MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH ......... 5
1.1. Một số khái niệm về kinh tế xanh và phát triển bền vững ......................... 5
1.2. Nội dung về phát triển kinh tế xanh ......................................................... 12
1.3. Tính cần thiết của kinh tế xanh ................................................................ 14
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xanh................................... 18
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH CỦA ẤN
ĐỘ ........................................................................................................... 21
2.1. Khái quát về Ấn Độ.................................................................................. 21
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế xanh ở Ấn Độ ............................................ 28
2.3. Đánh giá chung ........................................................................................ 38
2.4. Dự báo triển vọng về phát triển kinh tế xanh ở Ấn Độ ............................ 43
Chƣơng 3. PHÁT TRIỂN KINH TẾ THEO HƢỚNG TĂNG TRƢỞNG
XANH Ở VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ ẤN ĐỘ CÓ
THỂ VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM........................................................... 47
3.1. Tổng quan về phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh ở Việt Nam 47
3.2. Bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế xanh của Ấn Độ có thể vận
dụng vào Việt Nam ......................................................................................... 58
3.3. Một số gợi ý về phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam trong giai đoạn mới
và điều kiện để thực hiện bài học kinh nghiệm từ Ấn Độ .............................. 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 68
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
ADB
ASEAN
Tiếng Việt
Ngân hàng phát triển châu Á
Tiếng Anh
The Asian Development Bank
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Association
Á
of
South
East Asian Nations
Hội nghị giữa các quốc gia tham
COP
gia Công ước Khung Của Liên Conference of parties
hợp quốc về biến đổi khí hậu
EU
Liên minh châu Âu
European Union
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Foreign Direct Investment
Nhóm bảy nước kỹ nghệ tiên tiến
G7
trên thế giới (Canada, Pháp, Đức,
Ý, Nhật Bản, Anh Quốc, Hoa
Group of Seven
Kỳ)
GCI
GDP
GEI
ICOR
Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn
cầu
Tổng sản phẩm quốc nội
Tổ chức Sáng kiến Tăng trưởng
xanh của Liên hợp quốc
Hệ số đầu tư tăng trưởng
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
NEP
Chính sách môi trường quốc gia
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
Global Competitiveness Index
Gross Domestic Product
Grow Economy initiative
Incremental
Capital-Output
Ratio
International Monetary Fund
Official
Assistance
Development
OECD
PCGG
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Organization
kinh tế
for
Economic
Cooperation and Development
Ủy ban Tổng thống về tăng
trưởng xanh
PPP
Sức mua tương đương
Purchasing Power Parity
R&D
Nghiên cứu và phát triển
Research & Development
TFP
Năng suất tổng hợp
Total Factor Productivity
UNDP
UNEP
UNESCAP
Chương trình Phát triển Liên hợp
quốc
United Nations Development
Programme
Chương trình Môi trường Liên United Nations Environment
hợp quốc
Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á
Thái Bình Dương Liên hợp quốc
Programme
Economic
and
Commission for Asia and the
Pacific
USD
Đô la Mỹ
United States Dollar
WB
Ngân hàng thế giới
World Bank
WCED
Ủy ban Môi trường và Phát triển World
thế giới
Social
Commission
on
Environment and Development
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tất cả các quốc gia trên thế giới ưu tiên hàng đầu cho phát triển
kinh tế, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong khi
đó, nền kinh tế phổ biến hiện nay là nền kinh tế nâu, gắn liền với khai thác và
sử dụng tài nguyên hóa thạch. Sự bùng nổ về kinh tế mang lại nhiều lợi ít
nhưng lại không bền vững do hai yếu tố môi trường và xã hội không được
quan tâm. Chính vì vậy, Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đưa
ra mô hình kinh tế xanh (mô hình kinh tế bền vững) vừa đảm bảo phát triển
kinh tế theo chiều sâu, nâng cao chất lượng kinh tế, vừa bảo vệ môi trường
nâng cao chất lượng môi trường. Trong bối cảnh phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia, kinh tế xanh đang là xu hướng mới mà các quốc gia trên thế giới
mong đợi.
Vấn đề sử dụng năng lượng, phát thải khí nhà kính, ô nhiễm môi trường
trên diện rộng tại Việt Nam đã và đang diễn ra hết sức phức tạp, nhất là trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghệ 4.0
đang phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, những vấn đề nội tại trong việc phát
triển kinh tế của một số nước, đặc biệt là nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam còn thể hiện rõ ở các mặt: Đối mặt với thách thức về gia tăng dân
số, hệ sinh thái tự nhiên đang bị tổn thương và suy giảm nghiêm trọng, hoạt
động nông nghiệp thiếu bền vững…
Tất cả những hiện trạng báo động mà Việt Nam gặp phải cho thấy, để
giải quyết được bài toán khó về vấn đề phát triển kinh tế theo hướng phát
triển bền vững, cũng như hướng giải quyết trong tương lai, việc nghiên cứu
kinh nghiệm phát triển kinh tế của một số quốc gia thành công trong chiến
lược kinh tế xanh, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt
Nam một cách có hệ thống và khoa học là hết sức cần thiết.
1
Trước tình hình đó, vấn đề “Phát triển kinh tế xanh ở Ấn Độ và bài
học cho Việt Nam” được chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học chuyên
ngành Kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay từ các góc độ tiếp cận khác nhau, các tác giả đã có nhiều bài
viết về kinh tế Ấn Độ trên các tạp chí quốc tế như: “Miracles and Reform in
India: Policy Reflections”, ASIAN survey số 5 của tác giả Nirviker Singh
(10/2002) [47] phản ảnh chính sách và những cải cách về kinh tế của Ấn Độ;
hay bài viết “Creating an Environment for Venture Capital in India”, tạp chí
World Development số 2 của tác giả Rafiq Dossani (2002) [48] bàn luận về
việc hình thành môi trường trong đầu tư vốn liên doanh vào chính sách kinh
tế Ấn Độ.
Ở Việt Nam, có một số bài nghiên cứu về kinh tế Ấn Độ đăng trên các
báo, tạp chí, có thể điểm ra một số bài viết như: “Ấn Độ - Mục tiêu trở thành
cường quốc” - tài liệu tham khảo số 3, Thông tấn xã Việt Nam (2004) [26]; bài
viết “Việt Nam trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ” của tác giả Trần
Khánh và Võ Xuân Vinh (2004), báo Nhân dân số 17.974 trang 4 [18]; bài viết
“Những thành tựu mới về tăng trưởng kinh tế Ấn Độ” của tác giả Thạch Văn
Rong (3/2004), Tạp chí Ngoại thương, số 9, trang 27 [22]; công trình khoa học
“Tăng trưởng xanh ở Ấn Độ” tác giả Nguyễn Trung Đức (2015) [12] của Viện
nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á… Tuy nhiên do giới hạn trong phạm vi một
bài báo và công trình nghiên cứu khoa học nên những bài viết đó mới đề cập
đến một hoặc một vài khía cạnh nào đó của kinh tế Ấn Độ. Ngoài ra, còn có
một số công trình nghiên cứu hệ thống về kinh tế Ấn Độ, tiêu biểu là cuốn “50
năm kinh tế Ấn Độ” của PGS.TS Đỗ Đức Định (1999), Nhà xuất bản thế giới
[10]. Nhìn chung, ở Việt Nam số lượng công trình nghiên cứu sâu về kinh tế
xanh của Ấn Độ chưa nhiều. Hơn nữa, nghiên cứu về kinh tế xanh của Ấn Độ
2
để rút kinh nghiệm cho Việt Nam thì chưa có công trình nào tiến hành thực
hiện một cách đầy đủ. Do đó, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu về kinh nghiệm
“Phát triển kinh tế xanh ở Ấn Độ và bài học cho Việt Nam”. Đây là một đề tài
mới và không bị trùng lặp với công trình nào khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung:
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh của Ấn Độ, rút ra bài
học có thể vận dụng vào Việt Nam.
Mục đích cụ thể:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kinh tế xanh và phát triển bền vững.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chỉ ra những điểm mạnh, hạn chế và
nguyên nhân trong quá trình phát triển kinh tế xanh của Ấn Độ.
- Rút ra bài học kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh từ Ấn Độ có thể vận
dụng thực tiễn vào nước ta trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về kinh tế xanh và phát triển bền vững.
- Đánh giá, phân tích kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh ở Ấn Độ.
- Khái quát thực trạng phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh ở
Việt Nam. Đồng thời đề xuất một số bài học kinh nghiệm từ Ấn Độ có thể
vận dụng vào Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh của Ấn Độ,
rút ra bài học có thể áp dụng cho Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
3
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu kinh nghiệm của Ấn Độ về phát triển
kinh tế xanh, bài học rút ra có thể áp dụng cho Việt Nam.
- Phạm vi về không gian: Phát triển kinh tế xanh của Ấn Độ.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kinh tế xanh, phát triển
kinh tế xanh.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xanh ở Ấn Độ,
rút ra bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam tham khảo, đồng thời
dự báo về phát triển kinh tế xanh ở Ấn Độ trong giai đoạn phát triển mới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03
chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về kinh tế xanh
Chƣơng 2. Thực trạng phát triển kinh tế xanh của Ấn Độ
Chƣơng 3. Phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh ở Việt Nam
và bài học kinh nghiệm từ Ấn Độ có thể vận dụng vào Việt Nam
4
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH
1.1. Một số khái niệm về kinh tế xanh và phát triển bền vững
1.1.1. Khái niệm kinh tế xanh
Khái niệm “kinh tế xanh” ra đời vào năm 2008 từ Chương trình môi
trường của Liên hợp quốc (UNEP) khởi xướng. Tại thời điểm này, thế giới
đang phải đối mặt với các khủng hoảng về khí hậu, sinh thái tự nhiên, thiếu
hụt lương thực, nước sạch và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 2009. Sau đó, các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD), Liên minh Châu Âu (EU), Ngân hàng thế giới
(WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)..., và nhiều diễn đàn quốc tế đã hướng đến
bàn và thảo luận về chủ đề kinh tế xanh, coi đây là một trong những giải pháp
khắc phục suy thoái đang gặp phải [3].
Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) định nghĩa “kinh tế
xanh” (Green Economy) “là một nền kinh tế hướng tới mục tiêu cải thiện đời
sống của con người và tài sản xã hội, đồng thời chú trọng giảm thiểu những
hiểm họa môi trường và sự khan hiếm tài nguyên” [3].
Tổ chức sáng kiến Tăng trưởng xanh của Liên hợp quốc (GEI) cho rằng
phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh thông qua quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế và cơ sở hạ tầng với mong muốn thu được kết quả toàn diện hơn
từ các nguồn đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính; đồng thời giảm
thiểu tối đa hiệu ứng nhà kính, sử dụng và khai thác có hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, tạo ra ít chất thải nhằm bảo vệ môi trường và giảm thiểu sự mất
công bằng trong xã hội [29].
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) tăng trưởng xanh là
đẩy mạnh phát triển kinh tế và tăng trưởng, đồng thời nguồn tài sản tự nhiên
không bị dần cạn kiệt và an toàn với môi trường, nhằm đảm bảo nguồn cung
5
cấp cần thiết cho cuộc sống con người. Để thực hiện điều này, việc đầu tư và
đổi mới cần phải có nhân tố tác động từ các chiến lược của tăng trưởng xanh
nhằm tiến đến sự phát triển toàn diện và bền vững, thúc đẩy và tạo dựng thêm
nhiều cơ hội kinh tế mới [29].
Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng
trưởng gắn với việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm
môi trường và hạn chế các tác động xấu của môi trường đến con người [29].
Theo Ủy ban Liên hợp quốc về Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á – Thái
Bình Dương (UNESCAP), có 6 nội dung chính của tăng trưởng xanh đó là: (i)
sản xuất và tiêu dùng bền vững; (ii) xanh hóa thị trường và các hoạt động sản
xuất kinh doanh; (iii) xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững; (iv) cải tổ thuế và
ngân sách xanh; (v) đầu tư/bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái; (vi)
xây dựng và thực hiện các chỉ số hiệu quả về sinh thái [19]. Ngoài ra, các
nguyên tắc đối với tăng trưởng xanh bao gồm: (i) Tăng trưởng xanh phải đảm
bảo tăng trưởng kinh tế được thể hiện qua chỉ tiêu gia tăng của GDP gắn liền
với đảm bảo phúc lợi xã hội, phân phối công bằng giữa các tầng lớp dân cư;
(ii) tăng trưởng xanh phải đảm bảo hiệu quả sinh thái của tăng trưởng kinh tế;
(iii) tăng trưởng xanh phải kiểm soát ô nhiễm môi trường, đạt được các mục
tiêu về môi trường thông qua cải thiện điều kiện sản xuất và tiêu dùng.
Khái niệm “kinh tế xanh” cho đến nay còn nhiều cách hiểu và cách gọi
khác nhau (các nước phương Tây xác định là mô hình kinh tế xanh, các nước
đang phát triển hướng đến chiến lược tăng trưởng xanh, Trung Quốc tiến hành
chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế với nội hàm phát triển xanh và xây
dựng văn minh sinh thái làm trọng điểm, mô hình ở Thái Lan có tên gọi là
“nền kinh tế đầy đủ”...). Ngoài khái niệm “kinh tế xanh”, các nền kinh tế mới
nổi và đang phát triển còn quan tâm hơn tới khái niệm “tăng trưởng xanh” do
mục đích tăng trưởng luôn được đặt lên hàng đầu đối với các nền kinh tế này.
6
Về các khái niệm tăng trưởng xanh và kinh tế xanh có nhiều định nghĩa, tựu
chung các quan điểm, nhận thức thống nhất là: Kinh tế xanh cùng với phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường là ba trụ cột của phát triển bền vững và là
sự lựa chọn tốt nhất cho sự phát triển bền vững của các quốc gia. Kinh tế xanh
là nền kinh tế thân thiện với môi trường, dựa vào năng lượng sạch, giảm phát
thải khí nhà kính để giảm thiểu biến đổi khí hậu; là nền kinh tế tăng trưởng
theo chiều sâu, hao tổn ít nhiên liệu, đổi mới công nghệ, tăng cường các
ngành công nghiệp sinh thái; hướng đến mục đích là tăng trưởng bền vững,
xóa đói giảm nghèo và phát triển công bằng [5].
1.1.2. Khái niệm phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” được phổ biến rộng rãi vào năm 1987,
trong Báo cáo “Tương lai của chúng ta” (Our common future) của Ủy ban
Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) của Liên hợp quốc, “phát triển bền
vững” được định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện
tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai
sau”. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế
hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Định nghĩa
này được nhiều tổ chức và quốc gia trên thế giới thừa nhận và được sử dụng
rộng rãi vì nó mang tính khái quát hoá cao về mối quan hệ dung hòa 3 lĩnh
vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường, từ đó tạo ra phát triển bền vững [5].
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB): “Phát triển bền vững là một
loại hình phát triển mới, lồng ghép một quá trình sản xuất với bảo toàn tài
nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp
ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của
chúng ta đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Định nghĩa này đã đề
cập cụ thể hơn về mối quan hệ ràng buộc giữa khả năng đáp ứng nhu cầu hiện
tại với hệ quả đáp ứng nhu cầu tương lai, thông qua phương thức phát triển
7
kinh tế - xã hội nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, giải
quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường [5].
Mục tiêu của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự
giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các con người, sự đồng
thuận của xã hội và là sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; hay nói cách
khác đó là sự phát triển hài hoà cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường ở
các thế hệ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống của con người:
(i) Phát triển bền vững về mặt kinh tế phải có thể tạo ra hàng hoá và dịch
vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát của Chính phủ và nợ nước
ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ;
(ii) Phát triển bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công bằng trong
phân phối, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội bao gồm y tế, giáo dục, bình
đẳng giới, sự tham gia và trách nhiệm chính trị của mọi công dân;
(iii) Phát triển bền vững về môi trường phải duy trì nền tảng nguồn lực
ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh hay những
vận động tiềm ẩn của môi trường và việc khai thác các nguồn lực không tái
tạo không vượt quá mức độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ, điều này
bao gồm việc duy trì sự đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt
động sinh thái khác [5].
1.1.3. Mối quan hệ giữa kinh tế xanh và phát triển bền vững
Tăng trưởng kinh tế nhanh mà không quan tâm đến vấn đề môi trường và
xã hội nhờ lạm dụng quá mức các nguồn lực từ tự nhiên đã không còn phù
hợp, phát triển kinh tế xanh đang trở thành xu hướng để đưa nền kinh tế sau
một giai đoạn suy giảm trở nên tăng trưởng theo chiều sâu và bền vững. Để
đạt được mục tiêu này, cần có những cải tiến, phương thức mới cho đầu tư và
8
các sáng kiến để tạo ra những mô hình phát triển kinh tế mới trước thời kỳ
ứng phó với khủng hoảng kinh tế, tài nguyên và biến đổi khí hậu [1,Tr.20].
Kinh tế xanh hướng đến nền kinh tế mà con người là trung tâm, tăng trưởng
phúc lợi cho người dân và công bằng xã hội; bao gồm những yếu tố đem lại sự
cân bằng, thỏa mãn tính bền vững (hoạt động kinh tế đem lại lợi nhuận, các giá
trị có ích lợi to lớn nhằm hướng đến phát triển cuộc sống, xã hội, con người
đồng thời gắn liền với môi trường). Kinh tế xanh là tiến trình phát triển bền vững
cần thiết của các nước trên thế giới hiện nay [3;24]. Việc chuyển đổi sang mô
hình kinh tế xanh có hai con đường chính: Các nước phát triển có thể chuyển đổi
sang nền kinh tế xanh do có điều kiện tài chính, nguồn nhân lực và công nghệ
thông qua đầu tư, phát triển những lĩnh vực mới trong nền kinh tế giúp phát triển
xã hội, môi trường bền vững; trong khi đó, các nền kinh tế đang phát triển phải
tốn nhiều chi phí và thời gian hơn bằng cách điều chỉnh dần dần để nền kinh tế
truyền thống trở nên thân thiện hơn với môi trường.
Hiện nhiều nước đang đi tiên phong trong việc xây dựng nền kinh tế
xanh (như Mỹ, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc...), với các biện pháp chính là:
Tăng đầu tư và chi tiêu trong các lĩnh vực thúc đẩy phát triển kinh tế xanh:
năng lượng, giao thông, xây dựng, nông nghiệp, du lịch, văn hóa, xử lý chất
thải...; nâng cao nhận thức về các thách thức của nền kinh tế truyền thống
cũng như cơ hội, thuận lợi của nền kinh tế xanh và sự phát triển bền vững;
đồng thời nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan nhà nước và đầu tư đào
tạo kỹ năng cho đội ngũ lao động phục vụ trong nền kinh tế xanh; mở rộng thị
trường cho các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường thông qua các
chính sách khuyến khích người tiêu dùng quan tâm tới sản phẩm xanh và có
ghi nhãn sinh thái; giảm chi tiêu Chính phủ vào các lĩnh vực sử dụng nguồn
lực tự nhiên không thể tái tạo; phát triển mạng lưới các tổ chức, cơ quan giúp
quản lý việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh; đồng thời thiết lập hệ
9
thống quy định pháp luật và chính sách giúp thúc đẩy kinh tế xanh; sử dụng
công cụ thuế, phí để giảm thiểu tác động tiêu cực về môi trường, áp dụng cơ
chế mua bán phát thải khí nhà kính; áp thuế, phí đối với việc sử dụng năng
lượng kém hiệu quả, thuế sở hữu và sử dụng phương tiện giao thông...; đưa
các ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường và cuộc sống vào để tính toán chi
phí hàng hoá, dịch vụ, từ đó tạo điều kiện để thị trường hóa và từng bước
chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá, dịch vụ thân thiện môi trường; tăng
cường hợp tác quốc tế để thiết lập các cơ chế ràng buộc điều chỉnh các hoạt
động kinh tế có ảnh hưởng tới phát triển bền vững... [5].
Cùng với đó, khái niệm tăng trưởng xanh và kinh tế xanh vẫn đang trong
quá trình tranh luận. Nhiều ý kiến cho rằng: Kinh tế xanh là khái niệm lớn
nhất, nó bao gồm kinh tế tuần hoàn, kinh tế cácbon thấp và kinh tế sinh thái.
Trong đó, kinh tế tuần hoàn chủ yếu giải quyết vấn đề ô nhiễm; kinh tế
cácbon thấp chủ yếu nhằm vào cơ cấu năng lượng và phát thải khí nhà kính;
còn kinh tế sinh thái chủ yếu là hướng đến khôi phục hệ sinh thái (như thảo
nguyên, rừng, biển ...), sử dụng và phát triển hệ sinh thái (như phát triển nông
nghiệp sinh thái ...).
Trước thập niên 1990 Ấn Độ đã bắt tay vào cải cách, phát triển kinh tế,
năm 1972 lần đầu tiên Ấn Độ ký cam kết Công ước Liên hợp quốc về vấn đề
môi trường, tạo sự chuyển biến rõ nét về luật môi trường của quốc gia. Điều
này cho thấy, ngay từ thời điểm trước cải cách, Ấn Độ đã rất quan tâm và có
hướng xác định tới phát triển bền vững. Tuy nhiên tại thời điểm đó Ấn Độ
chưa hình thành khái niệm và cho đến nay, có thể nói vẫn chưa nhận thức thật
sâu rộng dẫn tới có nhiều ý kiến khác nhau về phát triển bền vững, do cách
tiếp cận khác nhau: kinh tế, tự nhiên, con người là trung tâm, xã hội, sinh thái,
hài hòa… Nhiều ý kiến cho rằng: Cơ bản của phát triển bền vững là sự hài
hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội với môi trường, hay nói cách khác là sự hài
10
hòa giữa sinh thái và kinh tế. Hoặc cũng có ý kiến cho rằng: Phát triển bền
vững hướng đến phát triển của con người làm trung tâm, tôn chỉ là phát triển.
Theo quan điểm của Việt Nam tại Quyết định số 1393/QĐ-TTg Phê
duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm
nhìn đến năm 2050, “Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát
triển bền vững” [23, tr2]. Để có thể đạt được mục tiêu phát triển bền vững và
các cam kết đối với quốc tế, ngày 12/4/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 432/QĐ- TTg: “Phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững
Việt Nam giai đoạn 2011-2020", theo đó xác định rõ những lĩnh vực hoạt
động cần ưu tiên như về kinh tế, thực hiện “duy trì tăng trưởng kinh tế bền
vững, từng bước thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo; thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững, đảm bảo an ninh
lương thực, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, phát triển bền vững
các vùng và địa phương”.
Tháng 6/2014 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội (khóa XIII) đã thông qua Luật
Bảo vệ môi trường, trong đó Điều 4 của Luật này đã nêu: “Phát triển bền
vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ
môi trường”.
Có thể nói, định nghĩa trên về phát triển bền vững và kinh tế xanh trong
Luật bảo vệ môi trường là sự "nội hóa” các quan điểm của Liên hợp quốc ở
hai hội nghị quốc tế đã nêu trên; đồng thời tính toán đến điều kiện cụ thể của
Việt Nam [23,tr.3].
Như vậy, có thể thấy, trên thế giới hiện nay trong đó có Việt Nam và Ấn
Độ vẫn còn có những ý kiến khác nhau về tăng trưởng xanh, kinh tế xanh và
phát triển bền vững. Những ý kiến trái chiều trên cũng là lẽ bình thường bởi
11
điều kiện lịch sử, văn hóa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các nước
khác nhau. Điều đáng chú ý là cả hai nước Việt Nam và Ấn Độ đều đang tiến
hành cải cách, đổi mới và hội nhập quốc tế, nên đều đã vận dụng linh hoạt và
sáng tạo những quan điểm quốc tế về tăng trưởng xanh, kinh tế xanh và phát
triển bền vững vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình.
1.2. Nội dung về phát triển kinh tế xanh
Nội dung chính của phát triển kinh tế xanh bao hàm một số yếu tố gắn kết
chặt chẽ với nhau không tách rời, là sự kết hợp của ba trụ cột: Kinh tế - xã hội môi trường, được thể hiện thông qua việc làm gia tăng tài sản xã hội, cơ hội việc
làm nhằm cải thiện đời sống con người bằng các đầu tư của nhà nước và các
doanh nghiệp cho nền kinh tế; các chính sách sử dụng hiệu quả năng lượng và tài
nguyên làm giảm tải lượng phát thải cácbon, cân bằng sinh học, không gây thảm
họa, thân thiện với môi trường và đảm bảo giảm nghèo, bình đẳng trước những
cơ hội mà nền kinh tế xanh tạo ra, đem lại môi trường trong lành.
1.2.1. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế xanh là sự tăng trưởng về kinh tế, trong khi vẫn đảm
bảo sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả, tăng năng suất lao động, đồng thời
giảm các tác động đến môi trường; đầu tư cho các hoạt động giảm phát thải
khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu hướng đến các mục tiêu xã hội
như giảm nghèo, giảm sự bất bình đẳng trong xã hội. Có thể thấy mục tiêu
tăng trưởng kinh tế xanh trong phát triển bền vững được cụ thể hóa hơn, đặt
ra nhiệm vụ đảm bảo cho thế hệ hiện tại và tương lai có sự bình đẳng trong
việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất đó là: sản xuất bền vững; tiêu dùng bền
vững; xanh hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua phát triển công
nghệ xanh, phát triển các ngành công nghệ cao, sử dụng ít tài nguyên, áp dụng
các biện pháp sản xuất sạch; cải tổ và áp dụng các công cụ kinh tế (thuế xanh,
ngân sách xanh).
12
1.2.2. Phát triển xã hội
Phát triển kinh tế xanh đặt mục tiêu chủ yếu là quan tâm đến lợi ích xã
hội như việc làm, bình đẳng xã hội làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn
được thể hiện thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững (hạ tầng đô thị
và giao thông thân thiện với môi trường); xây dựng và thực hiện các chỉ số hệ
sinh thái. Phát triển kinh tế xanh đem lại lợi ích rất lớn cho xã hội, cải thiện
mức sống dân sinh, xóa đói giảm nghèo, làm tăng thêm cơ hội việc làm, bình
đẳng xã hội cũng như nâng cao chất lượng xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế xanh, một bộ phận xã hội,
chủ yếu là nhóm nước nghèo, nếu không được quan tâm, giúp đỡ, có thể chịu
ảnh hưởng tiêu cực khi họ không đủ khả năng tài chính để tiêu dùng các sản
phẩm xanh, hoặc có thể bị mất việc làm vì thiếu kĩ năng và không thích ứng
được với các công nghệ sản xuất mới. Nếu xảy ra, điều này có thể làm mất đi
sự đồng thuận xã hội và Chính phủ sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các
chính sách phát triển kinh tế xanh. Do đó, các quốc gia hiện nay đều rất quan
tâm đến ba yếu tố trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đó là: tạo
việc làm, thay đổi thói quen tiêu dùng và tuyên truyền để nâng cao nhận thức
và sự đồng thuận của nhân dân.
1.2.3. Phát triển môi trường
Mục tiêu đầu tiên của kinh tế xanh là giảm phát thải khí nhà kính và
thích ứng với biến đổi khí hậu; tiếp đó là bảo vệ, khai thác và sử dụng hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên. Xu hướng của các quốc gia về phát triển kinh tế
xanh đều hướng đến ưu tiên thực hiện chính sách bảo đảm an ninh năng lượng
quốc gia theo hướng phát triển đồng bộ các nguồn năng lượng; khai thác và
sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng sẵn có, giảm bớt phụ thuộc vào các
nguồn tài nguyên hóa thạch như dầu mỏ, than đá…; thay đổi các loại hình
13
trong công nghệ, sản xuất, giao thông vận tải để tiết kiệm nhiên liệu, giảm
phát thải và ít ô nhiễm môi trường.
Đẩy mạnh thay đổi cơ cấu nguồn năng lượng theo hướng giảm hàm
lượng cácbon, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; khai thác có hiệu quả
các nguồn năng lượng tái tạo như gió, công nghệ năng lượng mặt trời, địa
nhiệt và sinh khối; lồng ghép sử dụng năng lượng mới và tái tạo vào chương
trình tiết kiệm năng lượng của quốc gia, tiết kiệm năng lượng trong các tòa
nhà cũ và mới; phát triển thị trường công nghệ năng lượng tái tạo, hình thành
ngành công nghiệp sản xuất máy móc thiết bị và cung cấp các dịch vụ thuộc
lĩnh vực công nghệ sạch; công nghệ giao thông vận tải bền vững, chẳng hạn
như đường sắt và hệ thống xe buýt vận chuyển tốc độ cao; bền vững nông
nghiệp, bao gồm cả sản xuất hữu cơ.
1.3. Tính cần thiết của kinh tế xanh
1.3.1. Kinh tế xanh đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững
Trong bối cảnh các quốc gia đang ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, mô
hình kinh tế xanh, bền vững là mô hình được các quốc gia mong đợi và đang
là giải pháp để vượt qua các thách thức nghiêm trọng về suy thoái kinh tế,
bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm hệ sinh thái, ô
nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Bài học phát triển kinh tế xanh của các
quốc gia cũng cho thấy rằng việc thúc đẩy tăng trưởng xanh hay quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh tạo ra tiềm năng to lớn để đạt được phát
triển bền vững và giảm đói nghèo với tốc độ chưa từng thấy. Nói cách khác,
nhân tố môi trường thực sự đóng vai trò như là chất xúc tác cho tăng trưởng,
cải thiện chuỗi giá trị, đem lại sự ổn định và thịnh vượng lâu dài.
Thứ nhất, kinh tế xanh đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền
vững; sự phát triển ấy có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không
14
ảnh hưởng hay làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai.
Thứ hai, kinh tế xanh góp phần xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) được sử dụng như là cách thức phổ biến nhất để đánh
giá về một nền kinh tế. Để có sự tăng trưởng đó, phải trả giá rất đắt trên cả hai
phương diện kinh tế và xã hội thông qua việc khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên thiên nhiên cung cấp tối cần thiết cho sự sống như khoáng sản, nước,
rừng, không khí…, đặc biệt là một bộ phận những người mà sinh kế của họ
phụ thuộc rất nhiều vào việc khai thác các nguồn lực thiên nhiên (nông, lâm,
ngư nghiệp…). Đổi mới mô hình kinh tế xanh sẽ giúp khai thác có hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên nhiên, hạn chế được sự suy giảm đa dạng sinh học và
suy thoái các hệ sinh thái.
Thứ ba, kinh tế xanh tạo ra hàng loạt việc làm mới và có nhiều tiềm
năng. Đó là việc làm có năng suất lao động cao, cùng với hiệu quả về cải
thiện môi trường sinh thái và ổn định lượng khí thải ra ở mức thấp sẽ góp
phần tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng và giúp bảo vệ môi trường - khí hậu.
Đã có rất nhiều những việc làm xanh như vậy được tạo ra, đặc biệt là trong
ngành năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, giao thông công cộng, cải tạo
các khu công nghiệp, tái chế sản phẩm phụ và rảc thải... Hơn nữa, bằng cách
thúc đẩy đầu tư vào lâm nghiệp xanh, các chương trình kinh tế xanh sẽ góp
phần ổn định đời sống của hơn 1 tỉ người đang sinh sống bằng các sản phẩm
từ gỗ và chất xơ, với tổng thu nhập chỉ chiếm 1% GDP toàn cầu.
Thứ tư, kinh tế xanh bảo vệ sự đa dạng sinh học. Suy giảm đa dạng sinh
học làm giảm phúc lợi của một bộ phận dân số thế giới, trong khi một bộ
phận dân số khác gặp phải những vấn đề trầm trọng hơn vì đói nghèo. Nếu
tình trạng này tiếp tục, nó có thể gây ảnh hưởng đến sự hoạt động của các hệ
sinh thái điều hòa khí hậu trong dài hạn và có thể dẫn đến những biến đổi
15
không thể lường trước và có thể dẫn đến sự đảo ngược trong hệ thống trái đất
và những thay đổi trong các dịch vụ hệ sinh thái là nguồn cung các nguyên
liệu chủ yếu phục vụ cho phát triển kinh tế. Ngoài ra, đầu tư xanh cũng nhằm
giảm những hệ quả tiêu cực do các yếu tố bên ngoài gây ra bởi việc khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Thứ năm, kinh tế xanh giúp các nước đang phát triển đạt được các lợi ích
kinh tế và xã hội về nhiều mặt thông qua việc triển khai các công nghệ năng
lượng sạch và cải thiện tiếp cận với các dịch vụ năng lượng; nâng cao hiệu
quả sử dụng tài nguyên thông qua đầu tư và áp dụng sản xuất sạch; bảo đảm
an ninh lương thực thông qua việc sử dụng nhiều phương pháp nông nghiệp
bền vững và tiếp cận với các thị trường mới nổi nhờ các hàng hóa và dịch vụ
“xanh”; an ninh năng lượng cho các quốc gia được đảm bảo; các ảnh hưởng
môi trường được hạn chế... Những tiến bộ trong khai thác hiệu quả tài nguyên
và đa dạng hóa các nguồn năng lượng sẽ góp phần giảm chi phí nhập khẩu và
bảo đảm an ninh năng lượng cho các quốc gia, tránh những biến động của giá
cả thị trường; đồng thời hạn chế các ảnh hưởng môi trường và chi phí liên
quan đến sức khỏe từ những hoạt động sản xuất [3;36].
1.3.2. Kinh tế xanh là xu thế tất yếu
Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp, do (i) Năng suất của nền
kinh tế thấp vì ít có sự đóng góp của yếu công nghệ: Những thành tựu phát
triển kinh tế chủ yếu là lao động trình độ thấp, vốn và tài nguyên, trong khi đó
các nguồn lực này được khai thác triệt để và có nguy cơ cạn kiệt dần. Nền
kinh tế bắt đầu tăng trưởng giảm và những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng bắt
đầu gây bất cân đối. (ii) Hiệu quả đầu tư rất thấp: Để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trong điều kiện thể chế chính sách yếu kém, trình độ lao động yếu
kém, công nghệ thấp, một số nước phải đổ rất nhiều vốn vào khai thác những
nguồn lực có hạn mà hiệu quả đầu tư thấp nên sự ổn định kinh tế vĩ mô bị đe
16
dọa. (iii) Thâm hụt ngân sách ngày một lớn: Với áp lực tăng trưởng cao nhiều
quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển phải liên tục thúc đẩy đầu tư
công thông qua chi tiêu ngân sách và do đó làm thâm hụt ngân sách. Việc giải
quyết nó đòi hỏi một chiến lược dài hạn nhằm tái cấu trúc nền kinh tế và nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là việc tái cấu trúc và chỉnh
đốn lại khu vực doanh nghiệp nhà nước. (iv) Nền kinh tế dựa nhiều vào FDI
để tăng trưởng: Trong khi hầu hết các quốc gia vẫn dựa nhiều vào FDI để tăng
trưởng nền kinh tế, thì việc thu hút FDI một cách dễ dàng và quản lý FDI
thiếu chặt chẽ đã dẫn đến những tác động tiêu cực đối với kinh tế và xã hội về
nhiều mặt như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, công nghệ tiêu tốn
năng lượng, xả thải ra môi trường. (v) Nền kinh tế tiêu tốn nhiều năng lượng:
Do nền kinh tế tăng trưởng dựa vào sản phẩm thô và tài nguyên hóa thạch, với
sự đóng góp rất hạn chế về công nghệ cho nên vừa không đạt được hiệu quả
cao, vừa xả thải ra môi trường nhiều chất độc hại do không được xử lý hiệu
quả. Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên
liệu thô sẽ khiến nền kinh tế kém bền vững và ổn định.
Thứ hai, thể chế, hạ tầng kém phát triển: Ở một số quốc gia đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển và kém phát triển thì hệ thống hạ tầng và thể chế
kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa hỗ trợ hiệu quả cho phát triển kinh
tế - xã hội, phân bổ nguồn lực kém hiệu quả. Quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp còn nhiều yếu kém. Cơ chế thị trường được cải thiện, nhưng còn nhiều
bất cập. Các công trình xây dựng kéo dài, chậm đưa vào sử dụng. Thị trường
khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản chậm hình
thành.
Thứ ba, trình độ lao động chưa được cải thiện nhiều: Đối với các quốc
gia phát triển thì gặp phải vấn đề thiếu hụt nguồn lực lao động (như Nhật Bản,
17
- Xem thêm -