Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội...

Tài liệu Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội

.DOC
94
139
77

Mô tả:

BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  NGÔ VĂN THẮNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014 1 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  NGÔ VĂN THẮNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ QUANG LỘC HÀ NỘI - 2014 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI 1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội 1.2. Những nội dung cơ bản phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội 1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số viện khoa học và những bài học rút ra cho Viện Khoa học Lao động và Xã hội Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI 2.1. Khái quát về Viện khoa học Lao động và Xã hội 2.2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện khoa học Lao động và Xã hội thời gian qua 2.3. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI 3.1 . Phương hướng phát triển của Viện khoa học Lao động và Xã hội và những yêu cầu đặt ra với nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2020 3.2. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện khoa học Lao động và Xã hội đến năm 2020 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3 3 11 11 18 26 36 36 46 65 68 68 71 85 87 91 Chữ viết đầy đủ An sinh xã hội Bảo hiểm xã hội Cán bộ công nhân viên Công nghiệp hóa Chất lượng cao Giáo sư – Tiến sĩ Hiện đại hóa Kinh tế thị trường Khoa học Khoa học công nghệ Việt Nam Khoa học xã hội Lao động – Thương binh và Xã hội Nguồn nhân lực Nhân văn quân sự Phó giáo sư Tiến sĩ khoa học Thạc sĩ Thành Phố Hồ Chí Minh Xã hội 4 Chữ viết tắt ASXH BHXH CBCNV CNH CLC GS.TS HĐH KTTT KH KHCNVN KHXH LĐTB&XH NNL NVQS PGS TSKH THS TPHCM XH 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Con người luôn là yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất trong mọi thời đại. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định vai trò quyết định của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta cũng xác định lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba khâu đột phá chiến lược thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Như vậy, hiện nay nhân lực chất lượng cao đang là vấn đề quan trọng nhất của lực lượng sản xuất hiện đại và là yếu tố quyết định sự phát triển của các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là những lĩnh vực mà kết quả hoạt động đóng vai trò mở đường cho toàn bộ sự phát triển xã hội như nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo. Ở các lĩnh vực khác nhau thì nguồn nhân lực chất lượng cao có những đặc điểm nhất định. Đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học như tại các cơ quan, viện nghiên cứu thì nguồn nhân lực chất lượng cao chính là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng kinh nghiệm làm việc, có sức khỏe đảm bảo và đạo đức tốt. Đây chính là lực lượng lao động nòng cốt chủ yếu trong phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm phát triển kinh tế, xã hội. Bởi vậy việc đầu tư và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các trung tâm nghiên cứu khoa học, sáng chế công nghệ mới đang trở thành mối quan tâm và ưu tiên đặc biệt của các quốc gia trên thế giới. Viện Khoa học Lao động và Xã hội của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan có chức năng nghiên cứu cơ bản và ứng dụng các vấn đề 3 4 thuộc về lĩnh vực lao động – thương binh và xã hội cùng với một số lĩnh vực khác được Bộ xác định và giao phó. Đặc biệt, các công trình nghiên cứu của Viện liên quan trực tiếp đến chính sách lao động, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực của quốc gia. Với tư cách là một viện nghiên cứu khoa học thì sự phát triển, trưởng thành và tương lai của Viện phụ thuộc trước hết ở số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ cán bộ quản lý, các nhà khoa học, đội ngũ nhân viên của Viện. Tóm lại điều này phụ thuộc ở sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện trong hiện tại và tương lai. Từ khi được thành lập cho đến nay nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện đã có những bước phát triển đáng kể và trở thành tài sản và nguồn lực quý giá nhất, quan trọng nhất của Viện. Tuy nhiên so với yêu cầu, nhiệm vụ mà Viện đảm nhiệm thực tế nguồn nhân lực hiện có còn nhiều bất cập. Chính vì vậy tác giả luận văn lựa chọn vấn đề: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Tình hình nghiên cứu trong nước Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), “Phát triển nguồn nhân lực – kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”. Cuốn sách đã làm rõ cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trong cuốn sách này, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. TS. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của nguồn lực trí 4 5 tuệ đối với sự phát triển của xã hội; đồng thời làm rõ đặc điểm, thực trạng phát huy và xu hướng phát triển nguồn lực trí tuệ Việt Nam, từ đó khẳng định sự cần thiết phải chăm lo phát triển và phát huy cao độ sức mạnh của nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. GS. TS. Bùi Văn Nhơn (2008), “Quản lý nguồn nhân lực xã hội”. Giáo trình này có mục đích cung cấp kiến thức cơ bản về nguồn nhân lực xã hội và quản lý nguồn nhân lực xã hội, làm cơ sở phương pháp luận cho việc tham gia hoạch định và phân tích các chính sách về nguồn nhân lực xã hội. PGS.TS Đỗ Thị Thạch (2011), “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng”. Trong bài báo của mình, tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ chiến lược phát triển NNL trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng ta. Đồng thời, tác giả cũng chỉ rõ những quan điểm mới trong chiến lược phát triển NNL, từ đó làm rõ quan điểm của Đảng về những giải pháp để phát triển NNL và NNLCLC. PGS.TS. Nguyễn Văn Tài (2010), “Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay”. Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả đã đi sâu phân tích, làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn củađường lối, chính sách cán bộ của Đảng ta. Trần Văn Tùng (2005), “Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng”. Nội dung cuốn sách trình bày những kinh nghiệm trong phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng khoa học - công nghệ sản xuất kinh doanh, quản lý của Mỹ và một số quốc gia châu Âu (Đức, Pháp, Anh), châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia châu Á khác). Đoàn Văn Khái (2005) công bố nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH. Công trình này đề cập tới những quan điểm, phương hướng và một số giải pháp mang tính vĩ mô trong phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam. 5 6 TS Nguyễn Hữu Dũng (2002), Phát triển NNLCLC trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Trong bài viết của mình, tác giả đã đưa ra quan niệm về NNLCLC, sơ lược về thực trạng NNLCLC ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực này ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Tác giả Lê Văn Phục “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số nước trên thế giới”. Bài viết đã nêu lên kinh nghiệm về phát triển NNLCLC ở các nước Tây Âu, Mỹ, các nước Đông Nam Á, Đông Á, từ đó rút ra những bài học cho Việt Nam trong việc phát triển NNLCLC hiện nay. PGS.TS Bùi Thị Ngọc Lan (2007), một số bổ sung, phát triển trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu một cách hệ thống những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về NNL qua các kỳ Đại hội của Đảng; làm rõ cơ sở lý luận của việc phát triển NNLCLC theo tinh thần của Đại hội X (2006). Tác giả Nguyễn Tiến Dũng và tác giả Đỗ Văn Dạo “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”. Thông qua bài viết các tác giả đánh giá thực trạng của NNLCLC, chỉ ra những bất cập và từ đó đưa ra các giải pháp để phát triển NNLCLC ở nước ta hiện nay. GS.TS Nguyễn Văn Khánh, TS Hoàng Thu Hương (2010), Đào tạo NNLCLC ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và triển vọng. Các tác giả đã đưa ra quan niệm về NNLCLC, thực trạng NNLCLC ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, các tác giả đã chỉ ra triển vọng phát triển NNLCLC và một số khuyến nghị để phát triển nguồn lực này phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước. Phạm Hoàng Lân (2010), “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Viện Hệ thống thông tin FPT”, Luận văn thạc sĩ kinh tế. Luận văn hệ thống hóa các lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. Trên 6 7 cơ sở đó, luận văn đánh giá thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Viện FPT và đề xuất những giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong tương lai cho đơn vị. Bài viết của GS.TS. Hoàng Văn Châu, Hiệu trưởng trường Đại Học Ngoại thương đăng trên Tạp chí kinh tế đối ngoại số 38/2009: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập kinh tế - vấn đề cấp bách sau khủng hoảng”. Nội dung chủ yếu đề cập đến những bất cập của thị trường lao động của nước ta. Tác giả nhận định thị trường lao động Việt Nam sẽ tiếp tục thiếu hụt và khan hiếm nguồn nhân lực cao cấp quản lý trở lên. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính qua đi, khi các doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc và nhu cầu nhân lực có chất lượng cao tăng lên thì chắc chắn sự mất cân đối cung - cầu trên thị trường lao động sẽ diễn ra ngày càng trầm trọng hơn nếu như Việt Nam không có những biện pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này. Nguyên nhân của việc này là do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường lao động và chưa tiếp cận một cách hiệu quả được với các dịch vụ đào tạo; nhiều doanh nghiệp chưa tích cực tham gia vào các chương trình đào tạo; các sinh viên đã không được định hướng tốt trong việc chọn trường, chọn ngành nghề theo học. Từ đó tác giả đã đề xuất 10 giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời gian tới. các giải pháp tập trung chủ yếu vào việc nâng cao chất lượng đào tạo . Tác giả Lê Thị Hồng Điệp (2005), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu: Góp phần làm phong phú thêm những lý luận mới về phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức thông qua những phân tích nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới quá trình phát triển lực lượng này; Thực hiện việc đánh giá tương 7 8 đối toàn diện thực trạng phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức giai đoạn 2001- 2007 gắn với những nội dung tiêu chí và những yếu tố tác động đã nêu trên; Đề xuất một số giải pháp phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong tương lai. Những đề xuất đó góp phần tìm ra con đường và cách thức hiệu quả để phát triển NNLCLC thực sự trở thành lực lượng tiên phong trên hành trình hiện thực hóa nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tác giả Phan Thùy Chi (2008): Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các trường đại học khối kinh tế của Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác quốc tế, LATS kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Đây là nghiên cứu khá hệ thống về công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam nhưng chỉ giới hạn trong hợp tác quốc tế đào tạo. Ngoài ra còn có nhiều luận văn, đề án, bài báo, báo cáo khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. Tình hình nghiên cứu trên thế giới STEWART Jim, MCGOLDRICK Jim (2007), “Human resource development”, (Phát triển nguồn nhân lực). Cuốn sách này dựa trên các ý tưởng, nghiên cứu mới nhất và nổi tiếng để đóng góp vào cuộc tranh luận về phát triển nguồn nhân lực. Cuốn sách nhằm mục đích bổ sung các khoảng trống bằng các khái niệm được đề xuất. Cuốn sách này được chia thành ba phần. Phần đầu tiên tổng quan về những quan điểm khác nhau về phát triển nguồn nhân lực. Thứ hai đề cập đến chiến lược phát triển nguồn nhân - lực và thứ ba là kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực thực tế Greg G.Wang và Judy Y.Sun (2009), “Perspectives on theory clarifying the boundaries of human resource development”, (Những quan điểm dựa trên lý thuyết làm rõ những ranh giới của phát triển nguồn nhân lực), cụ thể tác giả đã 8 9 phân tích sự khác biệt giữa khái niệm phát triển nguồn nhân lực và phát triển vốn nhân lực và phát triển con người ở phương diện xã hội. Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu nào về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại một viện khoa học trong nước. 3. Mục đích, nhiệm vụ * Mục đích nghiên cứu Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Trên cơ sở đó, đề xuất những phương hướng và giải pháp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện đến năm 2020. * Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích cơ sở lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực một số viện nghiên cứu ở Việt Nam, rút ra những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, làm rõ nguyên nhân và các vấn đề cần giải quyết. Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Viện khoa học Lao động và Xã hội trong thời kỳ mới (năm 2020). 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội. * Phạm vi nghiên cứu 9 10 Về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu NNLCLC ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội, vận dụng kinh nghiệm phát triển NNLCLC ở một số viện nghiên cứu trong nước. Thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội từ năm 2008 đến năm 2013. 5. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu *Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin mà trực tiếp là kinh tế chính trị Mác – Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nghị quyết của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành của ngành kinh tế chính trị, gồm: Phương pháp trừu tượng hóa; phương pháp thống kê, phân tích, điều tra xã hội học; phướng pháp hệ thống hóa, mô hình hóa và đồ thị; phương pháp chuyên gia,…. 6. Ý nghĩa của đề tài Luận văn đã góp phần xây dựng quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện và làm rõ vai trò của nó với sự phát triển của Viện. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội từ năm 2008 tới nay, đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện tới năm 2020. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy môn kinh tế chính trị và sử dụng trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội. 10 11 7. Kết cấu của luận văn Cấu trúc luận văn bao gồm: Phần mở đầu; 3 chương và phần kết luận; danh mục tài liệu tham khảo; phần phụ lục. 11 12 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI 1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội 1.1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động và Xã hội Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động và Xã hội Hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Với bối cảnh đó, yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực là vấn đề có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi các nhiệm vụ trọng đại đó. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” [11, tr.106] là một trong ba khâu đột phá chiến lược thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hiện nay, khi khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, thì con người càng tỏ rõ hơn bao giờ hết vai trò quyết định của mình trong nền sản xuất xã hội, của lịch sử nhân loại. Do vậy, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành yêu cầu hàng đầu đối với mỗi tổ chức và mỗi một quốc gia, đặc biệt là đối với các viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ. Vậy, hiểu như thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo quan điểm của C.Mác để có thể phát triển ngành công nghiệp do toàn xã hội thực hiện thì cần phải có những người lao động với năng lực phát triển toàn diện, có đủ thể lực, trí lực, kỹ năng và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Đó cũng là những quan niệm rất đúng đắn về phương pháp luận 12 13 của C. Mác để nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện hiện nay. Các nhà kinh tế học cũng cho rằng: NNL mà hạt nhân của nó là lao động kỹ thuật là toàn bộ thể lực, trí lực với trình độ chuyên môn, kỹ năng mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập cao trong tương lai. Theo đó, có ba loại nhân lực chủ yếu quyết định sự phát triển là: người lao động có thể lực; chuyên gia lành nghề và những người có ý tưởng sáng tạo. [5] Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo PGS Đàm Đức Vượng thì nhân lực chất lượng cao có thể hiểu bao gồm đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đội ngũ các nhà quản lý các doanh nhân trong nền kinh tế thị trường, các chuyên gia, các nhà khoa học trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, đào tạo,….[45] NNLCLC không đồng nghĩa với trình độ học vấn cao vì học vấn mới chỉ là một yếu tố cấu thành của NNLCLC. Ngoài trình độ đào tạo NNLCLC còn phải bao hàm những yếu tố và phẩm chất khác như: khả năng sáng tạo, kỹ năng, thói quen, kinh nghiệm nghề nghiệp. Còn theo GS. Chu Hảo thì “Nhân lực chất lượng cao trước hết phải được thừa nhận trên thực tế, không phải ở dạng tiềm năng. Điều đó có nghĩa là nó không đồng nghĩa với học vị cao. NNLCLC là những người có năng lực thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc nhất, sáng tạo và có đóng góp thực sự hữu ích cho công việc của xã hội” [19] Như vậy, để có nguồn nhân lực chất lượng cao thì cần thiết là người lao động phải