Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển dịch vụ của việt nam sau khi việt nam gia nhập wto...

Tài liệu Phát triển dịch vụ của việt nam sau khi việt nam gia nhập wto

.PDF
115
11
69

Mô tả:

Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 1 -- Đoàn Thị Yến ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------- ĐOÀN THỊ YẾN PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CỦA VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế Mã số: 60 31 07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Xuân Thắng Hà Nội, 2006 Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 2 -- Đoàn Thị Yến MỤC LỤC Lời mở đầu ....................................................................................................... 1 Chương 1. Một số vấn đề về phát triển dịch vụ trong khuôn khổ WTO....... 6 1.1.Một số vấn đề chung về dịch vụ .................................................................. 6 1.1.1.Khái niệm dịch vụ và thương mại dịch vụ ....................................................... 6 1.1.2.Đặc điểm của dịch vụ ........................................................................................ 9 1.1.3.Phân loại dịch vụ ............................................................................................ 10 1.1.4. Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế ........................................................... 12 1.1.5. Dịch vụ với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ........................................... 18 1.2.Dịch vụ trong WTO và các yêu cầu đặt ra cho các nước đang phát triển đi sau ................................................................................................................... 22 1.2.1.Cách hiểu của WTO về dịch vụ ...................................................................... 22 1.2.2.Cách phân loại dịch vụ theo WTO ................................................................. 25 1.2.3.Những nguyên tắc pháp lí cơ bản của WTO điều chỉnh thương mại dịch vụ29 1.2.4.Những yêu cầu đặt ra cho các nước đang phát triển .................................... 38 Chương 2. Thực trạng phát triển dịch vụ của Việt Nam kể từ sau đổi mới đến nay............................................................................................................. 41 2.1.Quan niệm và môi trường pháp luật về dịch vụ của Việt Nam ................. 41 2.1.1.Quan niệm của Việt Nam về dịch vụ ............................................................. 41 2.1.2.Thực trạng môi trường pháp luật của Việt Nam về dịch vụ ......................... 42 2.2.Thực trạng phát triển dịch vụ của Việt Nam kể từ sau đổi mới đến nay .. 50 2.2.1.Tình hình phát triển chung............................................................................. 50 2.2.2.Thực trạng phát triển trong một số lĩnh vực dịch vụ cụ thể ......................... 54 Dich vụ viễn thông.......................................................................................... 54 Dịch vụ tài chính - ngân hàng và bảo hiểm ................................................... 58 Dịch vụ vận tải ................................................................................................ 64 Dịch vụ du lịch ................................................................................................ 69 Dịch vụ giáo dục đào tạo ............................................................................... 72 Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 3 -- Đoàn Thị Yến Dịch vụ kinh doanh ....................................................................................... 73 2.2.3.Những vấn đề đặt ra ....................................................................................... 76 Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO ............................................................................................ 83 3.1.Bối cảnh mới cho phát triển dịch vụ ở Việt Nam ..................................... 83 3.1.1. Chiều hướng phát triển mới của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới ........... 83 3.1.2. Toàn cầu hoá kinh tế và tiến trình tự do hoá thương mại dịch vụ diễn ra mạnh mẽ ................................................................................................................... 84 3.1.3.Thế và lực của Việt Nam sau 20 năm đổi mới ............................................... 85 3.1.4.Những cơ hội và thách thức đối với việc phát triển dịch vụ ở Việt Nam ..... 88 3.2.Định hướng phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO ... 91 3.2.1.Định hướng các giai đoạn phát triển khu vực dịch vụ ................................. 91 3.2.2. Lựa chọn và ưu tiên phát triển một số lĩnh vực dịch vụ mang tính đột phá ............................................................................................................................ 92 3.2.3.Lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ cho phù hợp gắn với bối cảnh trong nước và quốc tế ....................................................................................................... 95 3.3.Một số giải pháp phát triển dịch vụ của Việt Nam ................................... 96 3.3.1.Nhóm giải pháp đổi mới nhận thức về phát triển dịch vụ trong bối cảnh tự do hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ............................................................ 96 3.3.2.Nhóm giải pháp xây dựng khung pháp luật đồng bộ, phù hợp về thương mại dịch vụ ...................................................................................................................... 99 3.3.3.Cơ chế phối hợp và cơ quan đầu mối quản lý phát triển dịch vụ .............. 101 3.3.4.Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực dịch vụ .......... 102 3.3.5.Tăng cường xuất khẩu dịch vụ ..................................................................... 103 3.3.6.Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế ........................................................ 104 Kết luận......................................................................................................... 106 Danh mục tài liệu tham khảo Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO -- 4 -- Luận vănThạc sỹ kinh tế THUẬT NGỮ VIẾT TẮT AFAS Hiệp định Khung ASEAN về dịch vụ ASEAN Hiệp hội cỏc quốc gia Đụng Nam ỏ ASEM Diễn đàn Hợp tỏc ỏ - Âu CIF Chi phí, bảo hiểm, cước vận tải CNH-HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá DNNN Doanh nghiệp Nhà nước DWT Tấn khối lượng tịnh EU Liên minh châu Âu FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài FOB Giao lên mạn tàu GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GDP Tổng sản phẩm quốc nội GNI Tổng thu nhập quốc dân ICT Công nghệ thông tin và truyền thông IT Công nghệ thông tin NIEs Các nền kinh tế công nghiệp mới R&D Nghiên cứu triển khai WTO Tổ chức thương mại Thế giới WTTC Hội đồng du lịch Thế giới XHCN Xã hội chủ nghĩa Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Đoàn Thị Yến Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 5 -- Đoàn Thị Yến LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Toàn cầu hoá kinh tế đang là một hiện tượng thực tế đang ngày càng hiển hiện và lan toả cả về chiều rộng và chiều sâu trong thế giới ngày nay. Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ ngày càng trở nên một yêu cầu tất yếu, cấp bách đối với Việt Nam. Trong những năm qua,Việt Nam đã tích cực chuẩn bị để hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới: đã gia nhập ASEAN, ký với Mỹ Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ... Tuy nhiên, Việt Nam chỉ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới khi trở thành thành viên chính thức của WTO. Để trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam phải lần lượt tham gia tất cả các Hiệp định đa biên của WTO, trong đó có Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS). Dịch vụ là lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến mọi mặt, mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và động chạm đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thương mại dịch vụ chiếm vị trí quan trọng trong WTO. Thương mại dịch vụ ngày càng tỏ rõ ưu thế, thu hút sự quan tâm của WTO nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng trong đó có Việt Nam. Mặc dù đạt mức tăng trưởng GDP cao nhưng khu vực dịch vụ của Việt Nam vẫn còn lạc hậu, năng lực cạnh tranh thấp. Tỷ trọng khu vực dịch vụ chỉ đạt chưa đến 40% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 50% của các nước thu nhập thấp và 70% của các nước phát triển. Các nghiên cứu tổng quan cho thấy, so với các nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh của khu vực dịch vụ Việt Nam còn rất thấp. Trong khi đó sức ép từ các cam kết khu vực và song phương của Việt Nam cũng như sức ép tự do hoá khu vực và song phương giữa các nước ngày càng gia tăng, chưa kể đến các nỗ lực đàm phán của Việt Nam để gia nhập WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động trực tiếp đến khu vực dịch vụ, nhưng đồng thời cũng tạo ra những tác động gián tiếp đến toàn bộ nền kinh thế thông các mối liên hệ giữa khu vực dịch vụ với các hoạt động kinh tế khác. Một ví dụ điển hình là giá cả và chất lượng của các dịch vụ như Viễn Thông và Điện lực đóng vai trò rất quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu cũng như đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ở Việt Nam hiện nay nhiều vấn đề về dịch vụ còn chưa được hiểu một cách thấu đáo và sự phát triển của khu vực này chưa thực sự được quan tâm Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 6 -- Đoàn Thị Yến đúng mức. Mặc dù trong những năm qua, một số bộ ngành đã xây dựng chiến lược phát triển cho một vài phân ngành dịch vụ cụ thể nhưng trên thực tế các chiến lược đó đã không theo kịp với thực tiễn do sự thay đổi nhanh chóng của bối cảnh bên trong cũng như bên ngoài. Các chiến lược đó vẫn chưa tính đến các cam kết hội nhập khu vực và song phương, cũng như những cam kết trong đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam và đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự không nhất quán trong việc xây dựng những chiến lược đó. Hơn thế nữa, ở Việt Nam vẫn chưa có sự phối hợp liên ngành chặt chẽ giữa các chiến lược phát triển của các phân ngành dịch vụ cũng như chưa có định hướng phát triển cho khu vực dịch vụ nói chung trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát từ tầm quan trọng của khu vực dịch vụ đối với nền kinh tế nói chung và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng, tác giả quyết định chọn đề tài "Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO" với mong muốn góp phần đưa ra khái niệm và hướng tiếp cận phát triển dịch vụ thích ứng với tự do hoá trong khuôn khổ WTO, góp phần đánh giá thực trạng khu vực dịch vụ của Việt Nam từ đó đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này. Có thể dẫn ra một số công trình sau: 1."Định hướng tổ chức và quản lí dịch vụ thương mại ở Việt Nam" - Đề tài khoa học cấp Bộ - Nguyễn Lương Thanh - Viện Nghiên cứu Thương mại Bộ Thương mại. Công trình này đi từ việc đánh giá thực trạng dịch vụ thương mại ở Việt Nam và phân tích xu hướng phát triển của dịch vụ thương mại trên thế giới cũng như của Việt Nam để đề xuất các giải pháp về tổ chức quản lí dịch vụ thương mại ở Việt Nam. 2. “Cơ sở khoa học xây dựng định hướng mục tiêu và giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam giai đoạn 2001-2005, tầm nhìn đến 2010” - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Vụ đa biên - Bộ thương mại. Công trình đưa ra những nghiên cứu về hiện trạng của ngành dịch vụ của Việt Nam giai đoạn 1996-2000, phân tích xu hướng phát triển của dịch vụ và từ đó đưa ra các phương án và đề xuất cơ bản về phát triển ngành dịch vụ nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam. Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 7 -- Đoàn Thị Yến 3. " Cở sở khoa học cho sự lựa chọn giải pháp và bước đi nhằm đẩy mạnh tiến trình mở cửa về dịch vụ thương mại" - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - GS.TS. Nguyễn Thị Mơ - Trường Đại học Ngoại Thương. Công trình tập trung đánh giá thực trạng mở cửa thị trường dịch vụ thương mại của Việt Nam, chỉ rõ những bất cập trong chính sách và pháp luật có tính cản trở Việt Nam hội nhập về thương mại dịch vụ, từ đó đề xuất bước đi, giải pháp cụ thể phù hợp để mở cửa thị trường dịch vụ nhằm đẩy nhanh tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. 4. “Phát triển khu vực dịch vụ ở Việt Nam: Chìa khoá cho tăng trưởng bền vững” - Báo cáo thuộc Dự án VIE/02/009 của UNDP - PGS.TS. Nguyễn Xuân Thắng (Trưởng nhóm). Nghiên cứu này đã phân tích chi tiết về năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ Việt Nam, đưa ra các phương án nhằm khắc phục các điểm yếu, phát huy các điểm mạnh và tận dụng các cơ hội, đưa ra các đề xuất cho chiến lược quốc gia về phát triển ngành dịch vụ và cho đàm phán quốc tế cũng như các đề xuất để củng cố hệ thống thống kê về thương mại dịch vụ. Ngoài ra còn có một số các bài viết trên các tạp chí về dịch vụ và thương mại dịch vụ, các công trình nghiên cứu có liên quan đến dịch vụ một cách gián tiếp và trực tiếp. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ, phân tích các quy định có tính ràng buộc của GATS đối với các nước thành viên, đặc biệt là các nước thành viên đang phát triển trong việc mở cửa thị trường dịch vụ và đánh giá thực trạng khu vực dịch vụ của Việt Nam từ sau đổi mới đến nay, đề tài đề xuất những định hướng và giải pháp cụ thể nhằm phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích như trên, đề tài có nhiệm vụ : - Làm rõ một cách cô đọng nhất cách hiểu, quan niệm mới về dịch vụ, gắn với quan niệm dịch vụ trong khuôn khổ GATS. - Khẳng định vai trò, vị trí của dịch vụ trong nền kinh tế và thương mại toàn cầu. - Phân tích những nguyên tắc pháp lý cơ bản của WTO trong việc điều chỉnh thương mại dịch vụ, trên cơ sở đó, nêu bật những yêu cầu có tính bắt buộc Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 8 -- Đoàn Thị Yến mà Việt Nam phải tuân thủ để mở cửa thị trường dịch vụ nếu muốn trở thành thành viên của WTO. - Đánh giá thực trạng chính sách, pháp luật Việt Nam về thương mại dịch vụ, từ đó chỉ rõ những bất cập trong chính sách và pháp luật có tính cản trở Việt Nam hội nhập về Thương mại dịch vụ. - Trên cơ sở những đánh giá chung về thực trạng phát triển dịch vụ Việt Nam thời gian qua, đi sâu vào phân tích thực trạng của một số lĩnh vực dịch vụ cụ thể. - Đề xuất những định hướng, giải pháp cụ thể, phù hợp với quy định của WTO về thương mại dịch vụ cũng như phù hợp với thực tiễn thể chế chính trịpháp lý - kinh tế của Việt Nam, nhằm thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về dịch vụ của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.  Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm: o Các nguyên tắc cơ bản của WTO về thương mại dịch vụ. o Những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về dịch vụ và thương mại dịch vụ. o đến nay. Tình hình phát triển dịch vụ của Việt Nam trong thời gian từ 1986 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đánh giá, phân tích, tổng hợp, so sánh, sử dụng số liệu thực tế với vận dụng lý thuyết để làm rõ vấn đề nghiên cứu. 7. Những đóng góp mới của Luận văn - Luận giải và làm rõ các khái niệm về dịch vụ và chỉ rõ được tầm quan trọng của dịch vụ trong phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. - Đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ của Việt Nam, trên cơ sở phân tích từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể để thấy được điểm mạnh, điểm yếu đồng thời nêu rõ những cơ hội và thách thức, các vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát triển dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 9 -- Đoàn Thị Yến - Đề xuất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO. 8. Bố cục của Luận văn Luận văn bao gồm ba chương chính: Chương 1. Một số vấn đề về phát triển dịch vụ trong khuôn khổ WTO Chương 2. Thực trạng phát triển dịch vụ của Việt Nam kể từ sau đổi mới đến nay Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 10 -- Đoàn Thị Yến CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TRONG KHUÔN KHỔ WTO 1.1. Một số vấn đề chung về dịch vụ 1.1.1.Khái niệm dịch vụ và thương mại dịch vụ Cho đến nay cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tính vô hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại hình dịch vụ làm cho việc nêu ra một định nghĩa rõ ràng về dịch vụ trở nên khó khăn. Hơn nữa các quốc gia có cách hiểu về dịch vụ không giống nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ngay cả Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS) của Tổ chức thương mại thế giới WTO cũng không nêu khái niệm về dịch vụ mà chỉ liệt kê dịch vụ thành 12 ngành lớn và 155 phân ngành khác nhau nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp định. Cuốn "Balance of Payment Manual" fifth edition BPM5 của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hướng dẫn cách phân loại và thống kê số liệu về xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ đã liệt kê dịch vụ thành 3 nhóm lớn là vận tải, du lịch và các dịch vụ thương mại khác. Mỗi nhóm này lại được chia thành các mục nhỏ. Nhiều công trình nghiên cứu đã nghiên cứu và tiếp cận khái niệm dịch vụ trên nhiều khía cạnh nhằm đi đến sự thống nhất về khái niệm và nội hàm của dịch vụ, trên cơ sở đó có thể đi sâu phân tích những vấn đề có tính lý luận và những khía cạnh thực tiễn về thương mại dịch vụ và dịch vụ thương mại. Dù có nhiều cách tiếp cận nhưng cách định nghĩa kinh điển dựa trên tính chất của dịch vụ là định nghĩa chuyển tải được những nội dung cơ bản và đầy đủ nhất về dịch vụ: Dịch vụ là loại sản phẩm vô hình và không thể cầm nắm được. Định nghĩa này nêu lên được hai đặc điểm cơ bản của dịch vụ. Thứ nhất, dịch vụ là một “sản phẩm”, là kết quả của quá trình lao động và sản xuất nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. Thứ hai, khác với hàng hóa là cái hữu hình, dịch vụ là vô hình, phi vật chất và không thể lưu trữ được. Dịch vụ không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất dưới dạng những sản phẩm hữu hình nhưng chúng lại tạo ra giá trị thặng dư do có sự khai thác sức lao động, tri thức, chất xám của con người. Dịch vụ kết tinh các hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như tài chính, vận tải, bảo hiểm, kiểm toán, kế toán, tư vấn pháp lý...v.v. Khác với hàng hóa là cái hữu hình, dịch vụ là vô hình và phi vật chất. Chính điểm khác nhau cơ Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 11 -- Đoàn Thị Yến bản này giữa sản phẩm hàng hóa hữu hình với sản phẩm dịch vụ vô hình đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới cách thức tiến hành các hoạt động thương mại hàng hóa và hoạt động thương mại dịch vụ ở phạm vi từng quốc gia cũng như ở phạm vi quốc tế. Vì dịch vụ là vô hình nên các quốc gia cũng đã tốn không ít công sức và thời gian để xây dựng được các quy chuẩn pháp lý điều chỉnh các hoạt động cung ứng dịch vụ nói chung và các hoạt động thương mại dịch vụ nói riêng. Một trong những vấn đề quan trọng khi nghiên cứu dịch vụ là làm rõ khái niệm thương mại dịch vụ. Trước đây người ta cho rằng dịch vụ là các hoạt động bổ trợ cho sản xuất hàng hoá. Do vậy, dịch vụ không gắn với thương mại do hoạt động trao đổi buôn bán hàng hoá đã bao trùm tất cả. Trên thực tế dịch vụ ngày càng được trao đổi trên cơ sở thương mại. Hay nói cách khác giữa người cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ có sự thoả thuận trước về việc người tiêu dùng dịch vụ phải trả tiền cho người cung cấp dịch vụ khi tiêu dùng dịch vụ. Chẳng hạn, bác sỹ có thể chữa bệnh cho bệnh nhân trên cơ sở từ thiện. Khi đó, bác sỹ đã cung cấp dịch vụ chữa bệnh, bệnh nhân tiêu thụ dịch vụ này, nhưng việc cung cấp và tiêu thụ dịch vụ này không được tiến hành trên cơ sở thương mại và bệnh nhân không phải trả tiền chữa bệnh cho bác sỹ. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại thì thông thường dịch vụ chữa bệnh được cung cấp trên cơ sở thương mại. Giữa bác sỹ và bệnh nhân có sự thoả thuận về việc chữa bệnh: bệnh nhân phải trả tiền cho bác sỹ theo giá thị trường về dịch vụ chữa bệnh do bác sỹ cung cấp. Như vậy, thương mại dịch vụ là khái niệm rộng dùng để chỉ tất cả các hành vi cung ứng các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận. Trong cách hiểu này cần chú ý rằng chỉ các dịch vụ được đem ra mua bán, trao đổi nhằm thu lợi nhuận thì các hành vi trao đổi đó mới được coi là mang tính chất thương mại và nằm trong khái niệm thương mại dịch vụ. Ở những nước kém phát triển, những nước mà người ta chưa thực sự coi trọng giá trị thương mại của các ngành dịch vụ nên người ta cũng không quan tâm mấy đến vai trò của thương mại dịch vụ. Không chỉ ở những nước phi thị trường, mà về mặt lịch sử, vào thập kỷ 70 của thế kỷ 20, các nhà kinh tế học thế giới cũng chỉ coi ngành dịch vụ như một tổng thể các hoạt động “phi thương”, chỉ có tác dụng làm tăng thêm việc làm là chính chứ không làm tăng năng suất là bao nhiêu. Còn tại các nước đang phát triển, việc phát triển ngành dịch vụ chỉ được xem như những ngành không chính thức, và, ở nhiều nước này còn có quan niệm cho rằng, sự phát triển hay mở rộng ngành dịch vụ được coi là “sự đô Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 12 -- Đoàn Thị Yến thị hóa một cách hỗn loạn và là sự bành trướng của khu vực công”. Với thực tiễn như vậy, về mặt lý luận, cũng ít có tài liệu phân tích sâu về khía cạnh thương mại của các hoạt động cung cấp dịch vụ. Ngày nay, cách nhìn nhận như trên về dịch vụ đã thay đổi. Đặc biệt người ta ngày càng nhận thấy vai trò năng động của dịch vụ trong tiến trình phát triển gắn liền với những thành tựu do công nghệ đem lại. Đổi mới công nghệ đã mở ra nhiều cơ hội để ngành dịch vụ phát triển mạnh, đặc biệt là đã tạo điều kiện để cho việc trao đổi, lưu thông dịch vụ mở rộng và vượt khỏi biên giới quốc gia của các nước và trở thành sản phẩm có giá của thị trường quốc tế như các phần mềm, internet, băng hình .v.v. Do tác động của công nghệ, ở các nước phát triển, ngành dịch vụ được coi là bộ phận tăng trưởng nhanh nhất của nền thương mại trong nước: ví dụ ở Mỹ, dịch vụ tạo ra 80% việc làm; 3/4 tổng sản phẩm quốc nội và 30% giá trị xuất khẩu. Vì vậy các nước phát triển đã sớm xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động cung ứng dịch vụ theo hướng coi các hoạt động này là một trong những ngành thương mại đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền thương mại quốc gia trong thế kỷ 20 và 21. Mục đích của các nước phát triển là thương mại hóa các dịch vụ nói chung và các sản phẩm dịch vụ, ngành dịch vụ nói riêng. Chính vì vậy, ở những nước này, người ta đi thẳng vào thương mại dịch vụ thông qua các quy chuẩn từ chính sách phát triển thương mại dịch vụ đến xây dựng hệ thống pháp luật về thương mại dịch vụ. Tình hình này đã không xảy ra ở các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi. Ở những nước này, người ta phản đối quan điểm thương mại hóa các ngành dịch vụ. Các dịch vụ như sức khỏe, nhà ở, giáo dục và thậm chí cả dịch vụ tài chính, ngân hàng được coi là một bộ phận trong chiến lược phát triển quốc gia và chỉ được xem xét dưới góc độ an ninh quốc gia với mục tiêu là để duy trì cơ sở hạ tầng cho các hoạt động kinh tế thương mại khác. Với cách quan niệm này, Chính phủ thường đứng ra tự mình đảm nhận vai trò chủ yếu trong việc cung cấp dịch vụ và do đó, dịch vụ được cung cấp dưới dạng phi thương mại. Ngày nay, mặc dù ở một số nước đang phát triển, tỷ trọng đóng góp của các ngành dịch vụ trong GDP đã tăng đáng kể (ví dụ, ở Hàn Quốc là 60%, ở Braxin: 60%, ở Zambia: 50%, ở Uganda: 40%...) nhưng, các nước này cũng đang rất thận trọng với việc phổ cập quan điểm thương mại hóa các ngành dịch vụ, kể cả các dịch vụ được coi là lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển như dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ du lịch. Do có truyền thống là các dịch vụ này được Chính phủ cung cấp phi thương, cho nên, việc thương mại hóa các Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 13 -- Đoàn Thị Yến dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục ở các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi hiện đang bị chỉ trích mạnh mẽ cả về lý luận lẫn thực tế. Để có cơ sở phân biệt dịch vụ với hàng hóa, phân biệt thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ, chúng ta sẽ phân tích những đặc trưng của sản phẩm dịch vụ so với sản phẩm hàng hóa. 1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ Những đặc điểm cơ bản của dịch vụ được thừa nhận rộng rãi gồm: * Thứ nhất dịch vụ là vô hình nên rất khó xác định Quá trình sản xuất hàng hóa tạo ra những sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý, hoá học, ... nhất định, có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể và do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Khác với hàng hóa, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những vật phẩm cụ thể, không cầm nắm được, không nhìn thấy được và do đó không thể xác định chất lượng dịch vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hóa. Chính vì vậy, các công tác lượng hoá, thống kê, đánh giá chất lượng và quy mô cung cấp dịch vụ của một công ty, nếu xét ở tầm vi mô và của một quốc gia, nếu xét ở tầm vĩ mô, trở nên khó khăn hơn so với hàng hoá hữu hình rất nhiều. * Thứ hai quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ thường xảy ra đồng thời. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất hàng hóa tách khỏi lưu thông và tiêu dùng. Do đó hàng hóa có thể được lưu kho để dự trữ, có thể vận chuyển đi nơi khác theo cung cầu của thị trường. Khác với hàng hóa, quá trình cung ứng dịch vụ gắn liền với tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ, với dịch vụ tư vấn đầu tư, khi chuyên gia về đầu tư cung cấp dịch vụ tư vấn cũng là lúc người sử dụng dịch vụ tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn do người chuyên gia này cung ứng. Thông thường, việc cung ứng dịch vụ đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa người cung ứng và người tiêu dùng dịch vụ. * Thứ ba dịch vụ không lưu trữ được. Do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng. Với cách hiểu đó, dịch vụ là sản phẩm không lưu trữ được và trong cung ứng dịch vụ không có khái niệm tồn kho hoặc dự trữ sản phẩm dịch vụ. Đây là những đặc điểm cơ bản để phân biệt sản phẩm dịch vụ vô hình với sản phẩm hàng hóa hữu hình. Tuy nhiên cần phải thấy rằng sẽ không tồn tại một sự phân biệt tuyệt đối. Chẳng hạn, Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 14 -- Đoàn Thị Yến một số loại hình dịch vụ, khi kết thúc quá trình cung ứng sẽ tạo ra sản phẩm có hình thái vật chất như bản photocopy (đối với dịch vụ photocopy). Hệ thống dịch vụ trả lời điện thoại tự động không đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa người cung ứng và người tiêu dùng và, về một khía cạnh nào đó, có thể coi đó là sản phẩm “lưu trữ” được. Hầu như trong mọi hoạt động cung ứng dịch vụ đều có sự xuất hiện của các sản phẩm hữu hình như là các yếu tố phụ trợ. Cũng như vậy, khi tiến hành mua bán trao đổi bất kỳ hàng hoá hữu hình nào cũng đều cần đến các dịch vụ hỗ trợ. Người ta thấy rằng sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các hoạt động kinh tế cũng như tính phức tạp của chúng làm cho việc phân biệt giữa các ngành kinh tế trở nên thực sự khó khăn. Điều này cũng giải thích rằng sự phân biệt giữa dịch vụ và hàng hóa chỉ mang tính chất tương đối. Dịch vụ và hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quá trình hình thành và phát triển dịch vụ gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội và của sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hoá càng phát triển và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng thì các ngành dịch vụ cũng sẽ được hình thành và phát triển nhiều hơn, đa dạng hơn. Nếu như trước đây, nói đến một nền kinh tế, người ta chỉ nói đến hai lĩnh vực then chốt là nông nghiệp và công nghiệp thì ngày nay, lĩnh vực được quan tâm đến nhiều cũng như chiếm tỷ trọng khá cao trong GDP của các quốc gia lại là lĩnh vực dịch vụ- ngành kinh tế thứ ba của nền kinh tế. 1.1.3. Phân loại dịch vụ Có nhiều cách phân loại dịch vụ khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu: Dịch vụ mang tính thương mại và dịch vụ không mang tính thương mại Căn cứ theo tính chất thương mại của dịch vụ, người ta phân biệt dịch vụ mang tính chất thương mại và dịch vụ không mang tính chất thương mại. Dịch vụ mang tính chất thương mại là những dịch vụ được thực hiện, được cung ứng nhằm mục đích thu lợi nhuận và vì mục tiêu là kinh doanh. Ví dụ dịch vụ quảng cáo để bán hàng, dịch vụ môi giới. Dịch vụ không mang tính chất thương mại (dịch vụ phi thương mại) là những dịch vụ được cung ứng không nhằm mục đích kinh doanh, không vì mục đích thu lợi nhuận. Những dịch vụ này bao gồm các dịch vụ công cộng thường do các đoàn thể, các tổ chức xã hội phi lợi nhuận cung ứng hoặc do các cơ quan nhà nước cung ứng khi các cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Ví dụ dịch vụ chăm sóc người già, người tàn tật. Cách phân loại này giúp chúng ta xác định mục tiêu, đối tượng và phạm vi của thương mại dịch vụ. Không phải tất cả các loại dịch vụ đều có thể được Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 15 -- Đoàn Thị Yến trao đổi hay mua bán. Rất nhiều dịch vụ không thể được thương mại hóa, ví dụ như những dịch vụ công cộng. Một số dịch vụ khác rất khó thương mại hóa, ví dụ như dịch vụ giáo dục. Nói đến thương mại là nói đến mục đích thu lợi nhuận, cho nên, có thể thấy rằng, chỉ những dịch vụ đã được thương mại hóa và mang tính chất thương mại mới nằm trong phạm vi của thương mại dịch vụ. Các hoạt động giáo dục đơn thuần do các trường quốc lập thực hiện bằng ngân sách của Nhà nước với mục tiêu phổ cập giáo dục, dù đó là các hoạt động cung ứng dịch vụ, nhưng không phải là thương mại dịch vụ vì ở đây không tồn tại mục tiêu của thương mại. Chỉ khi nào một hoạt động giáo dục được thực hiện nhằm “phục vụ” một nhóm “khách hàng” để thoả mãn “nhu cầu” của họ với mục tiêu thu lợi nhuận thì hoạt động đó mới được coi là thương mại dịch vụ và là thương mại dịch vụ trong giáo dục. Nói cách khác, chỉ khi nào dịch vụ trở thành một “hàng hoá” thực sự (hàng hoá vô hình), được mua bán, trao đổi (cung cấp) trên thị trường theo đúng quy luật cung- cầu và các quy luật của thị trường như các hàng hoá hữu hình khác thì lúc đó, dịch vụ mới trở thành đối tượng của thương mại dịch vụ. Dịch vụ về hàng hoá và dịch vụ về tiêu dùng Dựa vào mục tiêu của dịch vụ, người ta có thể chia dịch vụ thành 4 nhóm như sau: - Dịch vụ phân phối (distributive services): vận chuyển, lưu kho, bán buôn, bán lẻ, quảng cáo, môi giới... - Dịch vụ sản xuất (producer services): ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ về kỹ sư và kiến trúc công trình, dịch vụ kế toán kiểm toán, dịch vụ pháp lý... - Dịch vụ xã hội (social services): dịch vụ sức khỏe, y tế, giáo dục, dịch vụ vệ sinh, dịch vụ bưu điện, viễn thông, các dịch vụ nghe nhìn và các dịch vụ xã hội khác. - Dịch vụ cá nhân (personal services): dịch vụ sửa chữa, dịch vụ khách sạn, nhà hàng, các dịch vụ giải trí, dịch vụ văn hoá, du lịch... Dịch vụ phân phối và dịch vụ sản xuất còn được gọi là “dịch vụ về hàng hoá” (goods- oriented services) trong ý nghĩa rằng các hoạt động này gắn kết chặt chẽ với việc sản xuất, trao đổi, buôn bán các sản phẩm- hàng hoá từ ngành nông- công nghiệp như phục vụ cho việc cung cấp đầu vào cho sản xuất hay phục vụ cho việc phân phối và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Các dịch vụ này còn được gọi là dịch vụ trung gian (intermediate services). Dịch vụ xã hội Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 16 -- Đoàn Thị Yến và dịch vụ cá nhân được xếp vào các “dịch vụ về tiêu dùng” (consumptionoriented services) là các dịch vụ được tiêu dùng trực tiếp bởi các cá nhân, tổ chức nhằm phục vụ các nhu cầu xã hội và thường không liên quan đến thương mại hàng hóa nhưng vẫn mang tính thương mại. Các dịch vụ này còn được gọi là dịch vụ cuối cùng (final services). Bằng cách phân loại trên, chúng ta phân biệt được dịch vụ về hàng hóa mang tính chất thương mại với các dịch vụ về tiêu dùng mang tính chất thương mại và không mang tính chất thương mại (dịch vụ cá nhân và xã hội). Dịch vụ thương mại bao gồm các dịch vụ về hàng hoá (dịch vụ phân phối và dịch vụ sản xuất) như phân loại ở trên, nghĩa là bao gồm các dịch vụ phục vụ cho việc sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hoá trên thị trường như vận chuyển hàng hóa, lưu kho hàng hóa, bán buôn, bán lẻ, quảng cáo, môi giới, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ về kỹ sư và kiến trúc công trình, dịch vụ kế toán kiểm toán, dịch vụ pháp lý...v.v. Dịch vụ tiêu dùng mang tính chất thương mại như dịch vụ khách sạn, dịch vụ du lịch. Dịch vụ tiêu dùng không mang tính chất thương mại như dịch vụ văn hóa, dịch vụ giải trí, dịch vụ vệ sinh môi trường v.v. 1.1.4. Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế Hãy thử tưởng tượng trong một nền kinh tế sơ cấp (chưa phải là nền kinh tế hàng hoá), việc trao đổi mua bán hàng hoá diễn ra như thế nào. Các thương nhân sử dụng phương tiện chuyên chở của mình đưa hàng hoá từ nơi cung cấp đến nơi tiêu thụ, tự tìm kiếm khách hàng và việc mua bán, thanh toán được diễn ra trực tiếp. Trong một nền kinh tế như vậy, khối lượng hàng hoá được trao đổi và giao dịch là rất nhỏ, tốc độ lưu thông hàng hoá chậm và hiệu quả hoạt động trao đổi hàng hoá thấp. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của lưu thông và trao đổi hàng hoá đã diễn ra quá trình phân công lao động ở đó một số công đoạn trong quá trình phân phối đã được tách riêng bằng việc hình thành các thương nhân chuyên phục vụ chuyên chở hàng hóa từ nơi này đến nơi khác bằng các phương tiện chuyên dùng, các thương nhân làm môi giới giữa người bán và người mua,... Để tăng hiệu quả kinh doanh, các hãng kinh doanh đều có xu hướng chuyển dịch từ việc sử dụng các dịch vụ nội bộ (in-house provision of services) sang sử dụng các dịch vụ bên ngoài do các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp cung cấp (external suppliers). Các loại hình dịch vụ đã được hình thành và phát triển trong một quá trình như vậy. C.Mác cho rằng: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 17 -- Đoàn Thị Yến vụ phát triển”1. Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ. Dịch vụ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đó là:  Dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hoá, thúc đẩy thương mại hàng hoá phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Dịch vụ chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán quốc tế, đặc biệt là buôn bán hàng hóa sẽ vận hành như thế nào nếu không có các dịch vụ vận tải, dịch vụ thanh toán? Chính sự ra đời và phát triển của dịch vụ vận tải như vận tải đường bộ, đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa từ quốc gia này tới quốc gia kia, từ khu vực địa lý này đến khu vực địa lý khác. Trong quá trình chuyên chở hoặc lưu thông, hàng hóa luôn bị đe dọa bởi những rủi ro có thể gây thiệt hại về vật chất, các dịch vụ bảo hiểm hàng hóa sẽ gánh đỡ bớt những rủi ro đó và làm cho thương mại quốc tế trở nên an toàn hơn, ít tổn thất hơn. Các dịch vụ ngân hàng cũng cho phép khâu thanh toán được diễn ra một cách có hiệu quả, giúp cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ buôn bán. Các dịch vụ viễn thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ cho các hoạt động thương mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Các dịch vụ kinh tiêu như dịch vụ đại lý, bán buôn, bán lẻ giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất. Như vậy dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động thương mại hàng hóa. Điều này càng thể hiện rõ nét trong thương mại quốc tế. Như đã phân tích ở trên, các dịch vụ về vận tải, bảo hiểm, thanh toán quốc tế là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến lưu thông và buôn bán hàng hoá trên phạm vi quốc tế.  sản xuất. Các dịch vụ đã trở thành một yếu tố quan trọng trong quá trình Nhu cầu về dịch vụ xuất phát ở chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để có thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị 1 Handbook on .Liberalizing international Transactions in Services. of the United Nations and the World Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 18 -- Đoàn Thị Yến trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng. Các dịch vụ như nghiên cứu và phát triển, thiết kế, tiếp thị, phân phối... đã thâm nhập sâu vào quá trình sản xuất hàng hóa và có những đóng góp đáng kể trong việc tạo ra các giá trị gia tăng đối với các sản phẩm hàng hóa. Ngày nay, ranh giới giữa sản phẩm hàng hóa và sản phẩm dịch vụ chỉ mang một ý nghĩa tương đối. Sản phẩm hàng hóa ngày càng có hàm lượng dịch vụ cao kết tinh trong đó. Ví dụ như ngành công nghiệp sản xuất máy tính sẽ không thể tồn tại nếu như không có các dịch vụ cung cấp phần mềm để vận hành được tích hợp vào trong máy. Các nhà sản xuất ô tô, máy móc, thiết bị nhà xưởng khó có thể cung cấp cho khách hàng mà không có các dịch vụ bảo hành, bảo trì hay các giải pháp hỗ trợ đi kèm. Các phần mềm này, các giải pháp hỗ trợ đi kèm này chiếm đến một nửa tổng giá thành, thậm chí hai phần ba tổng giá thành, đặc biệt trong công nghiệp sản xuất máy tính. Trong những năm vừa qua, hơn một nửa doanh thu của hãng cung cấp máy tính IBM hay hãng cung cấp đồ điện gia dụng General Electric là từ các hoạt động cung cấp dịch vụ. Các dây chuyền thiết bị toàn bộ theo hình thức BOT (xây dựng- vận hành- chuyển giao) được bàn giao theo kiểu chìa khóa trao tay cho khách hàng cũng chứa đựng rất nhiều dịch vụ thương mại và đầu tư, từ lập kế hoạch, thiết kế, cấp tài chính, xây dựng, vận hành, bảo dưỡng... Các ngành dịch vụ có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển. Chẳng hạn, theo ước tính của một số chuyên gia nước ngoài, để đưa một sản phẩm trị giá 100 USD tới tay người tiêu dùng, nhà sản xuất phải chi tới 10 USD cho dịch vụ vận tải, 10 USD cho dịch vụ viễn thông, 10 USD cho dịch vụ quảng cáo, 30 USD cho các dịch vụ liên quan tới sản xuất và chỉ có 20 USD cho nguyên vật liệu và còn lại là các chi phí khác như tiền lương, quản lý, v.v... Như vậy, giá trị dịch vụ trong một sản phẩm chiếm tới 60% giá trị của hàng hoá và tỷ lệ này ngày càng có xu hướng gia tăng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự xuất hiện các phương thức kinh doanh mới.  Dịch vụ có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội Dịch vụ hình thành và phát triển gắn liền với phân công lao động xã hội. Hay nói cách khác, phân công lao động xã hội là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của dịch vụ. Ngược lại, sự phát triển của dịch vụ cũng góp phần làm phân công lao động trở nên sâu rộng hơn. Đặc biệt trong sản xuất và thương mại diễn ra sự chuyên môn hoá ngày càng cao. Các nhà sản xuất tận dụng được lợi thế nhờ quy mô bằng việc chỉ chuyên môn hoá trong một lĩnh vực sản xuất cụ thể và sử dụng một cách hiệu quả các dịch vụ do các nhà cung ứng dịch vụ cung cấp. Ngay trong các hoạt động cung cấp dịch vụ cũng diễn ra sự chuyên môn hoá Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Luận vănThạc sỹ kinh tế -- 19 -- Đoàn Thị Yến nhằm phục vụ các nhu cầu về dịch vụ ngày càng đa dạng của các nhà sản xuất, của các thương nhân... Nền kinh tế càng phát triển thì dịch vụ càng phong phú và đa dạng. Hiện nay, sự phát triển của dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Người ta thấy rằng trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao thì tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế của nước đó càng lớn. Bởi dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa, tạo điều kiện cho các lĩnh vực sản xuất khác phát triển.  Sự tăng trưởng của dịch vụ là động lực cho sự phát triển kinh tế. Ngành dịch vụ tồn tại trong tất cả các nền kinh tế bởi vì chúng là nhân tố thúc đẩy các hoạt động kinh tế và góp phần quan trọng vào nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Các dịch vụ hạ tầng cơ sở (các ngành dịch vụ tiện ích, xây dựng, giao thông, viễn thông và tài chính) hỗ trợ tất cả các loại hình doanh nghiệp. Giáo dục, y tế và các dịch vụ giải trí có ảnh hưởng đến chất lượng lao động, các dịch vụ kinh doanh và chuyên nghiệp giúp tạo ra khả năng chuyên môn nhằm nâng cao tính cạnh tranh và chất lượng các dịch vụ chính phủ có vai trò quyết định đối với môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Các nghiên cứu được tiến hành trong 20 năm qua đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế nhanh và phát triển các ngành dịch vụ chủ chốt, trong đó đáng chú ý nhất là ngành viễn thông, dịch vụ chuyên môn và dịch vụ kinh doanh. Nói chung, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, một số ngành dịch vụ hay các phân ngành dịch vụ nhất định sẽ trở nên quan trọng hơn và là động lực thúc đẩy phát triển. Thông thường, trong việc tạo dựng cơ sở cho nền kinh tế, dịch vụ tiện ích và xây dựng là 2 ngành quan trọng đầu tiên. Vận tải và viễn thông là hai ngành quan trọng tiếp theo trong cung cấp các cơ sở hạ tầng kinh tế. Tiếp theo đó, dịch vụ kinh doanh và dịch vụ tài chính sẽ trở nên phức tạp hơn, hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng liên tục và tạo ra chuyên môn hoá. Đồng thời, cũng có sự di chuyển từ các ngành công nghiệp kỹ năng thấp và dịch vụ tiêu dùng (ví dụ như các dịch vụ bán lẻ) sang các ngành công nghiệp kỹ năng cao được hỗ trợ bởi các dịch vụ trung gian (ví dụ, dịch vụ kinh doanh). Mức độ sẵn có của các dịch vụ đầu vào chất lượng cao góp phần làm tăng giá trị gia tăng của hàng công nghiệp và tạo ra các việc làm kỹ năng cao hơn. Thông thường, khi nền kinh tế trở thành nền kinh tế phát triển, phần lớn quá trình sản xuất trung gian sẽ bao gồm các dịch vụ cung ứng cho các công ty dịch vụ khác. Khu vực dịch vụ đóng góp trung bình khoảng 68% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, với tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng thu nhập quốc dân Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO -- 20 -- Luận vănThạc sỹ kinh tế Đoàn Thị Yến (GNI) tính theo đầu người. Ngay cả ở phần lớn các nền kinh tế kém phát triển nhất, khu vực dịch vụ cũng chiếm trung bình khoảng hơn 40% GDP. Bảng 1.1: Tỷ trọng dịch vụ trong GDP ở một số nền kinh tế trên thế giới, phân loại theo trình độ phát triển: 1998-2003 Các nền kinh tế được xem xét Phân loại theo thu nhập % dịch vụ trong GDP (trung bình) Thu nhập thấp 50 Thu nhập trung bình thấp 48 Thu nhập trung bình cao 61 Thu nhập cao 71 Nền kinh tế GNI trên đầu người 2003 (USD) % dịch vụ trong GDP 2003 Tăng Tăng trưởng trưởng dịch vụ GDP hàng năm hàng năm (%) (%) Việt Nam 480 38 6,8 9,5 ấn Độ 530 52 12,5 9,3 Inđônêxia 810 40 16,1 16,7 Philípin 1.080 53 4,8 4,4 Trung Quốc 1.100 32 7,3 8,0 Thái Lan 2.190 50 -1,0 -1,0 Malaixia 3.780 42 8,7 7,7 Hungari 6.330 65 14,4 12,6 Hàn Quốc 11.830 61 9,1 7,6 Singapo 21.230 65 1,3 1,3 Nguồn: Báo cáo "Khung khổ chung cho chiến lược quốc gia phát triển khu vực dịch vụ ở Việt Nam đến năm 2020" , Dự án VIE/02/009 Trên thực tế, không phải tỷ trọng tuyệt đối của khu vực dịch vụ trong GDP của một nền kinh tế đang phát triển hay chuyển đổi sẽ tạo ra sự khác biệt về phát triển kinh tế, mà là tốc độ tăng trưởng tương đối của cả ba khu vực (nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ). Ngành dịch vụ tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng trong các nền kinh tế ở tất cả các trình độ phát triển, một phần là do sự thay đổi nhanh chóng trong công nghệ thông tin và viễn thông đã hỗ trợ quá Phát triển dịch vụ của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất