1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................. 3
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC . ............ 4
1.1. Khái niệm, phân loại và vai trò của Nguồn nhân lực ................................................... 4
1.2. Nội dung của phát triển Nguồn nhân lực nông thôn ..................................................... 10
1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực theo hướng CNH-HĐH .............. 15
CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂNNGUỒN NHÂN LỰC Ở
NÔNG THÔN PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH-HĐH Ở NƢỚC TA ............................... 17
2.1. Những đặc điểm của nông thôn Việt Nam ảnh hưởng đến quá trình phát triển nguồn
nhân lực ............................................................................................................................. 17
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực nông thôn Việt Nam khi bước vào thời kỳ CNH-HĐH ..... 18
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG
THÔN PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH-HĐH ĐẤT NƢỚC. ............................................ 37
3.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm tới ..................... 37
3.2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ CNH-HĐH ở bước ta . 39
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 51
2
LỜI NÓI ĐẦU
Từ nửa sau thế kỷ thứ XVIII, công nghiệp hoá với tư cách là một phương thức phát
triển bắt đầu xuất hiện trên thế giới và ngày càng được phổ biến. Nhìn lại 200 năm về trước,
tính từ giữa thập kỷ 90, ta có thể thấy, công nghiệp hoá được coi như một nấc thang tất yếu
mà bất cứ một nước chậm phát triển nào cũng phải đi qua để trở nên giàu có và hùng mạnh.
Việt Nam - một đất nước nông nghiệp, kém phát triển - cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Mỗi người con đất Việt khi xa quê hương vẫn luôn mang trong mình một kỷ niệm thời ấu
thơ trong trẻo, bình yên với những vùng nông thôn trù phú, bao quanh là những cánh đồng
lúa xanh mướt, rộng lớn và thanh bình. Tuy nhiên, ngày nay Việt Nam đã vươn vai trở thành
một đất nước giàu mạnh hơn. Nông thôn Việt Nam đã đổi mới, đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn,
phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng, chyển dịch cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hót nhiều lao động ở nông thôn. Đưa nhanh
tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về
trình độ công nghệ và thu nhập trên một đơn vị diện tích, tăng năng suất lao động, nâng cao
chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Như vậy, nông thôn Việt Nam đang hoà mình vào sự nghiệp đổi mới và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của đất nước. Song, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn thì một
trong những yếu tố mang tính quyết định là nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có phát triển
mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng thì mới có thể công nghiệp hoá - hiện đại hoá
nông thôn được. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá tuy là phương thức chung đối với các nước
nhưng trên thực tế, thời điểm xuất phát và nhịp độ tiến hành công nghiệp hoá ở từng nước lại
không giống nhau. Tuy vậy, vượt qua được nấc thang ấy, hầu như quốc gia nào cũng coi quá
trình làm giàu kho tàng trí tuệ của mình như là một yếu tố có tính tiên quyết để từ một nước
có nền kinh tế yếu kém để trở thành một nước hùng mạnh.
3
CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. KHÁI NIỆM PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÕ NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.1. Khái niệm Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với dân số, đó là một bộ phận quan trọng của
dân số, đóng vai trò tạo ra của cải vật chất và văn hoá cho xã hội. Tuỳ theo trình độ phát
triển của mỗi quốc gia, dân téc mà có các định nghĩa khác nhau về Nguồn nhân lực.
Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô thì: “Nguồn nhân lực là
toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tàng (có
khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động)”.
Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Pháp thì Nguồn nhân lực ở phạm
vi hẹp hơn. Nó không gồm những người có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm
việc. Như vậy với quan điểm này, Nguồn nhân lực mất hẳn một lực lượng có khả năng lao
động nhưng vì lý do nào đó mà không có nhu cầu làm việc.
Theo giáo trình môn Kinh tế lao động của trường Đại Học Kinh tế quốc dân thì
Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. Trước
hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội bao gồm toàn bộ dân cư có thể
phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hoặc dị tật bẩm sinh).
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế- xã hội là khả năng
lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động. Với cách hiểu này Nguồn nhân lực tương đương với Nguồn lao
động.
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia
vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá
trình lao động. Với cách hiểu này Nguồn nhân lực bao gồm những người từ giới hạn dưới độ
tuổi lao động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi).
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô Nguồn nhân lực, song đều
nhất trí với nhau đó là Nguồn nhân lực nói lên khả năng lao động của xã hội.
4
1.1.2. Phân loại Nguồn nhân lực
1.1.2.1. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành chia Nguồn nhân lực làm ba loại:
+ Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số: bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động , không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc . Theo
thống kê của Liên Hiệp Quốc, khái niệm này còn gọi là dân số hoạt động, có nghĩa là tất cả
những người có khả năng làm việc trong dân số tính theo tuổi lao động quy định (Luật Lao
động của Việt Nam quy định tuổi lao động từ 15-55 tuổi đối với nữ, 15-60 tuổi đối với nam).
Nguồn nhân lực này chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số, thường từ 50% hoặc hơn
nữa, tùy theo đặc điểm về dân số và nhân lực của từng nước.
+ Nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh
tế) là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có công ăn việc làm, đang
hoạt động trong các ngành kinh tế văn hoá xã hội.
Như vậy, giữa Nguồn nhân lực sẵn có trong dân số và Nguồn nhân lực tham gia hoạt
động kinh tế có sự khác nhau.Sự khác nhau này là do một bộ phận những người trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau chưa tham gia
vào hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm việc, còn đang học
tập, có thu nhập khác không cần đi làm…).
+ Nguồn nhân lực dự trữ là những người nằm trong độ tuổi lao động nhưng vì lý do
nào đó chưa tham gia hoạt động kinh tế. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về
nhân lực. Họ gồm có: Những người làm công việc nội trợ gia đình, những người đang học
các trường phổ thông và các trường trung học chuyên nghiệp, những người đã hoàn thành
nghĩa vụ quân sự, những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc
không có nghề) muốn tìm việc làm.
1.1.2.2. Căn cứ vào vai trò của bộ phận Nguồn nhân lực chia Nguồn nhân lực làm
3 loại sau:
+ Nguồn nhân lực chính: gồm những người nằm trong độ tuổi có khả năng lao động.
+ Nguồn nhân lực phụ: gồm toàn bộ những người nằm ngoài độ tuổi lao động (trên
dưới độ tuổi lao động) có thể và cần tham gia vào lực lượng sản xuất.
+ Nguồn nhân lực bổ sung.
5
1.1.2.3. Căn cứ vào trạng thái có việc làm hay không
Người ta chia ra:
+ Lực lượng lao động: bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp song đang có
nhu cầu tìm việc làm.
+ Nguồn lao động: bao gồm những người thuộc lực lưượng lao động và những người
thất nghiệp song không có nhu cầu tìm việc làm (tức là bao gồm những người đang làm việc
trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp).
Như vậy, với bất kỳ quốc gia nào thì Nguồn nhân lực cũng luôn là một bộ phận quan
trọng của dân số. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Giữa kinh tế và Nguồn nhân lực luôn có mối quan hệ chặt chẽ, chịu sự tác động lẫn
nhau. Thường người ta quan sát thấy: những nước kinh tế chậm phát triển có tốc độ tăng
Nguồn nhân lực cao hơn cả. Các nhà kinh tế học cho rằng, tốc độ tăng Nguồn nhân lực hàng
năm quá cao tại các nước chậm phát triển là thách thức lớn cho họ trong quá trình phát triển,
đặc biệt ở giai đoạn đầu.
Số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực phản ánh sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Khi một quốc gia có Nguồn nhân lực có chất lượng cao thì quốc gia đó có một nền kinh tế
xã hội phát triển. Ngược lại, khi chất lượng đội ngò nhân lực ở mức thấp thì nền kinh tế xã
hội không thể phát triển cao. Qui mô Nguồn nhân lực phản ánh qui mô cơ cấu dân số. Nguồn
nhân lực đông dồi dào là biểu hiện của một dân số với qui mô lớn và cơ cấu trẻ là tiềm năng
to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Mặt khác, chính sự phát triển kinh tế xã hội lại tạo tiền đề cho sự hình thành và phát
triển một Nguồn nhân lực có trình độ cao. Thực tế trên thế giới, các nước chậm phát triển và
đang phát triển thường có một Nguồn nhân lực với qui mô lớn nhưng chất lượng không cao.
Còn các nước đã phát triển thì có một Nguồn nhân lực không mấy dồi dào nhưng có một
trình độ cao.
Những năm 50 và 60, tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do công nghiệp hoá; thiếu vốn
và nghèo nàn về cơ sở vật chất là không chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các
nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ một phần nhỏ của sự tăng trưởng kinh tế có thể
6
được giải thích bởi khía cạnh đầu vào và nguồn vốn. Phần rất quan trọng của sản phẩm
thặng dư gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động (giáo dục, sức khoẻ và mức sống).
Lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được tỷ
lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức phổ cập phổ thông. Cách thức để thúc đẩy
sản xuất, đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả của giáo dục. Các nước và
các lãnh thổ công nghiệp hoá mới thành công nhất như Singapo, Hồng Kông… có tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỷ 70 và 80 thường đạt mức phổ cập tiểu học
trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng cho thấy thành công
của Nhật Bản trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có học vấn cao mà còn do các
chính sách kinh tế, trình độ quản lý hiện đại của họ. Kết quả của đào tạo cùng với sự cạnh
tranh trong đào tạo sẽ thúc đẩy các ngành công nghiệp và kinh doanh của các nước phát triển
thu hót những nhà khoa học sáng giá nhất của họ và của nước ngoài. Khi cân bằng về sức
mạnh khoa học kỹ thuật trên từng khu vực được thiết lập, những ước vọng và ý đồ đổi mới
kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển sẽ được thực hiện ngay trên đất nước của
mình. Gần đây, nhiều sản phẩm của các nước châu á sản xuất ra không cần phải theo giấy
phép và mang nhãn của công ty nước ngoài, hàng hoá do châu Á sản xuất đã tràn ngập khắp
thị trường thế giới.
Con người hay nói chính xác hơn là Nguồn nhân lực đã tạo ra sự phát triển nhanh
chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Con người trong quá trình lao động sản xuất và
nghiên cứu đã tìm ra phát minh khoa học. Đồng thời, cũng chính họ đã áp dụng những thành
tựu khoa học đó vào trong sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh hoạt đủ khả
năng làm thay đổi nhanh chóng qui trình sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản
xuất. Như vậy, con người với trí tuệ của mình trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của
nhân loại, thúc đẩy sự tiến vừa rộng vừa sâu của xã hội trên nền tảng khoa học - công nghệ
để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới.
Cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ làm thay đổi tính chất và nội dung lao
động nghề nghiệp của người lao động; đấy là việc sử dụng những công cụ, phương tiện hiện
đại, phức tạp nên lao động trí óc đã dần dần thay thế lao động chân tay. Sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật - công nghệ đã làm xuất hiện những ngành nghề mới có hàm lượng khoa
học cao; trong nội dung lao động của mỗi nghề đòi hỏi người lao động phải có tri thức, kỹ
7
năng và kỹ xảo nghề nghiệp. Và đến một bước phát triển cao hơn thì người công nhân cần
phải được trang bị kiến thức và chức năng mà trước đây chỉ có chuyên gia mới cần.
Tiến bộ khoa học - công nghệ làm ảnh hưởng sâu sắc đến các ngành sản xuất nông,
lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp truyền thống đặc biệt là tiến bộ công nghệ sinh học.
Người nông dân, người thợ thủ công, các nhà chuyên môn và cán bộ quản lý cũng phải luôn
đổi mới, bổ sung kiến thức mới tiến kịp sự thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật canh tác, cây
trồng, vật nuôi…
Cùng với tiến bộ của công nghệ, tỷ lệ giữa các thành phần cần cho sản xuất cũng
thường xuyên thay đổi: các nhà phát minh và đổi mới công nghệ, các nhà quản lý, các nhà
kỹ thuật và công nghệ, công nhân lành nghề, công nhân bán lành nghề, lao động giản đơn.
Bởi vậy cơ cấu, chất lượng Nguồn nhân lực cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp với sự thay
đổi của công nghệ.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ là nguồn để xuất khẩu lao động sang các khu
vực, các quốc gia phát triển hơn. Lao động xuất khẩu đem lại một khối lượng lớn ngoại tệ;
đồng thời, thực hiện sự phân công lao động giữa các khu vực, các quốc gia.
Tóm lại, Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó
là một nhân tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là chủ thể vận hành sản xuất
và các hoạt động xã hội. Một sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong tương lai được
quyết định bởi sự phát triển của chính Nguồn nhân lực cuả quốc gia đó.
1.1.3. Vai trò của phát triển Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá của nƣớc ta.
1.1.3.1. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ tận dụng được tối đa nguồn lao
động dồi dào và ngày một gia tăng, phát huy vai trò của tiềm năng con người ở nông thôn
(cả về số lượng và chất lượng).
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn phải hướng tới việc khắc phục tình
trạng thiếu việc làm đang diễn ra bức xúc hiện nay ở nông thôn, nhất là vùng đồng bằng
Sông Hồng, đồng bằng Sông Cửu Long. Quyền và nghĩa vụ của người lao động sẽ được thực
hiện nhằm khai thác tiềm năng lợi thế của vùng, từng địa phương về lao động. Người lao
động sẽ có cơ hội, điều kiện để phát huy tính năng động, sáng tạo, cống hiến được nhiều hơn
giá trị cho xã hội.
8
Thực tiễn trong những năm qua đã cho thấy, bất cứ ở đâu, khi nào nếu các địa
phương có biện pháp tích cực để tận dụng nguồn lao động dư thừa ở nông thôn vào quá trình
sản xuất như mở mang ngành nghề, dịch vụ, đầu tư cho thâm canh tăng năng suất, nâng cao
hiệu quả sử dụng đất, đẩy mạnh chăn nuôi, bố trí sắp xếp con người hợp lý… thì GDP sẽ
tăng lên, nền kinh tế sẽ phát triển và địa phương đó đời sống người lao động được nâng cao
lên một bước, bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới.
1.1.3.2. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ khai thác được tối đa những
nguồn lực quan trọng còn tiềm ẩn trong khu vực kinh tế nông nghiệp ở nông thôn.
Ở nước ta hiện nay, những tiềm năng về nguồn lực nông thôn còn rất lớn cả về nhiên
liệu, năng lực, khoáng sản, đất đai, rừng, biển, cảnh quan địa lý, vốn nhàn rỗi, ngành nghề
truyền thống… các tiềm năng ấy vẫn mãi mãi là tiềm năng nếu con người không hướng vào
khai thác và sử dụng phát huy nguồn nhân lực nông thôn là nhân tố quyết định để biến
những tiềm năng Êy thành hiện thực bằng các chính sách khuyến khích người lao động,
nhiều địa phươngđã khai thác được các lợi thể của mình như tập trung đầu tư khai thác có
hiệu quả toàn bộ tiềm năng đất đai bằng thâm canh, tăng vụ, thay đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi hợp lý, đầu tư khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích tại chỗ… Sử dụng, phát triển
Nguồn nhân lực nông thôn sẽ đảm bảo cho mọi người có việc làm, thu nhập, đời sống ổn
định, cũng từ đó mà các phong trào khác có cơ sở để phát triển.
1.1.3.3. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ thúc đẩy được phát triển nông
nghiệp và thực hiện được vấn đề cơ bản của nông thôn, nông nghiệp là chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo ra những điều kiện và tiền đề cần thiết để thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và ngược lại quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn vừa là nội dung, vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nhằm công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn
là quá trình nhằm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế nông thôn từ độc canh cây lúa đơn ngành sang
đa ngành. Đó là quá trình biến đổi từ kiểu kinh tế nông nghiệp thủ công nghiệp sang kiểu
kinh tế công nghiệp và dịch vụ, làm cho tỷ trọng GDP trong nông nghiệp ngày càng giảm và
tăng nhanh tỷ trọng GDP trong công nghiệp và dịch vụ trong tổng số GDP của đất nước.
9
Việc phân công lại lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó con người giữ vai trò quyết định. Phát triển Nguồn nhân lực nông
thôn là cơ sở điều kiện để phân bố lại cơ cấu Nguồn nhân lực, phân công lại lao động xã hội
ở nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
1.1.3.4. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ thúc đẩy quá trình phân công và
hợp tác lao động ngày càng tốt hơn với quy mô lớn hơn.
Sự phân công và hợp tác lao động sẽ mang lại năng suất lao động cao hơn và là một
đặc trưng ưu việt của sản xuất lớn so với sản xuất nhỏ. Thực tế sản xuất nông nghiệp cho
thấy, tổ chức tốt việc phân công và hợp tác lao động sẽ tạo ra một năng lực sản xuất mới và
tạo ra năng suất lao động cao. Nó không những thúc đẩy nhanh quá trình chuyên môn hoá,
hợp tác hoá lao động ở trình độ cao mà còn tạo điều kiện để nâng cao trình độ mọi mặt của
người lao động.
1.1.3.5. Sử dụng hợp lý và phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ giải quyết được
những vấn đề bức xúc của chính sách xã hội ở nông thôn hiện nay.
Ở nông thôn hiện nay do năng suất lao động thấp, diện tích đất canh tác ngày càng
giảm do nhiều nguyên nhân, điều kiện cơ sở hạ tầng thấp, đời sống dân cư nông thôn và
nông dân còn thấp xa so với thành thị, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn tiềm tàng ở
nông thôn đặc biệt là các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít
người dẫn đến tình trạng đói nghèo khá phổ biến ở khu vực nông thôn. Một bộ phận dân cư
nông thôn di chuyển từ nông thôn ra thành thị làm thuê, gây sức ép rất lớn cho khu vực
thành thị, làm nảy sinh nhiều tiêu cực xã hội. Do vậy, phát triển Nguồn nhân lực nông thôn,
phát triển toàn diện nền kinh tế nông thôn không chỉ là vấn đề trọng tâm của chiến lược phát
triển kinh tế mà còn là giải pháp kinh tế - xã hội đem lại sự thay đổi cho số đông dân cư để
thu hót họ vào sản xuất nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp và dịch vụ nhằm xoá đói giảm
nghèo, nâng cao chất lượng Nguồn nhân lực.
1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Phát triển Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ phát triển về số lượng và chất
lượng Nguồn nhân lực. Số lượng Nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy
mô và tốc độ tăng Nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô
và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến quy
10
mô và tốc độ tăng Nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, mối quan hệ dân số và
Nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian nhất định (vì đến lúc đó con người mới
phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao động). Về chất lượng, Nguồn nhân lực được xem xét
trên các mặt: trình độ sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, năng lực phẩm
chất…
Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng Nguồn nhân
lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
1.2.1. Số lƣợng Nguồn nhân lực
Quy mô Nguồn nhân lực phản ánh quy mô cơ cấu dân số, phát triển Nguồn nhân lực
cũng có nghĩa là làm tăng số lượng Nguồn nhân lực lên một cách phù hợp. Nguồn nhân lực
đông, dồi dào biểu hiện của một dân số với quy mô lớn và cơ cấu trẻ. Là tiềm năng to lớn
cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Về mặt số lượng cần xem xét các quan hệ của nguồn nhân
lực với hệ thống các nhân tố sau: tình hình dân số, tốc độ tăng tự nhiên của dân số, của lao
động số lượng cơ cấu dân số, lao động theo lứa tuổi, theo giới, theo ngành nghề, theo thành
phần kinh tế, theo khu vực (thành thị - nông thôn) có việc làm và không có việc làm, cuối
cùng là nhân tố di dân, đây là nhân tố có ảnh hưởng phức tạp hơn cả do tính chất tự phát,
năng động, linh hoạt, không kiểm soát được của nó. Khi các ngành công nghiệp dịch vụ, các
thành phố ở nước ta chưa phát triển, một tỷ lệ lớn về dân số lao động còn nằm ở nông thôn
thì sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị trong cơ chế kinh tế thị trường sẽ là tất
yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Giữa kinh tế và Nguồn nhân lực luôn có mối quan hệ chặt chẽ, chịu sự tác động lẫn
nhau. Tuy nhiên, người ta quan sát thấy: những nước kinh tế chậm phát triển có tốc độ tăng
Nguồn nhân lực cao hơn cả. Các nhà kinh tế học cho rằng, tốc độ tăng Nguồn nhân lực hàng
năm quá cao tại các nước chậm phát triển là thách thức lớn cho họ trong quá trình phát triển,
đặc biệt ở giai đoạn đầu.
1.2.2. Chất lƣợng Nguồn nhân lực
Phân tích về sự phát triển chất lượng Nguồn nhân lực trước hết phải xem xét trình độ
dân trí, trình độ học vấn của dân số nói chung và của lực lượng lao động, cơ cấu trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ đào tạo của dân cư, lao động theo nhóm tuổi, khu vực,
vùng. Khi xem xét nguồn nhân lực nói chung và cho vùng kinh tế động lực, cần xem xét khả
11
năng đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của quá trình hội nhập
khu vực và thế giới. Đó là thãi quen và phong cách công nghiệp hoá, trình độ và cơ cấu
ngành nghề; về sự hiều biết luật pháp... của người lao động.
Hiện nay liên hợp quốc đã đưa ra cách tính (HDI) “chỉ số phát triển con người” nhằm
phản ánh trình độ phát triển của các nước. Đây là một khái niệm tổng hợp bao hàm nhiều
mặt: kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường đồng thời thể hiện sự phân phối công bằng thành
quả của sự phát triển. Chỉ số này liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống
của người lao động và đến mặt thể lực của nguồn nhân lực.. quan hệ giữa chỉ số này và dân
số là: để tăng được chỉ tiêu GDP trên đầu người thì tổng sản phẩm quốc nội phải tăng nhanh
hơn tỷ lệ gia tăng dân số; hoặc việc hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số (nếu không làm GDP giảm
sút) cũng sẽ làm tăng GDP trên đầu người.
Do ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tích luỹ và tiêu dùng của dân số nói chung và
người lao động nói riêng, quan hệ giữa chỉ số này với nguồn nhân lực được cụ thể hoá trong
một loại các chỉ số như: điều kiện dinh dưỡng (số lượng thực phẩm/người; số
clo/người/ngày; số protêin/người/ngày…); Điều kiện nhà ở (diện tích bình quân/người, chất
lượng nhà…) mức tiêu dùng điện năng v.v... Đây là những chỉ tiêu liên quan và phản ánh
trực tiếp tình trạng thể lực, trình độ phát triển, mức độ tiêu dùng của nguồn nhân lực.
+ Nguồn nhân lực và chỉ số trình độ dân trí:
Đây là chỉ tiêu phản ánh và liên quan trực tiếp đến mặt trí lực của nguồn nhân lực.
Chỉ tiêu này được tính thông qua 2 chỉ tiêu: tỷ lệ người biết chữ (thường chỉ tính từ 15 tuổi
trở lên) và số năm đi học bình quân. Tuy nhiên, để phân tích được đầy đủ hơn quan hệ của
nguồn nhân lực với chỉ số trình độ dân trí này, cần xem xét thêm các chỉ tiêu cụ thể sau: tỷ lệ
biết chữ hoặc trình độ học vấn theo nhóm tuổi, giới tính; tình hình giáo dục phổ thông, trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng đại học và đào tạo công nhân kỹ thuật.
Trình độ dân trí của nguồn nhân lực của mỗi vùng, mỗi quốc gia chịu tác động của
các chỉ tiêu trên, mặt khác phụ thuộc rất lớn vào chính sách của Nhà nước. Trong giai đoạn
hiện nay để phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, cần thiết phải
tạo ra những động lực mạnh mẽ nhằm phát huy sức mạnh nội sinh của dân téc. Khai thác
mọi tiềm năng của đất nước; Điều đó càng cho thấy ý nghĩa cấp bách của việc nâng cao trình
độ dân trí đối với việc phát triển trí lực của nguồn nhân lực. Trong giao đoạn tới, nguồn
12
nhân lực phải đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về tay nghề, trình độ chuyên môn, ssự
phát triển của từng ngành, sự đổi mới, thay đổi cơ cấu của các ngành, nghề.
Nâng cao chất lượng nguồn lao động có thể đạt được nhờ hệ thống giáo dục và đào
tạo đáp ứng yêu cầi về số lượng, chất lượng và cơ cấu trình độ hợp lý. Những nước đang
phát triển thường có số lao động lớn, nhưng có thể chất lượng lao động thấp, ở những nước
này thường thiếu những lao động lỹ thuật, có kỹ năng đặc biệt… đây là một trong những
nguyên nhân làm đình trệ sản xuất và hạn chế khả năng mở rộng của nền kinh tế.
+ Nguồn nhân lực và chỉ số về tuổi thọ bình quân:
Chỉ tiêu tuổi thọ bình quân chịu ảnh hưởng của các chỉ số liên quan đến vấn đề sức
khoẻ, Y tế, dịch vụ, vệ sinh như: số người được phục vụ / một thầy thuốc, tình hình cung cấp
nước sạch; khả năng sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, chữa bệnh của dân cư... ngày
nay, các yếu tố y tế, dịch vụ, vệ sinh can thiệp trực tiếp vào toàn bộ quá trình tái sản xuất
dân số. Mối quan hệ giữa dân số, nguồn nhân lực và các điều kiện y tế, vệ sinh có tính chất
tương hỗ: y tế tác động đến toàn bộ quá trình tái sản xuất dân số; mặt khác sự bùng nổ dân
số cũng đang tạo nên sức Ðp mạnh mẽ với ngành y tế.
Tóm lại, Số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực phản ánh sự phát triển của nền kinh
tế xã hội. Khi một quốc gia có Nguồn nhân lực có chất lượng cao thì quốc gia đó có một nền
kinh tế xã hội phát triển. Ngược lại, khi chất lượng đội ngò nhân lực ở mức thấp thì nền kinh
tế xã hội không thể phát triển cao.
Mặt khác, chính sự phát triển kinh tế xã hội lại tạo tiền đề cho sự hình thành và phát
triển một Nguồn nhân lực có trình độ cao. Thực tế trên thế giới, các nước chậm phát triển và
đang phát triển thường có một Nguồn nhân lực với qui mô lớn nhưng chất lượng không cao.
Còn các nước đã phát triển thì có một Nguồn nhân lực không mấy dồi dào nhưng có một
trình độ cao.
Những năm 50 và 60, tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do công nghiệp hoá; thiếu vốn
và nghèo nàn về cơ sở vật chất là không chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các
nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ một phần nhỏ của sự tăng trưởng kinh tế có thể
được giải thích bởi khía cạnh đầu vào và nguồn vốn. Phần rất quan trọng của sản phẩm
thặng dư gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động (giáo dục, sức khoẻ và mức sống).
13
Lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được tỷ
lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức phổ cập phổ thông. Cách thức để thúc đẩy
sản xuất, đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả của giáo dục. Các nước và
các lãnh thổ công nghiệp hoá mới thành công nhất như Singapo, Hồng Kông… có tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỷ 70 và 80 thường đạt mức phổ cập tiểu học
trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng cho thấy thành công
của Nhật Bản trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có học vấn cao mà còn do các
chính sách kinh tế, trình độ quản lý hiện đại của họ. Kết quả của đào tạo cùng với sự cạnh
tranh trong đào tạo sẽ thúc đẩy các ngành công nghiệp và kinh doanh của các nước phát triển
thu hót những nhà khoa học sáng giá nhất của họ và của nước ngoài. Khi cân bằng về sức
mạnh khoa học kỹ thuật trên từng khu vực được thiết lập, những ước vọng và ý đồ đổi mới
kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển sẽ được thực hiện ngay trên đất nước của
mình. Gần đây, nhiều sản phẩm của các nước châu á sản xuất ra không cần phải theo giấy
phép và mang nhãn của công ty nước ngoài, hàng hoá do châu Á sản xuất đã tràn ngập khắp
thị trường thế giới.
Con người hay nói chính xác hơn là Nguồn nhân lực đã tạo ra sự phát triển nhanh
chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Con người trong quá trình lao động sản xuất và
nghiên cứu đã tìm ra phát minh khoa học. Đồng thời, cũng chính họ đã áp dụng những thành
tựu khoa học đó vào trong sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh hoạt đủ khả
năng làm thay đổi nhanh chóng qui trình sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản
xuất. Như vậy, con người với trí tuệ của mình trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của
nhân loại, thúc đẩy sự tiến vừa rộng vừa sâu của xã hội trên nền tảng khoa học - công nghệ
để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới.
Cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ làm thay đổi tính chất và nội dung lao
động nghề nghiệp của người lao động; đấy là việc sử dụng những công cụ, phương tiện hiện
đại, phức tạp nên lao động trí óc đã dần dần thay thế lao động chân tay. Sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật - công nghệ đã làm xuất hiện những ngành nghề mới có hàm lượng khoa
học cao; trong nội dung lao động của mỗi nghề đòi hỏi người lao động phải có tri thức, kỹ
năng và kỹ xảo nghề nghiệp. Và đến một bước phát triển cao hơn thì người công nhân cần
phải được trang bị kiến thức và chức năng mà trước đây chỉ có chuyên gia mới cần.
14
Tiến bộ khoa học - công nghệ làm ảnh hưởng sâu sắc đến các ngành sản xuất nông,
lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp truyền thống đặc biệt là tiến bộ công nghệ sinh học.
Người nông dân, người thợ thủ công, các nhà chuyên môn và cán bộ quản lý cũng phải luôn
đổi mới, bổ sung kiến thức mới tiến kịp sự thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật canh tác, cây
trồng, vật nuôi…
Cùng với tiến bộ của công nghệ, tỷ lệ giữa các thành phần cần cho sản xuất cũng
thường xuyên thay đổi: các nhà phát minh và đổi mới công nghệ, các nhà quản lý, các nhà
kỹ thuật và công nghệ, công nhân lành nghề, công nhân bán lành nghề, lao động giản đơn.
Bởi vậy cơ cấu, chất lượng Nguồn nhân lực cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp với sự
thay đổi của công nghệ.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ là nguồn để xuất khẩu lao động sang các khu
vực, các quốc gia phát triển hơn. Lao động xuất khẩu đem lại một khối lượng lớn ngoại tệ;
đồng thời, thực hiện sự phân công lao động giữa các khu vực, các quốc gia.
Nh- vậy, Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó
là một nhân tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là chủ thể vận hành sản xuất
và các hoạt động xã hội. Một sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong tương lai được
quyết định bởi sự phát triển của chính Nguồn nhân lực cuả quốc gia đó
1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ
1.3.1. Đƣờng lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Đảng
Sự nghiệp đổi mới của dân tộc ta đang đứng trước một giai đoạn có tính chất bước
ngoặt quyết định sự phát triển của đất nước để bước vào thế kỷ XXI một cách tự tin. Bởi vậy
cần có một cách nhìn, một sự nhận thức đúng đắn về những động lực cho sự phát triển kinh
tế xã hội nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nói riêng.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay đòi hỏi tiếp thu một cách có hiệu
quả những tri thức hiện đại của thế giới. Đồng thời phải phát huy được sức mạnh nội sinh
của dân téc, phát huy được mọi tiềm năng của đất nước, tiềm năng của các vùng từ miền
xuôi đến miền núi… nhằm bảo đảm cho nền kinh tế nước ta phát triển cân đối và vững chắc,
từng bước giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh.
15
1.3.2. Thực trạng tình hình kinh tế xã hội
Nguồn nhân lực (số lượng, chất lượng, cơ cấu quản lý, sử dụng) của địa phương,
vùng.
Thực trạng tình hình kinh tế xã hội và tình hình Nguồn nhân lực giúp cho việc nắm
được những thông số về tình hình thực tế, nhằm bảo đảm tính khoa học cho quy hoạch
Nguồn nhân lực, từ đó phát triển Nguồn nhân lực một cách toàn diện.
1.3.3. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng, vùng
Quá trình phát triển Nguồn nhân lực phải căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội của địa phương, vùng vì Nguồn nhân lực là một yếu tố sản xuất của nền kinh tế. Hơn
nữa đây cũng là cơ sở để quá trình phát triển Nguồn nhân lực bảo đảm tính khoa học, tính hệ
thống của nó.
1.3.4. Quan hệ cung cầu về lao động
Hình thành một thị trường lao động là quá trình tất yếu đi liền với nền kinh tế thị
trường. Muốn phát triển Nguồn nhân lực cần thấy được xu hướng phát triển của quá trình
này, nghiên cứu nắm bắt những biến động của quan hệ cung cầu về lao động phục vụ kịp
thời nhu cầu phát triển của vùng.
Đặc điểm chung của nước ta nguồn lao động trong độ tuổi khá dồi dào, song lao động
có thể sử dụng lại rất nghèo nàn, đặc biệt là các thành phố các khu công nghiệp tập trung,
các vùng kinh tế động lực lại đang rất thiếu lao động, bởi ở đó đòi hỏi lao động có chuyên
môn kỹ thuật, lao động đã được đào tạo. Đây là một yếu tố quá trình khi tính toán quan hệ
cung cầu về lao động.
16
CHƢƠNG 2:
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
NÔNG THÔN PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH-HĐH Ở NƢỚC TA
2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NÔNG THÔN VIỆT NAM ẢNH HƢỞNG ĐẾN
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Nông thôn Việt Nam gồm nhiều vùng rộng lớn và trãi rộng khắp ba miền Bắc Trung
Nam của đất nước. Vùng có tỷ lệ dân số nông thôn lớn nhất là Bắc Trung Bộ (89,2%), tiếp
đến là miền núi và trung du Bắc Bộ (85,7%, đồng bằng sông Cửu Long (83,4%), đồng bằng
sông Hồng (80,1%), thấp hơn khá nhiều là Tây Nguyên (76,6%), Duyên hải miền trung
(75,8%) và thấp nhất là Đông Nam Bộ (51,6%). Hoạt động kinh tế chủ yếu ở nông thôn là
sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp chiếm 35% trong tổng sản phẩm quốc nội của cả nước
và thu hót trên 72% lực lượng lao động ở nông thôn.Trong nông nghiệp, giá trị sản lượng
chiếm 75,7% tổng sản lượng (chủ yếu là cây lương thực). Sản lượng lương thực chủ yếu là
lúa. Ngoài cây lúa, cây công nghiệp có: cao su, cà phê, chè, quế, điều, thuốc lá, tơ tằm…
Tiềm năng về lâm nghiệp cũng rất lớn. Trong tổng số 9 triệu héc ta đất rừng khoảng 6 triệu
ha được coi là rừng có giá trị thơng mại. Mặc dù có nguồn lao động dồi dào và nhiều tiềm
năng phát triển phong phú đa dạng, nhưng trước yêu cầu đổi mới và phát triển nông thôn
Việt Nam cũng đang nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế xã hội vĩ mô rất đáng quan tâm. Trong đó
nổi bật nhất là: mức tích luỹ và đầu tư còn rất thấp, cơ sở hạ tầng cơ bản chưa tương xứng
với tiềm năng và yêu cầu phát triển, hệ thống y tế đang xuống cấp nhanh chóng, chất lượng
phục vụ y tế giảm sút rõ rệt,tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em ngày càng tăng. Cũng như hệ
thống y tế, hệ thống giáo dục ở nông thôn Việt Nam còng kém phát triển và có nhiều bất
cập. Trung bình hàng năm có khoảng 10% số học sinh bỏ học, trong đó có hơn 50% là do
kinh tế gia đình quá khó khăn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến trình độ học vấn của
Nguồn nhân lực trong khu vực nông thôn thấp, ngoài lý do thu nhập thấp, đa số các hộ gia
đình đều đông con nên người nông dân chỉ đủ chi phí trang trãi cho con em mình đi học
trong những năm đầu còn sau đó tình nguyện cho con mình nghĩ học. Vì vậy hiện tượng mù
chẽ và tái mù chữ trở nên khá phổ biến. Nhà nước chưa có chính sách giáo dục phù hợp với
17
mức sống của dân cư nông thôn, kinh phí của Nhà nước cho việc giáo dục, đào tạo còn eo
hẹp, phân tán. Số lượng các trường học ở khu vực nông thôn đều rất thấp, hầu hết cơ sở
trường lớp quá thiếu thốn, chất lượng xấu, lớp học đa số là nhà cấp 4 đã xuống cấp, bàn ghế
hư hại nhiều nhưng không được bổ sung sửa chữa hàng năm, sách vở, đồ dùng học tập, các
dụng cụ thí nghiệm… cho học sinh tham khảo thêm gần như không có. Hiện nay do đời sống
của phần đông cán bộ giáo viên còn khó khăn, chế độ đãi ngộ với tri thức còn kém hấp dẫn,
đa số giáo viên phải lo chạy theo yêu cầu đảm bảo cuộc sống của bản thân họ nên chưa chú
tâm nhiều vào công tác giảng dạy. Tâm lý họ chỉ muốn ở lại giảng dạy trong các thành phố
hoặc đồng bằng, nơi điều kiện sinh hoạt và làm việc tốt hơn nên xảy ra hiện tượng thừa giáo
viên ở thành thị và đồng bằng, song ở vùng sâu, vùng xa lại thiếu giáo viên trầm trọng . Một
nguyên nhân nữa là do tư tưởng của người nông dân. Họ thường quan niệm rằng, học chẳng
để làm gì vì trước sau họ cũng quay lại với nghề nông thuần tuý. Vì thế họ chỉ cần học đủ
biết đọc, biết viết, và làm tính đơn giản là đủ, còn học lên cấp II, cấp III, là điều không cần
thiết và hoang phí tiền bạc. Mặt khác, cơ sở hạ tầng ở nông thôn còn rất yếu kém, hiện nay ở
nông thôn, đặc biệt một số vùng như Đồng bằng sông Cửu Long, vùng núi, việc đi lại gặp
nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến việc học hành, khả năng giao lưu kinh tế, văn hoá giữa
các vùng, đến khả năng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Như vậy,
nông thôn Việt Nam đang tồn tại rất nhiều yếu kém, làm cản trở và giật lùi quá trình công
nghiệp ho á- hiện đại hoá ở nước ta. Muốn phát triển nông thôn, công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nông thôn việc trước tiên cần phải làm là giải phóng và phát triển Nguồn nhân lực, đây
chính là mấu chốt của vấn đề. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn tức là sử dụng có hiệu
quả nguồn lao động dồi dào ở nông thôn, làm đòn bẩy để phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nông thôn.
2.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN NƢỚC
TA KHI BƢỚC VÀO THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
Nông thôn nước ta chiếm 80% dân số, 72% nguồn lao động xã hội. Tuy nhiên, tổng
hợp các chỉ tiêu kinh tế - xã hội - văn hoá (bình quân GDP đầu người, GDP tính theo sức
mua (PPP), số calo hấp thụ bình quân ngày/người, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỉ lệ người
dùng nước sạch..) thì sự phát triển của nông thôn Việt Nam chậm hơn gấp nhiều so với các
quốc gia châu Á, chưa kể tới các quốc gia phát triển ở Âu, Mỹ. Theo số liệu thống kê trên
18
tạp chí Cộng Sản số 15 (8-2001) nông thôn mới tạo ra khoảng 1/3 tổng sản phẩm quốc dân.
