Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển ngành công nghiệp cơ khí việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế q...

Tài liệu Phát triển ngành công nghiệp cơ khí việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

.DOC
157
134
102

Mô tả:

Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế LỜI NÓI ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Công nghiệp cơ khí là một ngành kinh tế có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế bởi vì đây là một ngành công nghiệp sản xuất ra máy móc, thiết bị cung cấp cho toàn bộ cho các ngành kinh tế khác. Thực tế cho thấy, trên thế giới không có bất kỳ quốc gia nào thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà lại không có nền công nghiệp cơ khí mạnh, sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí vừa là nền tảng vừa là động lực cho sự phát triển của tất cả các ngành nghề khác nhau trong xã hội, nó còn có tác động tích cực đến ngành dịch vụ thông qua sự phát triển của mạng lưới phân phối, thu hút số lượng lao động xã hội, tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế. Phát triển công nghiệp cơ khí sẽ cho phép các nước tiết kiệm được những khoản ngoại tệ lớn dành cho nhập khẩu máy móc thiết bị hàng năm (những năm gần đây Việt Nam đã nhập khẩu bình quân hàng năm là trên 10 tỷ USD đối với máy móc thiết bị) và phát huy được thế mạnh cạnh tranh của nguồn nhân lực của các nước đang phát triển. Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu phần đấu đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà nội dung là xây dựng nền kinh tế mà sản phẩm của nó chủ yếu được sản xuất bằng máy móc, thiết bị hiện đại do vậy ngành công nghiệp cơ khí càng có vai trò 1 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế quan trọng, hơn nữa Việt Nam là đất nước xuất phát điểm thuần nông, có số dân lớn do vậy chúng ta không thể tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng máy móc, thiết bị của nước ngoài tức là không thể bằng bàn tay của người khác, chính vì vậy phát triển công nghiệp cơ khí càng trở nên có ý nghĩa và cấp thiết hơn bao giờ hết. Ngành công nghiệp cơ khí nước ta được hình thành và phát triển từ rất sớm, nhận thức được tầm quan trọng của ngành Đảng và Nhà nước ta đã luôn đặt ở vị trí quan trọng và từng bước ưu tiên phát triển. Ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam đã có thời kỳ thuộc loại mạnh của khu vực và đáp ứng đến hơn 50% nhu cầu của nền kinh tế. Hiện nay, cùng với quá trình mở cửa nền kinh tế và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới là một làn sóng đầu tư ồ ạt chảy vào Việt Nam, các công ty sản xuất các sản phẩm cơ khí (cơ khí thiết bị, thiết bị đóng tàu, lắp ráp ô tô…) của Việt Nam đã bắt đầu tìm được những đối tác chiến lược để hình thành nên các liên doanh sản xuất và lắp ráp thiết bị cơ khí. Tuy nhiên, do xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực yếu nên sản phẩm cơ khí của ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam nói chung đến nay vẫn còn nhỏ bé - giá trị kim ngạch thấp, manh mún, thiếu vốn, thiều nguồn cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phần lớn lạc hậu và rất nhiều bất cập khác. Cho nên chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã đơn điệu, giá trị gia tăng của sản phẩm chưa cao, hạn chế về thị trường xuất khẩu và chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn so với ngành công nghiệp cơ khí thế giới. 2 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế Xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các