có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có các phẩm chất cần thiết 13 14 được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại. Theo quan niệm của TS. Đinh Sơn Hùng, Viện nghiên cứu phát triển TP.HCM, để đưa ra những tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao, nên dựa trên góc độ của nhà tuyển dụng, sử dụng lao động [22]. Chính họ mới đánh giá một cách chính xác nguồn nhân lực của họ thật sự có chất lượng cao hay không, đó là: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng xử lý thực tế, kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm; có kỷ luật, đạo đức; trình độ văn hóa và kiến thức cơ bản. Qua phân tích các quan điểm trên, có thể nói nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề); có kỹ năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể dựa vào các tiêu chí như: khả năng thích ứng trong thời gian nhanh nhất với môi trường lao động và với tiến bộ khoa học công nghệ mới; tác phong kỷ luật và đạo đức trong công việc; tính sáng tạo. Hai tiêu chí trước là điều kiện cần để đánh giá chất lượng lao động, còn điều kiện đủ là khả năng tư duy đột phá trong công việc, hay còn gọi là tính sáng tạo. Khái niệm nhân lực chất lượng cao nhấn mạnh tính tổng hòa đạo đức nghề nghiệp (nhân cách), thể lực, trình độ, ý chí, niềm đam mê và tay nghề (độ lành nghề) như một sức sản xuất (vật chất và tinh thần). Viện Khoa học Lao động và Xã hội là một viện nghiên cứu khoa học được thành lập từ năm 1978. Viện được công nhận là một trong số các viện 14 15 đầu ngành có chức năng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và ứng dụng về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. Lĩnh vực nghiên cứu chính bao gồm: dân số, lao động, việc làm; tiền lương, tiền công; quan hệ lao động, an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo, phòng, chống tệ nạn xã hội, người có công; bảo vệ và chăm sóc trẻ em;); môi trường và điều kiện lao động (an toàn, vệ sinh lao động, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, các tiêu chuẩn lao động); lao động nữ và bình đẳng giới. Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang đẩy mạnh hoàn thiện các chính sách dân số, lao động, giới, an sinh xã hội, phát triển nguồn nhân lực,…. Chính vì vậy, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của Viện ngày càng nặng nề hơn, để có thể đóng góp nhiều hơn nữa các luận cứ khoa học phục vụ cho việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển nguồn nhân lực, lao động, việc làm và ổn định xã hội. Chính vì vậy, nhu cầu về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – vốn là lực lượng nòng cốt để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của Nhà nước giao cho Viện là hết sức cần thiết. Với khối lượng công tác nghiên cứu ngày một tăng thì nhân lực chất lượng cao của Viện cần phải được gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Khác với những lĩnh vực khác, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học của Viện thì nguồn nhân lực chất lượng cao cần thiết phải đảm bảo những tiêu chí nhất định. Đó là người lao động phải có năng lực chuyên môn cao (có trình độ đào tạo cao), có kinh nghiệm, có thể lực tốt, có đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng xã hội. Từ những vấn đề chung về NNLCLC có thể đưa ra khái niệm về NNLCLC của Viện Khoa học Lao động và Xã hội như sau: Đối với NNLCLC của Viện thì nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động và Xã hội là những người lao động được đào tạo ở trình độ cao, có sức khỏe, bản lĩnh chính trị, có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên môn cao, tinh thông nghiệp vụ và có kinh nghiệm tốt làm việc tại Viện Khoa học 15 16 Lao động và Xã hội, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ của Viện trong hiện tại cũng như tương lai. Như vậy, NNLCLC của Viện Khoa học Lao động và Xã hội là nguồn nhân lực đáp ứng được những tiêu chí: phải được đào tạo bài bản về chuyên môn, kỹ thuật theo yêu cầu của công việc và nhiệm vụ được giao, ngoài ra phải có những kỹ năng, và kinh nghiệm tốt trong công việc. Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện Khoa học Lao động và Xã hội bao gồm 3 bộ phận: Thứ nhất, đội ngũ lãnh đạo quản lý của Viện: Đội ngũ này bao gồm: Viện trưởng, các Phó viện trưởng, Giám đốc trung tâm, Phó giám đốc trung tâm và các trưởng, phó phòng ban chức năng khác. Đây là bộ phận chủ yếu và ưu tú nhất của NNLCLC, bởi họ là những người có tri thức và trình độ học vấn cao (chủ yếu được đào tạo trong một hệ thống giáo dục). Họ đóng vai trò tiên phong trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và lãnh đạo, hoạch định định hướng phát triển, hoạt động, thực hiện những mục tiêu đặt ra cho Viện. Họ là những đầu tàu dẫn dắt Viện Khoa học Lao động và Xã hội hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu trong từng thời kỳ và đi đến thành công. Với đặc trưng cơ bản là lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có vai trò to lớn trong việc tham gia lãnh đạo, quản lý, điều hành Viện. Đồng thời sáng tạo ra các giá trị mới, phát triển lý luận, xây dựng luận cứ khoa học cho các quyết sách kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội…của Viện và của Nhà nước. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ lãnh đạo quản lý là: - Có tầm nhìn, tư duy chiến lược, định hướng nghiên cứu. - Có tầm nhìn quản lý, tham mưu cho Viện. - Có năng lực tổ chức các ngành, các lĩnh vực, tổ chức lao động, tổ chức hợp tác quốc tế. - Thực sự là tấm gương tiêu biểu về đạo đức, lối sống, đoàn kết,… 16 17 Thứ hai, các chuyên gia, nghiên cứu viên: Đội ngũ chuyên gia, nghiên cứu viên là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, những người chịu trách nhiệm về lĩnh vực mình tham mưu, thực hiện công tác nghiên cứu hay quản lý từng nhóm việc nên họ phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và luôn cố gắng học tập nâng cao trình độ để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của nhiệm vụ. Họ không chỉ có chuyên môn nghiệp vụ cao mà còn có sức khỏe bền bỉ, tinh thần mẫn cán, tâm lý ổn định, vững vàng. Đây là lực lượng lao động trí tuệ trong Viện có khả năng làm chủ, sáng tạo những tri thức và khoa học, có khả năng thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi của môi trường và điều kiện sống. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của các chuyên gia, nghiên cứu viên là: * Có trình độ lý luận cao, có kiến thức thực tế, có khả năng nắm bắt cái mới. * Có năng lực nghiên cứu độc lập. * Thực sự là những chuyên gia hàng đầu, là lực lượng nòng cốt trong nghiên cứu khoa học. Thứ ba, cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ: Là những người lao động có trình độ cao được đào tạo bài bản trong lĩnh vực kỹ thuật như điện, điện tử, tin học, …, có kinh nghiệm và kỹ năng làm việc tốt phục vụ cho công tác kỹ thuật tại Viện Khoa học Lao động và Xã hội đồng thời có hiểu biết công việc và chức trách nhiệm vụ của mình. 1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự phát triển ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội Thứ nhất, NNLCLC là lực lượng nòng cốt trong lãnh đạo, quản lý và quyết định việc phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội trong hiện tại và tương lai. Lực lượng lãnh đạo, quản lý của Viện Khoa học và Lao động Xã hội là những người có chức năng, nhiệm vụ hoạch địch chính sách phát triển của 17 18 Viện trong tương lai, là nguồn nhân lực thực hiện công tác cơ cấu và tổ chức bộ máy làm việc của Viện nhằm hoàn thành tốt các nhiệm vụ, chức năng mà Đảng và Nhà nước, Bộ phân công, đồng thời tìm kiếm các lĩnh vực tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên của Viện. Để thực hiện được chức năng quản lý này, đòi hỏi những người lãnh đạo Viện phải là những nhà lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng, kinh nghiệm, khả năng tổ chức, quản lý tốt. Nhìn chung là đội ngũ lãnh đạo phải là những người lao động có chất lượng cao nhất thì mới có thể là đội ngũ đầu tầu, nhằm phát triển Viện Khoa học Lao động và Xã hội trong tương lai. Hơn thế nữa, đội ngũ lãnh đạo Viện là những tấm gương sáng, điển hình cho các cán bộ CNV trong Viện noi theo để phát triển trình độ chuyên môn, học tập, nghiên cứu, tăng hiệu quả công việc. Chính vì lẽ đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện nhằm nâng cao chất lượng của bộ máy lãnh đạo, phục vụ cho công tác quản lý trong tương lai là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Thứ hai, NNLCLC là lực lượng nòng cốt trong nghiên cứu, phát triển Khoa học Lao động và Xã hội để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của Viện. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác: Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ... có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan