh mục và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia
có trình độ và kinh nghiệm cao, mang tính chuyên nghiệp. Vai trò của các tổ chức
đầu tư này ở các nước có TTCK phát triển ngày càng to lớn.
1.1.3.4. Tổ chức phát hành chứng khoán.
Là những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các chứng khoán
trên thị trường sơ cấp. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các tổ chức tài
chính trung gian khác, và các doanh nghiệp. Trong số đó chủ yếu là Chính phủ và
các doanh nghiệp.
Các chủ thể phát hành tham gia huy động vốn bằng nhiều phương thức khác
nhau nhằm phục vụ cho các mục đích khác nhau. Chính phủ phát hành các chứng
khoán như: Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu Kho bạc nhằm bù đắp thâm hụt ngân
sách, xây dựng cơ sở hạ tầng, cầu cống, đường xá… Các doanh nghiệp phát hành
cổ phiếu, trái phiếu công ty nhằm đổi mới trang thiết bị, mở rộng sản xuất kinh
doanh…Các doanh nghiệp tham gia thị trường với tư cách là người tạo ra hàng hoá
ở thị trường sơ cấp, và mua bán lại các chứng khoán ở thị trường thứ cấp.
1.1.3.5. Các tổ chức phụ trợ
Sự tham gia của các tổ chức phụ trợ giúp cho hoạt động của thị trường diễn
ra trôi chảy, đó là Trung tâm Lưu ký, thanh toán và bù trừ chứng khoán, các công
ty đánh giá hệ số tín nhiệm…
Như vậy, có thể thấy rằng TTCK hoạt động được là nhờ hoạt động của các
chủ thể tham gia. Tuy khác nhau về tính chất, mục tiêu và cách làm, hoạt động của
họ liên đới và bổ sung chặt chẽ cho nhau, nhờ thế tài sản tài chính từ sở hữu của
người này chuyển sang sở hữu của người khác một cách hợp lý và hài hoà để nền
kinh tế hoạt động với những giá trị mới được tạo ra từng giờ, mỗi ngày.
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
1.1.4. Phân loại TTCK.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại TTCK theo các
tiêu thức khác nhau, có thể phân loại theo hàng hoá, phân loại theo cấu trúc tổ chức
của thị trường hay phân loại theo quá trình luân chuyển vốn. Trong bài nghiên cứu
này, người viết sẽ phân loại theo cấu trúc tổ chức thị trường. Theo đó, TTCK được
phân thành 3 loại thị trường sau:
Sở giao dịch chứng khoán: Tại đây, người mua và người bán (hoặc môi
giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch, mua bán
chứng khoán. Vì vậy người ta còn gọi Sở giao dịch là thị trường tập trung – là nơi
tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có tổ chức tuân theo những luật lệ
nhất định, là nơi tiến hành giao dịch chứng khoán của những công ty lớn, làm ăn
có hiệu quả. Như vậy, Sở giao dịch chứng khoán không tham gia vào việc mua bán
chứng khoán mà chỉ là nơi giao dịch, một trung tâm tạo điều kiện cho các giao
dịch được tiến hành một cách thuận lợi, dễ dàng. Đồng thời, Sở giao dịch cũng là
cơ quan thực hiện chức năng quản lý, điều hành các hoạt động diễn ra trên thị
trường tập trung nhằm tạo điều kiện để các giao dịch được thực hiện công bằng,
minh bạch và đúng pháp luật. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách
chặt chẽ bởi UBCKNN.
Thị trường phi tập trung (Thị trường OTC): Tại hầu hết các nước, bên
cạnh thị trường giao dịch tập trung, nơi diễn ra các hoạt động giao dịch chứng
khoán của những công ty lớn, còn có thị trường phi tập trung (OTC) chủ yếu dành
cho việc giao dịch chứng khoán của những DNV&N chưa hội đủ các điều kiện
niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung. Thị trường OTC đại diện cho một thị
trường thương lượng, nơi mà người bán và người mua trực tiếp thương lượng với
nhau về những điều kiện chủ yếu của giao dịch như số lượng, giá… Có thể nói
rằng, OTC là thị trường của những nhà tạo lập thị trường - những nhà đầu tư
chuyên nghiệp. Các nhà tạo lập thị trường nắm trong tay một lượng chứng khoán
đủ lớn và họ sẵn sàng mua bán chứng khoán với nhau cũng như với các nhà đầu tư
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
khi họ chấp nhận được giá cả của họ. Tương tự như hệ thống thị trường tập trung,
thị trường OTC thường được tổ chức theo 2 cấp: cấp quản lý Nhà nước và cấp tự
quản.
Như vậy, trong TTCK để huy động vốn cho các doanh nghiệp, Sở giao dịch
là nơi giao dịch chứng khoán của những doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp
này có khả năng đáp ứng được những quy định niêm yết ngặt nghèo về vốn, tình
hình hoạt động kinh doanh…trên Sở, mà những DNV&N thường không đáp ứng
đủ. Còn đại bộ phận cổ phiếu của các DNV&N được giao dịch trên thị trường
OTC, ở đó những tiêu chuẩn niêm yết thường thấp hơn trên Sở giao dịch. Hay nói
khác đi, TTCK cho các DNV&N là một bộ phận chủ yếu của thị trường OTC. Sở
dĩ người ta đưa ra các tiêu chuẩn niêm yết khác nhau trên các loại thị trường là vì:
nếu chúng ta không phân ra và cứ để phát triển một TTCK chung cho tất cả các
doanh nghiệp có quy mô khác nhau thì Nhà nước khó đề ra những chính sách công
bằng và quản lý tối ưu cho thị trường chung ấy. Thực tế cho thấy, có doanh nghiệp
vốn lớn hàng trăm tỷ đồng, nhưng cũng có những doanh nghiệp quy mô vài tỷ
đồng, quy mô của doanh nghiệp có thể quyết định đến khả năng hoạt động, lĩnh
vực kinh doanh, cách thức tiếp cận vốn, các tiêu chí về rủi ro an toàn, niềm tin của
nhà đầu tư…đối với hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, người ta thường có sự
phân tách giữa các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế để có những chính sách,
chiến lược phù hợp điều chỉnh hoạt động của từng doanh nghiệp. Hơn nữa khi ra
quyết định đầu tư, nhà đầu tư cũng thường quan tâm đến độ lớn vốn chủ của các
doanh nghiệp niêm yết. Vì vậy, cần có sự phân biệt giữa TTCK giao dịch chứng
khoán của những doanh nghiệp lớn và TTCK giao dịch chứng khoán của những
doanh nghiệp nhỏ, điều này là rất cần thiết để có chiến lược phát triển cho từng
loại thị trường một cách hiệu quả, đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý của Nhà nước,
nguyện vọng của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cũng như các chủ thể khác
tham gia TTCK.
Ngoài hai loại thị trường trên người ta còn nói tới một thị trường thứ ba, thị
trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên hai thị
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
trường trên. Ngoài ra, người ta còn phân loại TTCK thành thị trường mở và thị
trường đàm phán, thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn. Việc phân loại TTCK
sẽ giúp phân tích cụ thể hơn vai trò của TTCK.
1.2. Một số vấn đề về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thuật ngữ “DNV&N” ở các nước phương Tây viết tắt là SME ( Small and
medium Enterprise) là một thuật ngữ có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong thực tế,
việc xác định DNV&N của mỗi nước thường được cân nhắc đối với từng giai đoạn
phát triển kinh tế, tính chất ngành nghề, và điều kiện phát triển của mỗi vùng lãnh
thổ nhất định. Tuy nhiên chúng đều có một điểm chung nhất là dùng để chỉ một
loại hình doanh nghiệp được xếp loại theo những tiêu chí nhất định, thông thường
đó là các tiêu chí về số nhân công, vốn đăng ký, doanh thu… Các tiêu chí này thay
đổi theo từng quốc gia, từng ngành. Trong bản thân một nước, các tiêu chí xác định
DNV&N cũng không cố định mà được thay đổi tuỳ theo trình độ phát triển của
từng thời kỳ nhất định. Bảng 1.1 dưới đây đã tập hợp một số tiêu thức phân loại
DNV&N ở một số nước trên thế giới.
Bảng 1: Tiêu thức xác định DNV&N của một số nước trên thế giới
STT
Nước
1
Mỹ
2
Nhật Bản
3
EU
4
Australia
Phân loại
Số lao động
Số vốn
I. Các nước phát triển
Tất cả các
Không quan
0 - 500
ngành
trọng
Chế tác
1 - 300
300 triệu Yên
0 – 100 triệu
Bán buôn
1 - 100
Yên
Bán lẻ
1 – 50
0 – 50
Dịch vụ
1 - 100
1 – 100
Không quan
DN cực nhỏ
< 10
trọng
DN nhỏ
< 50
DN vừa
< 250
Không quan
Chế tác nhỏ
< 100
trọng
Chế tác vừa
100 – 199
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Doanh thu
Không quan
trọng
7 triệu Ecu
27 triệu Ecu
Không quan
trọng
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
5
1
Hàn Quốc
Thái Lan
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
Dịch vụ nhỏ
< 20
Dịch vụ vừa
20 - 199
Chế tác
0 - 300
20 - 80 tỷ Won
K mỏ & vận
Không quan
0 - 300
tải
trọng
Xây dựng
0 - 200
TM & DV
0 - 20
II. Các nước đang phát triển
Không quan
Sản xuất nhỏ
0 - 50 tr Baht
trọng
Sản xuất vừa
51 - 200
Bán buôn nhỏ
Bán buôn vừa
Bán lẻ nhỏ
Bán lẻ vừa
0 - 50
51 - 100
0 - 30
DN nhỏ
2
Indônêxia
Không quan
trọng
3
Philippine
DN nhỏ
DN vừa
10 – 99
100 - 199
4
Malaysia
Chế tác
0 - 150
DN cực nhỏ
0 - 15
Mêxico
1
Nga
2
Trung
Quốc
3
Hungary
4
Ba Lan
5
6
Rumani
Bungary
Không quan
trọng
31 - 60
DN vừa
5
Không quan
trọng
0 – 20.000$
0 – 100.000$
20.000 –
100.000$
1,5 – 15 tr Pêxo
10 – 60 tr
Không quan
trọng
Không quan
trọng
100.000 –
500.000
DN nhỏ
16 – 100
DN vừa
101 - 250
III. Các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi
Không quan
DN nhỏ
1 – 249
trọng
DN vừa
250 – 999
DN nhỏ
50 – 100
DN vừa
101 - 500
DN cực nhỏ
1 – 10
DN nhỏ
10 - 50
DN vừa
50 - 250
DN nhỏ
< 50
DN vừa
51 - 200
DN nhỏ
1 – 20
DN nhỏ
< 50
20 tr BGL
0 – 25 RM
Không quan
trọng
Không quan
trọng
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
Ở Việt Nam, ngày 20/6/1998 Chính phủ đã ban hành công văn số 61/CPKTN về định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNV&N; theo đó
DNV&N trong ngành công nghiệp là các doanh nghiệp phải có số vốn điều lệ dưới
5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 300 người. Trong thương mại,
dịch vụ là những doanh nghiệp có vốn sản xuất dưới 3 tỷ đồng và số lao động dưới
200 người. Trong đó, doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng và số lao động dưới 50
người trong công nghiệp và dưới 30 người trong thương mại, dịch vụ là doanh
nghiệp nhỏ. Tiêu chí này dựa trên hai căn cứ là tổng số vốn và số người lao động.
Và tiếp sau đó, để đảm bảo thống nhất cách hiểu về DNV&N trên toàn quốc,
ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra
định nghĩa chính thức về DNV&N như sau: “ DNV&N là cơ sở sản xuất, kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người”.
Việc xác định DNV&N như trên là phù hợp với thực tế khách quan của
nước ta trong giai đoạn hiện nay với nguồn vốn có hạn, lao động dồi dào, đáp ứng
được nhu cầu bức bách của xã hội là đảm bảo công ăn việc làm, nâng cao mức
sống của đại đa số nhân dân lao động. Theo cách xác định này thì ở nước ta hiện
nay, số DNV&N chiếm khoảng 90% trong tổng số doanh nghiệp, là nơi tạo việc
làm cho gần 90% lực lượng lao động và có một vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế. Do đó, Nhà nước cần có những chính sách phù hợp để phát triển khối
các doanh nghiệp này.
1.2.2. Vai trò của DNV&N
DNV&N ở Việt Nam nói riêng cũng như nhiều nước trên thế giới đóng một
vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Theo thống kê tại Việt Nam, trong tổng
số khoảng 200.000 doanh nghiệp thì khối các DNV&N chiếm khoảng 88%, với
những đặc điểm riêng có, khu vực DNV&N thể hiện qua một số vai trò chủ yếu
sau:
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
Một là, DNV&N có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế
Ở mỗi nước, tỷ lệ phát triển hợp lý giữa các doanh nghiệp lớn và DNV&N là
tuỳ thuộc vào thực trạng kinh tế xã hội ở từng thời kỳ. Thông thường các doanh
nghiệp lớn hoạt động trong một số ngành nòng cốt với kỹ thuật hiện đại, vốn lớn.
Còn các DNV&N hoạt động trong những ngành vốn ít, sử dụng nhiều lao động
như các ngành công nghiệp nhẹ hoặc các ngành giữ vai trò bổ trợ cho các doanh
nghiệp lớn. Hai khu vực doanh nghiệp này luôn có tác động tương hỗ nhằm phát
huy thế mạnh của nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của cả nước.
Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu và quản lý Trung ương trong
những năm qua khối DNV&N đã đóng góp khoảng 30% GDP của cả nước. Ngoài
ra, các DNV&N của nước ta còn cung cấp 100% sản phẩm trong nhiều ngành, đặc
biệt là những ngành công nghiệp thủ công truyền thống như chiếu cói, giầy dép.
Ngày nay, khối các DNV&N đang ngày càng lớn mạnh, với sự phát triển này chắc
chắn nó đang và sẽ góp phần không nhỏ vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Hai là, góp phần làm năng động, linh hoạt, tăng tính cạnh tranh trong
nền kinh tế.
Các DNV&N hoạt động với quy mô vốn không lớn nên có ưu thế nổi bật là
có thể chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang
những ngành nghề hiệu quả hơn nhằm thoả mãn nhu cầu rất linh hoạt của dân cư.
Do lợi thế là linh hoạt và sáng tạo trong kinh doanh cho nên các DNV&N góp
phần làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Hơn nữa, chiếm đa số trong tổng
số các doanh nghiệp trong cả nước tham gia vào nền kinh tế (với tư cách là những
chủ thể kinh doanh độc lập), nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, giảm bớt khả
năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền
kinh tế.
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
Ba là, DNV&N có vai trò quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quá trình phát triển DNV&N cũng là một quá trình cải tiến máy móc, thiết
bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị
trường, đến một mức độ nào đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho
quá trình CNH-HĐH đất nước không chỉ ở chiều sâu mà cả ở chiều rộng.
Sự mềm mại, linh hoạt của DNN&V tạo ra một cơ cấu kinh tế có tính đổi
mới và thích ứng cao cho nền kinh tế đang trong quá trình đổi mới và phát triển.
Cơ cấu ngành, thành phần, cơ cấu vùng lãnh thổ tạo điều kiện tận dụng và thu hút
tốt các nguồn lực cho đầu tư phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn
Bốn là, DNV&N góp phần giải quyết công ăn việc làm, từ đó làm giảm
tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, hiện nay, ở nước ta hằng năm
có thêm khoảng 1,2-1,4 triệu người đến tuổi lao động. Việc tạo thêm việc làm đang
là một áp lực xã hội mạnh đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương.
Các DNV&N có đặc điểm chung là vốn ít, hoạt động chủ yếu trong các ngành sử
dụng nhiều lao động, thu hút khoảng 50-75% lực lượng lao động trong các ngành
kinh tế đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, tăng thu nhập cho
người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Ở Việt Nam theo báo cáo tổng kết đánh giá 4 năm thi hành Luật doanh
nghiệp cho thấy, trong 4 năm qua ước tính đã có khoảng 1,8-2 triệu chỗ làm việc
mới đã được tạo ra nhờ các doanh nghiệp, trong đó DNV&N đóng góp khoảng
80% chỗ làm việc.
Ngoài ra, phần lớn lao động trong các DNV&N đều xuất thân từ nông
nghiệp, nông thôn, chưa quen với lối sống và làm việc theo phương thức công
nghiệp. Vì vậy, ngoài việc đào tạo nghề, không ít chủ doanh nghiệp còn phải
hướng dẫn họ về nếp sống mới, về tính kỷ luật trong phương thức sản xuất công
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
nghiệp, qua đó góp phần xoá đói giảm nghèo, giảm khoảng cách về thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư và tăng mức độ công bằng trong nền kinh tế.
Năm là, gieo mầm cho các tài năng kinh doanh – là “lồng ấp” cho các
doanh nghiệp lớn.
Sự phát triển của các DNV&N đã có tác dụng đào tạo, chọn lọc các tài năng
kinh doanh trẻ. Với trí tuệ và kinh nghiệm, họ biết cách làm giàu cho bản thân
mình và xã hội, kinh nghiệm quản lý của họ sẽ được nhân ra và truyền bá tới nhiều
cá nhân trong cả nước để học hỏi và noi theo.
Ngoài ra, các DNV&N còn là nền tảng quan trọng để phát triển các doanh
nghiệp lớn. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, phần lớn các tập đoàn, các tổng
công ty lớn đều bắt nguồn từ DNV&N làm ăn hiệu quả, tiến hành mở rộng sản
xuất kinh doanh để phát triển thành các tập đoàn.
Qua sự phân tích trên ta thấy, khối các DNV&N đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những đóng góp của khối
các doanh nghiệp này không hề nhỏ. Tuy nhiên hiện nay, các DNV&N đang hoạt
động trong một môi trường kinh tế không hoàn toàn thuận lợi ở cả tầm vĩ mô và vi
mô, trong đó gặp rất nhiều khó khăn về công nghệ sản xuất, mô hình quản lý, kỹ
năng của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt phải kể đến sự hạn chế về vốn đầu tư để tiến
hành đổi mới trang thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Với số lượng
ngày càng gia tăng thì nhu cầu huy động vốn của khối các DNV&N cũng ngày
càng lớn, trong khi đó các nguồn đáp ứng lại bị hạn chế. Vậy thì, các doanh nghiệp
này sẽ đối mặt với vấn đề huy động vốn phục vụ cho nhu cầu của mình như thế
nào?
1.2.3. Đặc điểm của DNV&N.
Đặc điểm của các DNV&N có thể được phân tích thông qua các điểm mạnh
và điểm yếu của nó:
Về các điểm mạnh:
So với các loại hình doanh nghiệp khác thì DNV&N có một số điểm mạnh
sau:
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
TrÇn ThÞ BÝch Ngäc
Một là, dễ khởi nghiệp. Loại hình doanh nghiệp này gần như không đòi hỏi
một lượng vốn lớn ngay trong giai đoạn đầu cho nên dễ dàng có thể bắt đầu ngay
sau khi có ý tưởng kinh doanh và có một số vốn nhỏ.
Hai là, tính linh hoạt. Do quy mô nhỏ, hoạt động chủ yếu trong các ngành
nghề thủ công truyền thống nên hầu hết các doanh nghiệp này đều rất năng động
và dễ dàng thay đổi thích ứng với môi trường kinh doanh phù hợp thông qua việc
chuyển dịch các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Ba là, lợi thế trong cạnh tranh, lợi thế trong việc theo sát thị hiếu và nhu cầu
của người tiêu dùng, qua đó tạo ra nhiều loại hàng hoá và dịch vụ đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Về các điểm yếu:
Bên cạnh các điểm mạnh được chỉ ra ở trên, DNV&N còn có các điểm yếu
nhất định như: thiếu vốn, khó có khả năng để tiến hành các công trình lớn, thường
bị lép vế trong mối quan hệ với Ngân hàng cũng như thiếu sự ủng hộ của công
chúng.
Cùng với việc dễ khởi nghiệp thì rủi ro kinh doanh của các doanh nghiệp
này là rất cao, dễ dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp. Tất nhiên không loại
trừ trường hợp rủi ro cao thì vẫn có thể kiếm được lợi nhuận cao trong chớp
nhoáng. Đồng thời có một sự thiếu ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các DNV&N.
Về tổ chức sản xuất, có thể thấy năng lực quản lý trong các DNV&N là rất
yếu kém, doanh nghiệp thường được tổ chức theo mô hình gia đình trị, vì vậy bản
thân doanh nghiệp không muốn lên sàn, không muốn cổ đông bên ngoài doanh
nghiệp nắm giữ phần tài sản của nó, bên cạnh đó doanh nghiệp cũng rất ngại vấn
đề công bố thông tin khi tham gia TTCK.
Ngoài ra, các DNV&N cũng gây ra không ít những ảnh hưởng tiêu cực trong
nền kinh tế như do vốn ít, quy mô hoạt động nhỏ nên hầu hết các doanh nghiệp này
không quan tâm đến việc bảo vệ môi trường hoặc nhiều khi doanh nghiệp bị phá
sản thì gây ra sự mất lòng tin của công chúng đối với loại hình doanh nghiệp này.
GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh
Líp TTCK 44
- Xem thêm -