Tỉ trọng công nghiệp mới chiếm 13,8%, dịch vụ 14,7%, còn nông nghiệp 71,45% trong tổng
giá trị sản xuất. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu thu nhập của nông dân vùng
đồng bằng Sông Cửu Long là 5,18% và 14,13%; đồng bằng Sông Hồng 7,65% và 9,05%,
chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn trên 2 lần và có khả năng tăng. Hộ giàu Ýt,
90% hộ nghèo của cả nước là nông thôn. Trong khi đó, khả năng mở rộng diện tích đất nông
nghiệp có hạn. Tỷ lệ tăng dân số còn khá cao. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn chiếm
tới 35% tổng quỹ thời gian lao động. Lao động dư thừa nhiều nhưng tốc độ giải phóng lao
động nông nghiệp còn chậm, sức hót của công nghiệp và dịch vụ tới lao động nông nghiệp
còn yếu. Trình độ cơ giới hoá, điện khí hoá ở nông thôn vẫn còn thấp và cách xa các nước
trong khu vực. Lao động thủ công năng suất thấp. Mức độ đầu tư trang bị tài sản cố định
chậm, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào nông thôn và nông nghiệp ít (khoảng 3,6%),
trong đó công nghiệp nông thôn lại càng ít hơn.
2.2.1. Nguồn nhân lực nông thôn chiếm tỉ trọng lớn và tăng nhanh
Tại thời điểm 01/7/2001 (theo tạp chí Con Số và Sự Kiện/ tháng 12/ năm 2001) dân số
nước ta là 78,7 triệu người, tăng 1 triệu người so với năm 2000, trong đó thành thị là 19.2
triệu người, chiếm khoảng 24,4%, nông thôn 59,5 triệu người chiếm 75,6%. Dân số thành thị
già hơn thành thị nông thôn: Tỷ lệ nhân khẩu dưới tuổi lao động ở thành thị chỉ có 24,4%
trong khi tỷ lệ này ở khu vực nông thôn tới 32,6%. Số người dưới tuổi lao động chiếm
30,35%, trong tuổi lao động (nam từ 15-60, nữ từ 15 - 55) chiếm 59,25%, trên tuổi lao động
chiếm 10,4%. Cũng tại thời điểm này, cả nước có 39.489 nghìn người từ đủ 15 tuổi trở lên
hoạt động kinh tế thường xuyên trong mười hai tháng trước thời điểm điều tra, trong đó nữ
19.505 nghìn người, chiếm 49,9%. Khu vực thành thị có 9.182 nghìn người chiếm 23,3%,
khu vực nông thôn có 30.307 nghìn người chiếm 76,7%. Tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế
của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên thay đổi theo độ tuổi: Các nhóm tuổi có tỷ lệ tham gia hoạt
động kinh tế cao nhất là 35-39; tiếp đến là nhóm 25-29; 30-34; 40-44 và 45-49. Các nhóm
20-24 trở xuống và 50-54 trở lên, tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế giảm dần.
Sù thay đổi mạnh mẽ cơ cấu tuổi Nguồn nhân lực khu vực nông thôn theo chiều
hướng tiến bộ này chứng tỏ trong những năm gần đây chúng ta đã thực hiện tốt chương trình
dân số - kế hoạch hoá gia đình. Với một cơ cấu Nguồn nhân lực trẻ thì đây là một lợi thế về
19
tiềm năng lao động cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn, đồng thời cũng đặt ra vấn đề cho
sự nghiệp đào tạo Nguồn nhân lực. Cơ cấu giới tính không có sự thay đổi nhiều. Tỷ lệ nữ
vẫn cao hơn nam trong tổng số người hoạt động kinh tế, tỷ lệ nữ ở khu vực nông thôn cũng
cao hơn so với nữ khu vực thành thị (nữ nông thôn là 50,36%, nữ thành thị là 48,8%). Có xu
hướng tăng tỷ trọng lao động nữ ở khu vực nông thôn và giảm dần tỷ trọng nữ tham gia hoạt
động kinh tế ở thành thị. Điều này phản ánh sự phát triển chênh lệch giữa thành thị và nông
thôn. Cả nước hiện có 22.812,9 nghìn người làm việc trong nhóm ngành nông lâm, ngư
nghiệp… chiếm 60,54% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân;
5.428 nghìn người làm việc trong nhóm nghành công nghiệp và xây dựng chiếm 14,41%;
9.436,5 nghìn người làm việc trong nhóm ngành dịch vụ, chiếm 25,05%.
Biểu 1: Tình hình dân số và lao động nông thôn qua các năm (đơn vị: triệu ngƣời)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
74
75,36
76,71
77,05
76,33
77,5
78,7
Dân số nông thôn
51,8
51,9
49,9
53,8
52,5
53,8
54,2
Thành thị
22,2
23,46
26,81
23,25
23,83
23,7
24,5
29
29,03
28,96
29,76
29,36
29,92
31,5
Dân số cả nước
Dân số trong độ tuổi lao
động ở nông thôn
(Nguồn: Báo cáo về lao động , việc làm và thu nhập 2001 của viện kinh tế học - Hà Nội)
Sự dư thừa sức lao động ở nông thôn không phải là đặc trưng riêng của kinh tế thị
trường mà là một thực tế tồn tại ngay từ thời kỳ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp. Tuy
nhiên, có thể nói chưa bao giê sự dư thừa lao động, vấn đề giải quyết lao động và việc làm
trong cả nước nói chung, ở nông thôn nói riêng lại bộc lé một cách gay gắt và cấp bách như
hiện nay. Việt Nam là nước đông dân thứ hai ở Đông Nam Á (chỉ sau Inđônêxia). Tốc độ
tăng dân số bình quân khoảng 1,7% và tỷ lệ tăng dân số đã giảm từ 2,31% (năm 1991)
xuống còn 1,8% (năm 1995) và 1,54% (năm 2001). Bình quân mỗi năm lực lượng lao động
xã hội tăng thêm 1,2 triệu người, năm 2000 lực lượng lao động xã hội so vơi năm 1999 đã
tăng thêm 1.170 nghìn người, thấp hơn số lao động tăng bình quân hàng năm. Lao động xã
hội chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Năm 1999, khu vực nông thôn chiếm 77,7% lực
lượng lao động xã hội, năm 2000 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 77,44%. Dân số nông thôn
20
- Xem thêm -