quốc gia, trên các lĩnh vực kinh tế. Việt Nam với tư cách là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO) cũng sẽ phải tìm cách phát triển ngành Công nghiệp cơ khí để tạo động lực cạnh tranh trên thị trường Quốc tế cho chính ngành công nghiệp cơ khí nói riêng và các ngành công nghiệp khác nói chung, đồng thời tạo thêm nhiều công việc cho người lao động đang trong quá trình chuyển cần giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp chuyển sang lao động công nghiệp. Liệu Việt Nam có thể vượt qua những rào cản phức tạp trên hay nhiều nghiên cứu về ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam nhưng hầu hết các nghiên cứu đó chỉ tập trung vào việc khảo sát một doanh nghiệp, một vùng miền cụ thể tại Việt Nam mà chưa đặt địa vị Việt Nam trên trường Quốc tế đồng thời chưa có thống kê, tổng kết cụ thể theo từng nhóm ngành. Điều này khiến cho Bức tranh về ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam trong thời kỳ hội nhập vẫn chưa được hoàn thiện. Nhân thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài nghiên cứu “Phát triển ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam trong tiến trình hội nshập kinh tế quốc tế” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Hiện nay, có rất nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về sự phát triển Công nghiệp cơ khí. Cụ thể là đề án “Giải pháp phát trể xuất khẩu một số sản phẩm cơ khí Việt Nam đến năm 2015” của Ths. Phạm Thị Cải- năm 2005, “ Đánh giá tổng quát hiện trạng cơ khí Việt Nam và để xuất giải pháp phát triển ngành cơ khí giai đoạn 3 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế 2000-2010” của Hội Khoa học Kỹ Thuật cơ khí Việt Nam, “ Đánh giá trình độ khoa hoc Công nghệ ngành cơ khí chế tạo Việt Nam” của TS. Nguyễn Đình Trung, Viện nghiên cứu cơ khí- năm 2005. Nhìn chung các đề tài trên đều tập trung khai thác một khía cạnh nào đó của Công nghiệp cơ khí trước thời kỳ hội nhập kinh tế Quốc tế mà chưa có một đề tài cụ thể nào đánh giá chung về toàn ngành trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, theo những thông tin có được thì đề tài “Phát triển ngành Công nghiệp cơ khí Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế Quốc tế” là đề tài duy nhất đề cập một cách toàn diện, sâu sắc hiện trạng cũng như xu hướng phát triển Công nghiệp cơ khí trong thời kỳ hội nhập kinh tế Quốc tế. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU  Sơ lược về sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí Thế giới, xu thế thương mại hóa toàn cầu. không? Liệu ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam có thể đứng vững và làm tròn nhiệm vụ của một ngành công nghiệp mũi nhọn hay không? Đây là điều mà Chính phủ và bản thân các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam rất quan tâm. Từ trước đến nay, đã có rất Phân tích thực trạng về sự phát triển của công nghiệp cơ khí Việt Nam.  Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao khả năng phát triển cho ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam 4 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU a. Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu lí luận và thực tiễn phát triển ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam b. Phạm vi nghiên cứu  Thời gian: Nghiên cứu thực trạng hoạt động của ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam trong những năm gần đây cụ thể từ năm 1998- 2008  Không gian: Nghiên cứu thực trạng phát triển của ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam và một số bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản trên cơ sở phương pháp luận về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac- Lênin, các phương pháp toán thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp biểu đồ, phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát và một số phương pháp kinh tế khác. 6. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục chữ viết tắt,Danh mục bảng, Danh mục hình. Kết cấu của khóa luận chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến sự phát triển ngành công nghiệp cơ khí 5 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế Chương 2: Thực trạng phát triển ngành Công nghiệp cơ khí Việt Nam. Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển ngành Công nghiệp cơ khí Việt Nam đến năm 2020. 6 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CƠ KHÍ 1.1 Tổng quan về ngành công nghiệp cơ khí thế giới 1.1.1 Vài nét sơ lược về qúa trình phát triển công nghiệp cơ khí Thế giới Nền công nghiệp cơ khí Thế giới đã có một lịch sự phát triển lâu đời. Người đặt nền móng cho nền Công nghiệp này là James Watt, bởi ông là nhân vật tiêu biểu nhất của nền công nghiệp cơ khí nước Anh, nơi khởi nguồn cho sự phát triển ngành cơ khí chế tạo của nhân loại cách đây gần 250 năm. Với sự ra đời của Động cơ bằng hơi nước đầu tiên trên thế giới năm 1765 của James Watt, ngành cơ khí non trẻ của nước Anh đã có một diện mạo mới thay thế cho nền công nghiệp cơ khí vốn đang còn rất thô sơ . Dựa vào nguyên lý của James Watt, công nghệ chế tạo máy móc của nước Anh phát triển nở rộ và trở thành đầu tầu thúc đẩy nhiều quốc gia khác như Pháp, Đức, Italia... cùng phát triển theo. Các máy công cụ ra đời giúp cho con người sản xuất được hàng loạt xilanh, pittông, khung máy, ốc vít, bàn tiện, bàn ren. Nhờ đó, ngành cơ khí lắp ráp được hàng loạt máy móc riêng lẻ, máy móc thay thế dần lao động chân tay trong đó phải kể đến các mốc lịch sử quan trọng như là: Năm 1800, tàu biển chạy bằng hơi nước được chế tạo thành công. Đây được coi là cuộc cách mạng ngành hàng hải. Năm 1801, ngành công nghiệp cơ khí có thêm một phát minh mới của Jaka là áp dụng phiếu đục lỗ, thông qua các phiếu đục lỗ đã 7 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế được lập trình mà máy móc phải hoạt động theo các lỗ đã lập trình sẵn đó. Phát minh này tuy còn sơ khai, nhưng có ý nghĩa mở đường cho hướng tự động hóa trong ngành cơ khí kể từ đó. Năm 1805, động cơ hơi nước công suất lớn do kỹ sư Tri-oai chế tạo, mở ra triển vọng lớn cho ngành giao thông vận tải. Mười năm sau, năm 1815, Laenec phát minh ra ống nghe và ngay sau đó ngành cơ khí sản xuất thiết bị cho ngành y tế, bắt đầu phát triển mà khởi đầu là sản xuất hàng loạt ống nghe cho bác sĩ ở khắp châu Âu để chuẩn đoán bệnh. Năm 1820, Niepse phát minh ra máy chụp ảnh, mở đường cho ngành cơ khí chính xác và quang học phát triển. Chẳng bao lâu sau, nó đã đưa ra thị trường với hàng loạt máy chụp ảnh phục vụ cho nhu cầu xã hội. Năm 1929, nhờ có loại động cơ hơi nước công suất lớn, người ta đã chế tạo ra chiếc đầu tầu xe lửa đầu tiên, đánh dấu bước khởi đầu cho cuộc cách mạng trong ngành giao thông đường bộ. Cũng phải nói thêm rằng, mới đầu, chiếc xe lửa này được chạy trên đường bộ và phải có một người đàn ông khoẻ mạnh chạy trước đầu tầu để hô hoán, dẹp đường, báo cho khách bộ hành tránh xa để xe chạy. Do sự phiền phức và an toàn như vậy nên chỉ ít lâu sau loại “đầu tầu xe hỏa chạy bằng động cơ hơi nước đi trên đường bộ” phải đình chỉ hoạt động. Sự cấm đoán này của nhà đương cục làm nảy sinh ra ý tưởng kỹ thuật mới: cho tầu hỏa chạy trên đường ray. Vậy là chẳng bao lâu sau, chiếc xe hỏa đầu tiên chạy trên đường ray ra đời, nối 8 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế hai thành phố của Anh là Daclinton và Stocton lại với nhau, mang đến tràn ngập niềm vui cho dân chúng của hai thành phố này. Năm 1830, chiếc tầu thuỷ chạy bằng hơi nước công suất lớn lần đầu tiên ra đời. Ngay sau đó, nó đã lập được kỷ lục: Vượt Đại Tây Dương đi từ châu Âu sang châu Mỹ. Ngành cơ khí đóng tầu còn có thêm một sáng tạo đáng nhớ nữa, đó là năm 1810 đã chế tạo thành công chiếc chân vịt đầu tiên để thay thế bánh lái và con tầu vượt đại dương đầu tiên đã được áp dụng kỹ thuật này. Có thể nói, ngành công nghiệp cơ khí phát triển mạnh đã tạo ra cuộc “cách mạng hóa” các điều kiện sống và làm việc trong hoạt động kinh tế – xã hội của thế giới thời đó. Đối với các nhà khoa học ngày nay thì có một cách nhìn khái quát riêng, họ cho rằng: trên thế giới đã và đang diễn ra 3 cuộc cách mạng khoa học công nghệ mà trong đó cơ khí đóng vai trò then chốt. Cuộc cách mạng thứ nhất: Nổ ra đầu tiên ở nước Anh vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng này đã thay lao động thủ công bằng sử dụng máy móc. Nó còn được gọi là bước khởi đầu của thời đại “cơ khí hóa”. Thành tựu nổi bật nhất của nó chính là phát minh ra máy hơi nước làm tăng năng suất lao động. Cuộc cách mạng thứ hai: Từ cuối thế kỷ thứ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX. Nó ứng dụng rộng rãi sức điện, phát minh động cơ đốt trong, điện khí hóa. Cuộc cách mạng thứ ba: từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Nó ứng dụng rộng rãi kỹ thuật điện tử, tự động hóa đặc biệt 9 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế là công nghệ thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học, hạt nhân, công nghệ vũ trụ... 1.1.2 Những xu hướng chính trong ngành công nghiệp cơ khí Thế giới Quốc tế hoá quá trình sản xuất sản phẩm cơ khí Trong những tiến bộ của khoa học kỹ thuật tạo ra quá trình Toàn cầu hoá kinh tế, trước hết phải nói đến nền công nghiệp chế tạo, đặc biệt là ngành cơ khí điện tử và công nghệ thông tin. Do quá trình đổi mới kỹ thuật diễn ra nhanh chóng, nên linh phụ kiện của các sản phẩm như thiết bị ô tô, thiết bị thông tin… có thể được phân bố sản xuất ở nhiều nước, làm cho mỗi nước có thể phát huy ưu thế của mình về mặt kỹ thuật, giá thành lao động và nguồn tài nguyên sẵn có, khiến cho sản phẩm cuối cùng trở thành “ sản phẩm quốc tế ” mang nhãn hiệu nhiều nước, tạo ra ưu thế cạnh tranh về kỹ thuật và giá thành rất rõ ràng. Có thể lấy ví dụ công ty sản xuất máy bay Boeing (Hoa Kỳ) chiếm giữ vị trí độc quyền trên toàn cầu, song các lĩnh vực sản xuất phụ kiện của hãng máy bay này cung do hàng chục nước và khu vực sản xuất, nên chính các công ty đa quốc gia tầm vóc lớn này thể hiện bản chất, đặc điểm quá trình Quốc Tế hoá rất rõ ràng. Với sự cạnh tranh không ngừng giữa các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển cũng như sự điều phối của chính phủ các nước này, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia từ chỗ hầu hết 10 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế chống lại chuyển thành dung nạp, kết nạp, hoan nghênh và hợp tác. Sự chuyển biến này đã góp phần đẩy nhanh tiến trình phân công quốc tế và toàn cầu hóa kỹ thuật. Xu hướng dịch chuyển của thị trường sản xuất sản phẩm cơ khí Thế kỷ 21 là thời đại mà quan hệ quốc tế đa cực, tiêu dùng đa dạng, kinh tế toàn cầu và tự do thương mại, tiến bộ Khoa học Công nghệ và xã hội thông tin, coi trọng bảo vệ môi trường khiến cho vị trí của ngành cơ khí chế tạo được các nước trên thế giới quan tâm đặc biệt. Những yêu cầu đối với sản xuất cơ khí ngày càng cao theo những xu thế: - Sản phẩm mang tính toàn cầu hóa - Giảm chu kỳ tuổi thọ sản phẩm - Nhu cầu sử dụng đa dạng - Thị trường lớn và có tính cạnh tranh cao - Tin học hóa và trí tuệ hóa mọi khâu trong sản xuất và lưu thông - Tăng cường ý thức bảo vệ môi trường Với những yêu cầu nêu trên, các nhà sản xuất cơ khí hàng đầu Thế giới như Mỹ, Đức, Nhật Bản vẫn nâng cao chế tạo sản phẩm cơ khí có hàm lượng Công nghệ cao vào các cơ sở sản xuất tại các thị trường nước mình đồng thời đưa một số bố phận lắp ráp sang các thị trường mới nổi với mục đích tạo tính toàn cầu hóa, giảm chi phí sản xuất, tận dụng nguồn lao động dồi dào giá rẻ đồng thời nâng cao lợi nhuận để quay vòng tiếp tục đầu tư vào hoạt động Nghiên cứu và 11 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế phát triển (R&D). Thị trường mới nổi bao gồm: các nước châu Mỹ latinh, Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ và các thị trường khác ở Nam Á. Hoạt động Mua lại và Sáp nhập Hiện nay, hoạt động mua lại và sáp nhập trong ngành công nghiệp cơ khí toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ. Rất nhiều các nhà sản xuất máy móc lớn hàng đầu thế giới đã kết hợp lại với nhau, cùng hợp tác. Hoạt động này được nhìn thấy rõ rệt nhất là qua ngành cơ khí ô tô. Ba nhà sản xuất ô tô lớn nhất của Mỹ (GM, Ford, Chrysler) đã sáp nhập với nhau, trong một vài trường hợp đã thiết lập những chiến lược hợp tác kinh doanh với các nhà sản xuất ô tô ở châu Âu và Nhật Bản. Sư sáp nhập của Chrysler Daimler-Benz là sự sáp nhập đầu tiên của một nhà sản xuất ô tô châu Âu với mục đích củng cố vị trí trên thị trường Mỹ. Gần đây nhất, vào đầu năm 2009, hiệp hội các đại lý tiêu thụ xe tại Mỹ (AIADA) thông báo hãng sản xuất xe Trung Quốc- Geely chắc chắn sẽ đề nghị mua lại thương hiệu Volvo của Ford trong nỗ lực muốn mở rộng phạm vi ảnh hưởng trên thị trường ô tô quốc tế trong thời khủng hoảng.Nếu thương vụ trên thành công, Geely muốn giữ Volvo như một thương hiệu xe quốc tế thay vì tập trung vào thị trường Trung Quốc. Xu hướng liên kết giữa cơ khí và điện tử tạo thành lĩnh vực cơ khí đầy tiềm năng – Cơ điện tử Cơ điện tử là khái niệm ra đời tại Nhật Bản xuất phát từ nhu cầu phát triển các sản phẩm cần công nghệ tích hợp liên ngành giữa 12 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế cơ khí, điện, điện tử, công nghệ thông tin và điều khiển hệ thống. Sự tích hợp này tạo nên một công nghệ mới, trong đó có sự chuyển biến về chất của tư duy công nghiệp mà trọng tâm là tư duy công nghệ tạo nên đổi mới và xúc tiến các phương pháp giải quyết những vấn đề kỹ thuật tổng hợp. Công nghệ này đã tạo ra nhiều sản phẩm mới và đã cung cấp giải pháp tăng hiệu quả và tính năng của thiết bị công nghiệp, dân dụng. Từ đó đến nay, cơ điện tử đã phát triển không ngừng, nhất là khi kỹ thuật vi xử lý ra đời đã làm cho cơ điện tử có vai trò quan trọng trong khoa học và công nghệ. Sản phẩm cơ điện tử ngày càng tích hợp trong nó nhiều công nghệ cao hơn, mức độ thông minh ngày càng mạnh và kích thước ngày càng được rút gọn. Đây là ngành rất quan trọng và không thể thiếu trong sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại. 1.1.3. Thương mại quốc tế trong ngành công nghiệp cơ khí Thế giới Sự phát triển của thương mại quốc tế trong ngành công nghiệp cơ khí đã thu hút sự chú ý của các nhà hoạch định hính sách để hoạch định các chiến lược kinh doanh. Thương mại quốc tế trong ngành công nghiệp cơ khí điển hình nhất và dễ nhận thấy nhất là thương mại quốc tế trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô. Vào những năm 1970, 1980, ngành công nghiệp ô tô của Mỹ phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nhà sản xuất ô tô nước ngoài. Đặc biệt là từ nhà sản xuất Nhật Bản. Sự suy giảm của nền công nghiệp ô tô nội địa cộng thêm sự gia tăng về nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản khiến chính phủ Mỹ đã phải đưa ra các chính sách để bảo hộ 13 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế nền sản xuất nội địa, trong đó chủ yếu là áp dụng hạn ngạch. Trong giai đoạn khủng hoảng dầu, nhiên liệu dùng cho xe ô tô sản xuất tại Nhật có nhu cầu cao ở Mỹ. Thêm vào đó, ba tập đoàn ô tô lớn của Mỹ lại không mấy mặn mà trong việc sản xuất ô tô cỡ nhỏ đã làm cho nhu cầu nhập khẩu xe từ Nhật Bản tăng mạnh. Những ước tính vào năm đầu 1980 mỗi năm các nhà sản xuất xe ô tô Nhật thu về 5 tỷ USD từ hạn ngạch nhờ việc bán những loại xe ô tô nằm trong hạn ngạch giá cao. Các nhà sản xuất ô tô chính của Nhật Bản như Toyota, Honda, Nissan đã vượt qua những rào cản hạn ngạch để đầu tư vào thị trường Mỹ. Ngược lại với các nhà sản xuất Nhật Bản, các công ty ô tô Mỹ chủ yếu phục vụ cho thị trường nội địa. Trong giai đoạn áp dụng hạn ngach, khi các nhà sản xuất Nhật giảm giá xe tại thị trường Mỹ khiến các nhà sản xuất ô tô nội địa không có khả năng cạnh tranh. Nhờ vào năng suất cao và hiểu quả, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đã giành được quy mô đáng kể mà các nhà sản xuất ô tô nội địa Mỹ không thể đạt được. Hiện nay các nhà sản xuất ô tô của Mỹ đang thực hiện tái cơ cấu ngành, bắt đầu đầu tư tại nước khác nhằm lấy lại thị phần toàn cầu. Trong khi đó, các quốc gia Đức, Nhật Bản, Canada nổi lên như là những nhà xuất khẩu chính vào thị trường Mỹ. Có phần khác biệt hơn so với Mỹ và Nhật Bản, nước Đức không dựa vào thị trường hay hạn ngạch mà dựa vào kẽ hổng của tỷ giá hối đoái để phát triển. Vào những năm 1997, nền kinh tế Thế giới lâm vào tình trạnh khủng hoảng tài chính, nền kinh tế phát triển yếu, đồng Euro mạnh, phí tổn lao động cao, cạnh tranh mạnh từ các nước có lương thấp. Nhưng ngành kỹ nghệ lớn này của Đức, với 14 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế 900.000 nhân công, đã biết sử dụng những năm tháng khó khăn để tiếp tục phát triển mạnh hơn. Không một ngành nào mà sự trang bị trước sự toàn cầu hóa tốt hơn ngành cơ khí chế tạo máy. Khoảng 19% xuất khẩu máy móc trên thế giới là từ Đức, chỉ 15% từ USA. Đáng ngạc nhiên nhất là ngành cơ khí nước này không bị ảnh hưởng mạnh bởi đồng Euro có nghĩa là ngành cơ khí Đức không bị ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái. Bởi chính các nhà sản xuất của Đức đã sớm nhận ra tầm quan trọng của hệ thống máy móc có thể giảm được phí tổn sản xuất mạnh như thế nào. Quan trọng hơn cả giá cả và tỉ giá hối đoái là mối quan hệ phụ thuộc giữa khách hàng và nhà cung cấp. Nhiều nhà máy cơ khí Đức cung cấp sản phẩm mà những sản phẩm này là kết quả của một sự làm việc và phát triển quan hệ khách hàng lâu dài nhiều năm. Theo Ralph Wichers- chuyên gia của VDMA- thì khi mà khách hàng và nhà cung cấp đã có liên hệ chặt chẽ thì không thể một sớm một chiều khách hàng có thể chuyển sang nơi khác. Do vậy, các nước dùng đô la không có khả năng nào khác hơn là mua tiếp máy móc Đức vì tại nước họ lúc đó không có một nhà máy cơ khí nào khác.Theo như lời nhận xét của giám đốc hãng Dolmar tại Hamburg – hãng sản xuất máy móc cho lâm nghiệp và vườn tược- thì sự yếu kém của đồng đô la lại có tác dụng tích cực. Họ đã tìm cách mua khoảng một phần ba sản phẩm và xuất khẩu khoảng 15% sang các nước dùng đồng đô la. Hơn nữa, nhiều hãng kết hợp nhiều mô hình với nhau. Bên cạnh tài khoản giờ, còn có hợp đồng lao động có hạn định và hệ thống làm việc uyển chuyển hơn. Qua đó, họ có thể đối phó với những thay đổi của sự phát triển nền kinh tế. Ngày nay, các hãng cơ khí Đức đưa dây 15 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế chuyền sản xuất sang các nước có mức lương thấp hay mua sản phẩm tại các nước này. Theo thống kê, cứ bốn hãng thì có một hãng đưa nhiều phần sản xuất ra nước ngoài. Hơn một nửa các hãng đã lên kế hoạch cho việc này. Phần lớn các hãng mua sản phẩm từ các nước Đông Âu, Trung Quốc hay Ấn Độ. Những hãng như ThyssenKrupp Uhde hay SMS Demag đã lên kế hoạch tại Trung Quốc và Ấn Độ. Các nước Trung Đông Âu cũng đang tạo ra được sức thu hút mạnh đối với Đức. 1.2 Tiêu chí đánh giá sự phát triển công nghiệp cơ khí 1.2.1 Khái niệm về ngành Công nghiệp cơ khí Theo từ điển Encarta , Công nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được "chế tạo, chế biến" cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật. Một nghĩa rất phổ thông khác của công nghiệp là "hoạt động kinh tế quy mô lớn, sản phẩm (có thể là phi vật thể) tạo ra trở thành hàng hóa". Theo nghĩa này, những hoạt động kinh tế chuyên sâu khi đạt được một quy mô nhất định sẽ trở thành một ngành công nghiệp, ngành kinh tế như: công nghiệp phần mềm máy tính, công nghiệp điện ảnh, công nghiệp giải trí, công nghiệp nghiệp thời trang, công nghiệp báo chí, v.v. Điều này cho thấy hoạt động công nghiệp là vô cùng đa dạng, vì vậy có rất nhiều cách phân loại công nghiệp: 16 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế Theo mức độ thâm dụng vốn và tập trung lao động: Công nghiệp nặng (công nghiệp sử dụng nhiều vốn để sản xuất máy móc phục vụ các ngành nghề sản xuất khác) và công nghiệp nhẹ (công nghiệp sử dụng nhiều lao động để sản xuất hàng phục vụ người tiêu dùng cuối cùng). Theo sản phẩm và ngành nghề: công nghiệp dầu khí, công nghiệp ô tô, công nghiệp dệt, công nghiệp năng lượng, công nghiệp tàu thủy… Theo phân cấp quản lý: công nghiệp địa phương, công nghiệp trung ương… Theo hệ thống phân loại hoạt động kinh tế của Anh và Hoa Kỳ không có mục công nghiệp riêng. Thay vào đó, cách phân loại dựa vào hoạt động kinh tế. Cũng theo cách sắp xếp các ngành kinh tế của hai nước này, công nghiệp là thành phần chủ yếu của khu vực thứ hai của nền kinh tế. Theo Colin Grant Clark – nhà kinh tế học người Anh thì khu vực thứ hai của nền kinh tế sử dụng những đầu vào là sản phẩm của khu vực thứ nhất để gia công, chế biến thành những sản phẩm hoàn chỉnh và phù hợp cho người tiêu dùng và các xí nghiệp sử dụng (để gia công, chế biến). Nòng cốt của khu vực thứ hai là các ngành chế tạo máy và xây dựng. Như vậy, dựa vào cách phân loại ngành Công nghiệp của Encarta và Wikipedia, Công nghiệp cơ khí thuộc ngành Công nghiệp nặng hay là ngành công nghiệp thuộc khu vực thứ hai của nền kinh tế (theo quan điểm của Anh và Mỹ). Do đó, ngành Công nghiệp này gắn liền với quá trình sản xuất máy móc, phương pháp công nghệ gia công kim loại, hợp kim để chế tạo các chi tiết 17 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế hoặc kết cấu máy. Quá trình sản xuất chế tạo đó bao gồm nhiều công đoạn khác nhau được tóm tắt như sau: Hình 1: Sơ đồ quá trình sản xuất cơ khí (Nguồn: Giáo trình cơ khi Đại Cương) Giải thích một số thuật ngữ trong mô hình trên:  Phôi là một danh từ kỹ thuật có tính chất quy ước chỉ vật phẩm được tạo ra của một quá trình sản xuất này chuyển sang một quá trình sản xuất khác. Ví dụ: quá trình đúc, là quá trình rót kim loại lỏng vào khuôn, sau khi kim loại đông đặc trong khuôn ta nhận được một vật đúc kim loại có hình dáng kích thước theo yêu cầu. Những vật đúc này có thể là: - Sản phẩm của quá trình đúc. - Chi tiết đúc: nếu như không cần gia công cắt gọt nữa. - Phôi đúc: nếu vật đúc phải qua gia công cắt gọt như tiện, phay bào… Như vậy 18 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế trong trường hợp này sản phẩm của đúc được gọi là phôi đúc của quá trình gia công cơ khí. Hiện nay các phương pháp chế tạo phôi trong sản xuất cơ khí bao gồm đúc; gia công áp lực (rèn, dập) và hàn, cắt kim loại bằng khí, hồ quang điện, tia lửa điện, lade. Chi tiết máy là đơn vị nhỏ nhất và hoàn chỉnh của máy, đặc trưng của nó là không thể tách ra được và đạt mọi yêu cầu kỹ thuật. Chi tiết máy được coi là sản phẩm khi nó là vật phẩm được tạo ra cuối cùng của một cơ sở sản xuất.Hai hay nhiều chi tiết máy được liên kết với nhau theo những nguyên lý máy nhất định (liên kết động hay liên kết cố định) được gọi là bộ phận máy. Bộ phận máy có nhiệm vụ nhất định trong máy được gọi là cơ cấu máy.Ví dụ: đĩa, xích, líp của xe đạp tạo thành cơ cấu chuyển động xích trong xe đạp. 1.2.2 Một số tiêu chí đánh giá sự phát triển Công nghiệp cơ khí Một quốc gia có nền Công nghiệp cơ khí phát triển khi các sản phẩm của quốc gia đó có sức cạnh tranh hay là có lợi thế cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế, nó biểu hiện ở việc sản phẩm của nước đó được người dân đón nhận, được nước ngoài quan tâm đặt hàng nhập khẩu. Phạm trù “sức cạnh tranh” là phạm trù thuộc tính của kinh tế thị trường. Theo các nhà kinh tế, môi trường cạnh tranh có tác dụng tạo sức mạnh hướng hành vi của các chủ thể kinh tế tới năng suất, chất lượng và hiệu quả từ mục tiêu thắng trong cạnh tranh sẽ thu lợi nhuận. Trong môi trường cạnh tranh, sức mạnh của các tổ chức kinh tế không chỉ được đo bằng chính năng lực nội 19 Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế tại của từng chủ thể, mà điều quan trọng hơn, là trong sự so sánh tương quan giữa các chủ thể với nhau. Do đó, đạt được vị thế cạnh tranh mạnh trên thị trường là yêu cầu sống còn của doanh nghiệp. Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất cơ khí bởi sản phẩm cơ khí sản xuất ra để tiếp đáp ứng nhu cầu thị trường dù là gián tiếp hay trực tiếp. Hơn nữa, khi đánh giá nền Công nghiệp cơ khí có đủ sức cạnh tranh tốt hay không người ta thường dựa vào các tiêu chí về khoa học công nghệ, chất lượng sản phẩm, nguồn nhân lực và vốn. Đây cũng là bốn tiêu chí cơ bản nhất và có tác động qua lại với nhau góp phần thúc đẩy thị trường sản xuất và tiêu thụ cơ khí trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài. Thông qua đó tạo nên nền Công nghiệp cơ khí phát triển mạnh. 1.2.2.1 Tiêu chí về khoa học công nghệ Trong suốt lịch sử loài người, sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và vốn, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và vốn có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ đã tạo nên những bước đột phá trong phát triển các sản phẩm cơ khí chế tạo, cơ khí chinh xác và tạo điều kiện để sản xuất các sản phẩm đạt tiêu chuẩn cao... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan