Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ...

Tài liệu Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở trường sĩ quan công binh hiện nay

.PDF
95
16
122

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CÔNG BINH ...........................................................6 1.1. Thực chất vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh......................................................................6 1.2. Khái niệm và tiêu chí đánh giá về phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh.......................23 Chương 2: NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CÔNG BINH HIỆN NAY ..........................................................................................................................31 2.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh............................31 2.2. Những ƣu điểm và hạn chế trong phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay .................43 Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CÔNG BINH HIỆN NAY ..........................................................................60 3.1. Phát triển số lƣợng, chất lƣợng đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay ..................................................................................................................60 3.2. Tiếp tục đổi mới chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp giảng dạy theo hƣớng phát huy tính tích cực, sáng tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay .................66 3.3. Xây dựng môi trƣờng sƣ phạm phù hợp, bảo đảm cơ sở vật chất nhằm phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay ..................................................................................................................71 3.4. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy đảng, chỉ huy các cấp trong việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên ở Nhà trƣờng hiện nay ..........................................................................................................................76 KẾT LUẬN ..............................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con ngƣời là một trong hai yếu tố cơ bản cấu thành lực lƣợng sản xuất, là nhân tố trung tâm xuyên suốt trong lịch sử phát triển của xã hội. Nhờ có con ngƣời, các nguồn nguyên liệu mới đƣợc khai thác, chế biến từ đó sản xuất ra hàng hóa; nhờ có con ngƣời mà khoa học, kỹ thuật mới phát triển, các phát minh, sáng chế mới ra đời. Để làm đƣợc điều đó, con ngƣời phải có tri thức, muốn có đƣợc tri thức con ngƣời phải trải qua quá trình giáo dục, đào tạo. Chính từ lẽ dĩ nhiên đó, giáo dục, đào tạo trở thành ƣu tiên hàng đầu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng với sự tồn tại, phát triển của các quốc gia. Đảng ta khẳng định “Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nƣớc và của toàn dân. Đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho phát triển, đƣợc ƣu tiên đi trƣớc trong chƣơng trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội [9, tr. 3]. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng quân đội nói chung, Binh chủng Công binh nói riêng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bƣớc hiện đại” ở trong điều kiện thời bình, đòi hỏi công tác giáo dục, đào tạo phải đƣợc coi trọng đúng mức, trong đó, việc chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên là hƣớng ƣu tiên, là khâu then chốt trong phát triển giáo dục, đào tạo của quân đội và của binh chủng. Trƣờng Sĩ quan Công binh là trung tâm giáo dục, đào tạo sĩ quan công binh nằm trong hệ thống nhà trƣờng quân đội. Nhà trƣờng có nhiệm vụ chủ đạo là đào tạo đội ngũ cán bộ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội - nguồn lực cán bộ cơ bản, quan trọng trong binh chủng và toàn quân. Những năm qua, Nhà trƣờng đã có nhiều chủ trƣơng, biện pháp đổi mới công tác giáo dục, đào tạo, chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên cả về số lƣợng và chất lƣợng. Nhà trƣờng đã tạo điều kiện, môi trƣờng thuận lợi giúp đội ngũ giáo viên có khả năng phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong quá trình giảng dạy… Nhờ đó, chất lƣợng giáo dục, đào tạo ngày càng đƣợc nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, việc xây dựng đội ngũ giáo viên mà trực tiếp là phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên ở nhà trƣờng còn một số vấn đề bất cập, hạn chế: Trình độ đội ngũ giáo viên chƣa đáp ứng tốt nhất cho mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đào tạo; Một bộ phận giáo viên 1 chƣa thật sự chủ động tận dụng hết những điều kiện, khả năng để phát huy nội lực phục vụ công tác giảng dạy; Phƣơng pháp giảng dạy của một số giáo viên chƣa phù hợp với đối tƣợng đào tạo; Một số cấp ủy đảng và chỉ huy chƣa thực sự coi trọng công tác lựa chọn, bồi dƣỡng, đào tạo đội ngũ giáo viên… Họ chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của Nhà trƣờng trong tình hình mới. Bên cạnh đó, trƣớc sự lan tỏa sâu rộng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, ảnh hƣởng của nền kinh tế thị trƣờng, yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà trực tiếp là mục tiêu, nhiệm vụ đổi mới công tác giáo dục, đào tạo ở Nhà trƣờng càng cho thấy sự cần thiết, tính khách quan của việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan ở đội ngũ giáo viên trong quá trình thực hiện sứ mệnh giáo dục, đào tạo của Trƣờng. Trong điều kiện hiện nay, Nhà trƣờng không ngừng đổi mới, nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên. Vì vậy, nghiên cứu để đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay là vấn đề vừa có ý nghĩa cơ bản, vừa mang tính cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề nhân tố chủ quan và phát huy vai trò nhân tố chủ quan luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến vấn đề này nhƣ: Lƣơng Việt Hải, Nhân tố chủ quan trong cơ chế vận dụng và trong hoạt động của các quy luật xã hội, Tạp chí Triết học, 55 (số 4) và Nhân tố chủ quan trong cơ chế vận dụng và trong hoạt động của các quy luật xã hội, Tạp chí Triết học, 55 (số 4), tr. 51-66, 1986; Trần Bảo, Những yếu tố cơ bản làm tăng chất lượng của nhân tố chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Tạp chí Triết học, 74 (số 3), 1991; Dƣơng Thị Liễu, Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2001; Phạm Văn Nhuận, Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong phát triển bản chất giai cấp công nhân 2 Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội. 2001; Bùi Mạnh Hùng, Rèn luyện phương pháp làm việc khoa học theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho các nhà giáo quân đội, Tạp chí Nhà trƣờng Quân đội, (số 3), 2005; Phạm Ngọc Minh, Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn ở nước ta, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2006; Nguyễn Hồng Lƣơng, Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa Vũng Tàu hiện nay: Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội. 2006; Nguyễn Đức Tĩnh, Các Nhà trường Quân đội đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện công tác giáo dục và đào tạo, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 9), tr. 13-17, 2014; Lê Văn Cƣờng, Trường Sĩ quan Công binh tập trung nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, http://tapchiqptd.vn/vi/tong-ket-thuc-tien-va-kinh-nghiem/truong-si-quan-congbinh-tap-trung-nang-cao-chat-luong-giao-duc-va-dao-tao/8384.html, 07/12/2015; Nguyễn Thị Thu Lan, Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình, giáo trình và phương pháp đánh giá, kiểm tra trong đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lí luận chính trị và truyền thông, (số 9), 2017; Lê Văn Lợi, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lí luận chính trị và truyền thông, (số 8), tr. 3-8, 2017; Phan Mạnh Toàn, Nhân tố chủ quan trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/1833-nhanto-chu-quan-trong-phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-onuoc-ta-hien-nay.html, 23/1/2017 v.v… Các công trình trên đề cập tới nhiều vấn đề về nhân tố chủ quan và phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con ngƣời trong và ngoài quân đội. Tuy nhiên, do mục đích và phạm vi nghiên cứu cho nên chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh. Vì vậy, tác giả chọn nội dung “Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trường Sĩ quan Công binh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Làm rõ lý luận và thực tiễn phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát huy hơn nữa vai trò đó trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ + Trình bày lý luận về thực chất, vai trò và những yếu tố tác động đến việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo. + Đánh giá thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh. + Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy hơn nữa vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, quan điểm của Đảng, Nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ƣơng, của binh chủng về đổi mới giáo dục, đào tạo, về xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội nói chung và đội ngũ giáo viên nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp khoa học chuyên ngành và liên ngành trong đó coi trọng phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phƣơng pháp tham vấn chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn nhân tố chủ quan, phát huy vai trò nhân tố chủ quan cả về lý luận và thực tiễn, đồng thời, 4 đề xuất giải pháp phát huy vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm cơ sở tham khảo trong nghiên cứu và vận dụng vào nâng cao công tác giáo dục, đào tạo ở Nhà trƣờng trong giai đoạn hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn bao gồm: Mở đầu, 3 chƣơng (8 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CÔNG BINH 1.1. Thực chất vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trường Sĩ quan Công binh 1.1.1. Nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trường Sĩ quan Công binh * Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nhân tố chủ quan Khi đặt con ngƣời trong trạng thái đang tích cực hoạt động trƣớc một đối tƣợng cần nhận thức và cải tạo nó theo một mục đích nhất định, lúc đó chúng ta có khái niệm chủ thể và đối lập với nó là khách thể. Còn khi xem xét con ngƣời - chủ thể tích cực trong một hoạt động xác định, với đầy đủ các mặt, các yếu tố, mối quan hệ, động cơ, phẩm chất và năng lực…, với tất cả các nhân tố tạo thành tính tích cực, sáng tạo của chủ thể thì chúng ta có khái niệm nhân tố chủ quan và đối lập với nó là điều kiện khách quan. Có thể hiểu nhân tố chủ quan không phải là con ngƣời, không phải là chủ thể, mà là tổng hợp các yếu tố cần thiết gây ra, hình thành nên tính tích cực, sáng tạo của chủ thể hoạt động. Nhƣng, không phải là các yếu tố bất kỳ, mà là các mặt, các yếu tố, các phẩm chất năng lực bên trong thuộc về chủ thể mới đƣợc gọi là nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan theo đó là một mặt của hoạt động, là cái đƣợc hình thành và biểu hiện trong hoạt động; đồng thời là cái có quan hệ biện chứng với điều kiện khách quan. Thuộc về nhân tố chủ quan bao gồm tri thức, tình cảm, động cơ, ý chí, phẩm chất và năng lực của chủ thể đƣợc sử dụng trong thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Thuộc về khách quan bao gồm toàn bộ lực lƣợng, phƣơng tiện; những điều kiện, hoàn cảnh khách quan; những đối tƣợng mà con ngƣời hƣớng tới nhận thức và cải tạo. Từ góc độ tiếp cận đó có thể quan niệm: Nhân tố chủ quan là tất cả những phẩm chất, năng lực có trong chủ thể được huy động vào quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt được mục đích, yêu cầu do chủ thể đặt ra trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. 6 Những phẩm chất, năng lực của chủ quan bao gồm: tri thức; tình cảm, ý chí; năng lực hoạt động của chủ thể. Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con ngƣời về thế giới, là sự tái hiện những thuộc tính, những đặc trƣng, những quy luật của thế giới và diễn đạt chúng dƣới hình thức ngôn ngữ, hoặc các hệ thống ký hiệu. Nói tới tri thức là nói tới sự hiểu biết của con ngƣời về sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan. Tri thức là nhân tố cơ bản của ý thức, thúc đẩy tính tích cực, tự giác bên trong của ý thức con ngƣời, mọi nhân tố khác của ý thức đều đƣợc hình thành trên cơ sở tri thức. Tri thức vừa là công cụ, vừa là điều kiện thể hiện vai trò tích cực của con ngƣời trong nhận thức và cải tạo hiện thực. Tình cảm, ý chí là một hình thái đặc biệt trong sự phản ánh thế giới khách quan của con ngƣời, là hệ thống những rung động, những nhu cầu, mục đích thúc đẩy con ngƣời hoạt động. Tình cảm, ý chí là sự thôi thúc, định hƣớng bên trong để con ngƣời chuyển hoá hiểu biết thành quyết tâm hành động. Hoạt động thực tiễn sẽ không thể đạt kết quả cao nếu nhƣ con ngƣời không có tình cảm, ý chí. Năng lực tổ chức hoạt động là quá trình con ngƣời bằng nhận thức của mình, chỉ đạo hoạt động cải tạo, biến đổi thế giới theo nhu cầu của mình. Ý thức con ngƣời sẽ chỉ là “ý thức thuần tuý” nếu không gây đƣợc tác động gì với thế giới bên ngoài. C.Mác viết: “Tƣ tƣởng cơ bản không thực hiện đƣợc cái gì hết, muốn thực hiện đƣợc thì cần có con ngƣời sử dụng lực lƣợng thực tiễn” [33, tr. 181]. Điều kiện khách quan quy định nội dung, biện pháp thực hiện nhiệm vụ của con ngƣời. Phẩm chất, năng lực cũng nhƣ sức mạnh của con ngƣời đều là sản phẩm sự vận động khách quan của lịch sử, là quá trình con ngƣời phát hiện và hành động theo những quy luật tất yếu khách quan. Những quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về nhân tố chủ quan trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời có thể khái quát trên những nội dung cơ bản sau: Một là, về mặt bản chất nhân tố chủ quan chính là sức mạnh của chủ thể huy động đƣợc vào quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo hiện thực khách quan thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Phạm trù nhân tố chủ quan không trùng 7 khít với phạm trù ý thức. Nhân tố chủ quan bao gồm cả yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần, cả sức mạnh đã có và sức mạnh ở dạng tiềm năng. Hai là, nhân tố chủ quan có quan hệ chặt chẽ với điều kiện khách quan. Trong mối quan hệ này, khách quan là tiền đề, là cơ sở, là điểm xuất phát và là cái suy đến cùng quyết định nhân tố chủ quan, song nhân tố chủ quan không phải là cái thụ động mà có vai trò rất to lớn. Vai trò đó đƣợc thể hiện ở chỗ: Chủ quan luôn có xu hƣớng vƣơn tới để nhận thức đầy đủ khách quan; chủ quan luôn tìm cách chinh phục khách quan và trong những giới hạn cho phép có thể chuyển hoá đƣợc những yếu tố vốn là của khách quan thành lực lƣợng của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhận thức và cải tạo khách thể. Ba là, nhân tố chủ quan chính là những cái bên trong thuộc về con ngƣời trong nhận thức và cải tạo hiện thực. Mà con ngƣời vừa là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhân loại. Cho nên, nhân tố chủ quan luôn vận động, biến đổi với xu hƣớng ngày càng mở rộng và phát triển. Đồng thời, nhân tố chủ quan phải là nhân tố chủ quan của chủ thể xác định trong hoạt động cụ thể của chủ thể đó, không có nhân tố chủ quan chung chung, trừu tƣợng, tách rời lịch sử. Nhƣ vậy, chỉ có thể xác định đƣợc nhân tố chủ quan khi đã xác định đƣợc chủ thể và hoạt động cụ thể của chủ thể. Những quan điểm cơ bản trên đây chính là cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận quan trọng giúp tác giả tiếp cận một cách đúng đắn nhân tố chủ quan của các chủ thể cụ thể trong đời sống hiện thực. Với phạm vi nghiên cứu của luận văn, chủ thể đƣợc đề cập ở đây là: Đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh trong hoạt động giáo dục, đào tạo của họ. * Nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trường Sĩ quan Công binh - Trường Sĩ quan Công binh với hoạt động giáo dục, đào tạo. Mọi hoạt động của con ngƣời chỉ là sự phản ánh và thực hiện những nhu cầu của đời sống xã hội đặt ra. Từ nhận thức đƣợc về thực tiễn mà con ngƣời đƣa ra lý luận, hệ thống kinh nghiệm để chỉ đạo, cải tạo, biến đổi thế giới theo nhu cầu của 8 mình. Ý thức của con ngƣời chỉ là ý thức thuần túy nếu không gây đƣợc những tác động làm biến đổi thực tiễn. Từ góc độ tiếp cận đó giáo dục, đào tạo là một mặt của đời sống xã hội, là sự phản ánh xã hội thông qua nhận thức của con ngƣời, là một trong những yếu tố cơ bản định hƣớng và thúc đẩy xã hội phát triển, là cầu nối của sự tác động biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Khi xã hội càng phát triển thì giáo dục, đào tạo càng giữ vai trò đặc biệt quan trọng với sự tồn tại và phát triển xã hội đó. “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nƣớc, xây dựng nền văn hóa và con ngƣời Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu” [10, tr. 77]. Giáo dục là “Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tƣợng nào đó làm cho đối tƣợng ấy dần dần có đƣợc những phẩm chất và năng lực nhƣ yêu cầu đề ra” [48, tr. 492]. Và đào tạo là “Làm cho trở thành ngƣời có năng lực, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất định” [48, tr. 369]. Giáo dục, đào tạo tuy không đồng nhất nhƣng có quan hệ biện chứng không tách rời nhau, giáo dục theo nghĩa rộng đã bao hàm cả đào tạo (hay huấn luyện, dạy học) giáo dục có nội dung, phƣơng pháp toàn diện hơn. Trƣờng Sĩ quan Công binh luôn có ba lực lƣợng cơ bản: Đội ngũ những ngƣời làm công tác lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và phục vụ; đội ngũ giảng viên và đội ngũ học viên. Trong tổ chức và hoạt động của nhà trƣờng vừa tuân thủ theo những qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (trƣờng đại học), vừa phải thực hiện đúng các qui định của Bộ Quốc phòng (đơn vị quân đội). Thực tế cho thấy, hoạt động quân sự và hoạt động sƣ phạm là hai lĩnh vực có những yêu cầu chung, nhƣng lại có những đòi hỏi riêng. Khi phối hợp hai lĩnh vực hoạt động này sẽ tạo ra một loại hình hoạt động mới là hoạt động sƣ phạm quân sự, làm nảy sinh những đặc tính mới, những phẩm chất mới, chứa đựng cả bản lĩnh của ngƣời chỉ huy, lãnh đạo và cả đạo đức, phong cách của nhà sƣ phạm. Nét đặc thù trong nhân cách của nhà giáo quân đội là sự giao 9 thoa giữa nhân cách của nhà sƣ phạm với nhân cách của ngƣời chỉ huy, lãnh đạo, là sản phẩm của một loại hình hoạt động đặc biệt - hoạt động sƣ phạm quân sự. Hoạt động giáo dục, đào tạo nói chung và hoạt động giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh nói riêng là nhiệm vụ trung tâm, là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống của các lực lƣợng tham gia vào quá trình giáo dục, đào tạo trong Nhà trƣờng đối với ngƣời học. Quá trình đó nhằm truyền thụ tri thức, kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, chuyên môn nghiệp vụ, bồi dƣỡng phát triển năng lực, phẩm chất đạo đức cho học viên, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trƣờng. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, đẩy mạnh thực hiện “Chiến lƣợc phát triển giáo dục, đào tạo trong quân đội giai đoạn 2011 - 2020 và những năm tiếp theo”, Nghị quyết của Đảng ủy Binh chủng về công tác giáo dục, đào tạo trong tình hình mới nhấn mạnh “Đổi mới toàn diện công tác giáo dục, đào tạo và xây dựng Nhà trƣờng theo hƣớng “chuẩn hóa, hiện đại hóa”, tạo sự chuyển biến cơ bản, vững chắc về chất lƣợng, hiệu quả về giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học; đào tạo đội ngũ cán bộ công binh có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; tập trung đào tạo theo chức vụ có trình độ học vấn tƣơng ứng, trong đó, đào tạo cán bộ cấp phân đội có trình độ đại học là cơ bản, đào tạo đội ngũ nhân viên chuyên môn kỹ thuật theo các nhóm ngành có mặt bằng kiến thức chung của Nhà nƣớc, có tay nghề đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân đội và Binh chủng; nâng cao chất lƣợng và hiệu quả đào tạo cho các đội tƣợng khác” [11, tr. 3]. Đối tƣợng giáo dục, đào tạo ở Nhà trƣờng hiện nay bao gồm học viên sĩ quan phân đội đại học; học viên sĩ quan chuyển loại chính trị; học viên chỉ huy tham mƣu cấp lữ đoàn công binh; học viên hoàn thiện đại học; học viên sĩ quan dự bị chuyên ngành công binh; giáo viên quốc phòng, an ninh; học viên cao đẳng Công an; học viên quân đội nhân dân cách mạng Lào và học viên quân đội Hoàng gia Campuchia. Chủ thể giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh bao gồm các tổ chức, lực lƣợng đóng vai trò lãnh đạo, chỉ đạo cũng nhƣ trực tiếp tham gia quá trình giáo 10 dục, đào tạo kể cả học viên. Đảng, Nhà nƣớc, Quân đội là chủ thể ở tầm vĩ mô, mang tính chiến lƣợc. Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trƣờng, cùng các lực lƣợng đào tạo trực tiếp là chủ thể tạo nên sự phát triển giáo dục, đào tạo. Học viên vừa là khách thể chịu tác động vừa là chủ thể trực tiếp thực hiện. Quá trình giáo dục, đào tạo thực chất là quá trình tác động hợp quy luật của các chủ thể giáo dục, đào tạo nhằm trang bị hệ thống phẩm chất và năng lực cần thiết, đồng thời giúp học viên có định hƣớng phát triển đúng đắn. Nhƣ vậy có thể thấy, chất lƣợng giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh là sự tác động biện chứng giữa chủ thể giáo dục và khách thể giáo dục, trong đó đội ngũ giáo viên là nhân tố có ý nghĩa quyết định nhất. Nghị quyết Trung ƣơng 2 (khoá VIII) đã khẳng định: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lƣợng giáo dục và đƣợc xã hội tôn vinh” [8, tr. 38] và “Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu” [10, tr. 114]. - Đặc điểm của đội ngũ giáo viên ở Trường Sĩ quan Công binh với tính cách là chủ thể của hoạt động giáo dục, đào tạo. Đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay đƣợc bố trí, phân công thực hiện công tác giảng dạy ở 8 Khoa, cụ thể: Khoa Chiến thuật; Khoa Khoa học xã hội và nhân văn; Khoa Công trình; Khoa Cầu đƣờng, vƣợt sông; Khoa Xe máy; Khoa Kỹ thuật cơ sở; Khoa Cơ bản và Khoa Quân sự chung. Qua từng giai đoạn khác nhau, gắn với điều kiện, hoàn cảnh, nhiệm vụ của công tác giáo dục, đào tạo số lƣợng giáo viên có sự biến động cho phù hợp thực tiễn. Cũng nhƣ đội ngũ giáo viên ở nhà trƣờng quân đội khác, đội ngũ giáo viên của Nhà trƣờng nổi lên một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng đƣợc đào tạo cơ bản, có trình độ học vấn và kinh nghiệm nghiên cứu, giảng dạy. Đội ngũ giáo viên của Nhà trƣờng là những ngƣời đƣợc đào tạo cơ bản, chính qui, có hệ thống kiến thức cơ bản, toàn diện, chuyên sâu về các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn, quân sự chung và chuyên ngành. Về cơ bản, đại bộ phận giáo viên có kiến thức tƣơng đối toàn diện, 11 đặc biệt là trình độ chuyên môn trên lĩnh vực mà họ đảm nhiệm giảng dạy. Hiện nay, Nhà trƣờng có 9 tiến sĩ, 79 thạc sĩ và 61 cử nhân các chuyên ngành khác nhau, do đƣợc đào tạo ở các nhà trƣờng cả trong và ngoài quân đội, ở nƣớc ngoài nên trình độ học vấn, văn bằng, chứng chỉ đƣợc cấp khác nhau. Bên cạnh đó, độ tuổi của đội ngũ giáo viên cũng có sự chênh lệch nhất định, điều này ít nhiều ảnh hƣởng đến trình độ, phƣơng pháp nghiên cứu và giảng dạy của họ trong quá trình nghiên cứu khoa học và công tác. Thứ hai, đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh đa dạng về thành phần, phong phú về cấp bậc và chức vụ. Sự đa dạng về thành phần, phong phú về cấp bậc, chức vụ của đội ngũ giáo viên của Nhà trƣờng bắt nguồn từ sự đa dạng, phong phú về nguồn gốc, thành phần xuất thân, tuổi đời công tác, con đƣờng hình thành phát triển và yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức. Đội ngũ này sinh ra và lớn lên từ nhiều vùng quê trên khắp các vùng, miền của Tổ quốc, là con em của nhiều tầng lớp gắn với sự đa dạng về môi trƣờng, điều kiện lịch sử, truyền thống quê hƣơng, gia đình, dòng họ. Có những đồng chí sau khi tốt nghiệp ở nhà trƣờng đƣợc giữ lại và gửi đi đào tạo ở các nhà trƣờng trong và ngoài quân đội, cũng có những đồng chí đƣợc đào tạo ở các trƣờng đại học bên ngoài và nhiều đồng chí sau khi tốt nghiệp ở các học viện, nhà trƣờng quân đội đƣợc điều về làm làm giáo viên giảng dạy trên các chuyên ngành đƣợc đào tạo. Sự đa dạng còn thể hiện ở các nhóm ngành chuyên môn khác nhau với cấp bậc, chức vụ, tuổi quân, tuổi đời và tuổi nghề cao thấp khác nhau; cả quân nhân chuyên nghiệp hƣởng lƣơng sĩ quan, cả sĩ quan, từ cấp uý đến cấp tá. Thứ ba, nhiều giáo viên quá trình giảng dạy phải đảm nhiệm nhiều môn học, với khối lƣợng tiết giảng lớn. Về cơ bản, đội ngũ giáo viên thƣờng đƣợc đào tạo theo một chuyên ngành, khi phân công giảng dạy cũng dựa trên cơ sở cận chuyên ngành đào tạo. Nhƣng do yêu cầu về mặt số lƣợng chƣa đáp ứng đƣợc, nên có những giáo viên phải đảm nhiệm 2 đến 3 môn học, lại không đƣợc đào tạo đúng chuyên môn. Đồng thời, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đòi hỏi cƣờng độ lao động cao, căng thẳng, khối lƣợng giảng dạy lớn, nhiều đối tƣợng, nhiều lớp cho nên thời gian nghiên cứu hạn chế, dẫn đến chất lƣợng bài giảng thấp, chƣa thể hiện đƣợc chiều sâu của chuyên ngành, chƣa 12 đáp ứng đƣợc yêu cầu đặt ra, nhất là những môn học không gần chuyên ngành đào tạo. Nhiều ngƣời trƣớc khi trở thành giáo viên là cán bộ quản lý, chỉ huy, khi là giáo viên đƣợc bố trí theo chuyên ngành ở độ tuổi đã cao. Mặt khác, việc đào tạo, bồi dƣỡng những kiến thức chuyên ngành, liên ngành không đƣợc tiến hành thƣờng xuyên dẫn đến thiếu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn, kinh nghiệm, phƣơng pháp dạy học làm mất đi tính tích cực chủ động, sáng tạo trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học dẫn đến hiệu quả, chất lƣợng huấn luyện không cao. Thứ tư, trình độ ngoại ngữ, tin học còn hạn chế so với yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy. Thực tế cho thấy, đội ngũ giáo viên của Nhà trƣờng có nhiều chứng chỉ tin học, ngoại ngữ nhƣng quá trình công tác ít khi chú trọng để sử dụng. Việc bồi dƣỡng tin học, ngoại ngữ cho đội ngũ này ở Nhà trƣờng cũng đã đƣợc quan tâm. Song việc bồi dƣỡng chƣa thƣờng xuyên, chƣa trở thành nhu cầu cấp thiết của từng ngƣời nên hiệu quả, chất lƣợng không cao. Vì vậy, khả năng tiếp cận, khai thác, sử dụng các trang bị, phƣơng tiện kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy của đội ngũ giáo viên còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc tiếp cận nghiên cứu tham khảo tài liệu nƣớc ngoài và truy cập mạng internet phục vụ cho nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học họ còn thiếu nhiều thông tin mới, kiến thức mới. Nhìn chung, đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay đã qua đào tạo cơ bản, có kiến thức tƣơng đối chuyên sâu về chuyên ngành, có kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy quản lý bộ đội, cũng nhƣ kinh nghiệm trong cuộc sống, hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, trƣớc những biến động phức tạp của tình hình, đội ngũ giáo viên của Nhà trƣờng đã cho thấy sự trung kiên, trở thành chỗ dựa cho cán bộ, học viên, chiến sĩ công nhân viên trong toàn trƣờng. Bên cạnh đó, do có sự đa dạng về thành phần, về tuổi quân, tuổi đời nên tính đồng đều trong việc tiếp thu, nắm bắt những tri thức mới, nhất là tri thức khoa học công nghệ hiện đại, ngoại ngữ, tin học… không cao, điều này phần nào ảnh hƣởng đến chất lƣợng giáo dục, đào tạo của Nhà trƣờng trong giai đoạn hiện nay. Từ sự phân tích về hoạt động giáo dục, đào tạo và đặc điểm của đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh trên đây có thể quan niệm: Nhân tố chủ quan của đội 13 ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trường Sĩ quan Công binh là sự thống nhất hữu cơ các yếu tố tri thức, tình cảm, ý chí, động cơ, thái độ, năng lực sư phạm quân sự của người giáo viên, được huy động vào quá trình giáo dục, đào tạo nhằm trang bị tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, năng lực hoạt động thực tiễn và xây dựng phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học viên đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường. Nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh nói lên vai trò chủ thể của họ trong giáo dục, đào tạo ở Nhà trƣờng. Các yếu tố cấu thành nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh là một chỉnh thể thống nhất, tác động biện chứng lẫn nhau, tuy nhiên, vị trí, vai trò của các yếu tố không ngang bằng nhau mà mỗi yếu tố có vị trí, vai trò khác nhau. Tri thức, là yếu tố cơ bản của nhân tố chủ quan, là sự hiểu biết của con ngƣời về tự nhiên, xã hội và chính bản thân con ngƣời; là lƣợng thông tin mà con ngƣời lĩnh hội đƣợc trong quá trình học tập và tham gia các hoạt động xã hội. Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức, đồng thời là cơ sở, điều kiện để con ngƣời sáng tạo tri thức mới. Thông thƣờng tri thức đƣợc phân loại theo cấp độ khái quát hoặc theo lĩnh vực khái quát. Xét theo cấp độ khái quát có tri thức cảm tính, tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Xét về phạm vi khái quát có tri thức tự nhiên, tri thức xã hội và tri thức về bản thân con ngƣời. Căn cứ vào hoạt động giáo dục, đào tạo của đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh có thể phân thành các dạng tri thức căn bản nhƣ: tri thức về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, công nghệ, tri thức về khoa học xã hội và nhân văn nói chung, trong lĩnh vực quân sự nói riêng, tri thức về khoa học quân sự, tri thức về chuyên ngành công binh. Tri thức về khoa học tự nhiên và xã hội, là những hiểu biết của mỗi ngƣời về tự nhiên và xã hội, kể cả về con ngƣời, đây là những kiến thức mà ngƣời giáo viên thu nhận đƣợc từ quá trình học tập, nghiên cứu trong hệ thống giáo dục quốc gia và quân đội, là cơ sở, để đội ngũ giáo viên tiếp thu, lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học và kinh nghiệm lịch sử đáp ứng yêu cầu giảng dạy ở Nhà trƣờng. Tri thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự, là những hiểu biết của con ngƣời về tƣ tƣởng, quan điểm, đƣờng lối, đạo đức, văn hoá nói chung và trong môi 14 trƣờng quân đội nói riêng là yếu tố cơ bản nhất, là sự phản ánh trình độ nhận thức, bản lĩnh chính trị, xã hội của ngƣời giáo viên trong quá trình công tác. Tri thức khoa học quân sự, là những quan điểm, đƣờng lối, nghệ thuật, nguyên tắc tổ chức hoạt động quân sự của Đảng và Nhà nƣớc, là cơ sở để ngƣời giáo viên truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, xây dựng phẩm chất nhân cách cho ngƣời học viên quân sự. Tri thức chuyên ngành là những kiến thức, hiểu biết của ngƣời giáo viên về chuyên ngành mình đang giảng dạy. Đây là yếu tố quan trọng, là cơ sở trực tiếp quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ của ngƣời giáo viên, quyết định đến chất lƣợng, hiệu quả giáo dục, đào tạo của Nhà trƣờng. Tri thức thực tiễn là những hiểu biết, kinh nghiệm thực tiễn chiến đấu, thực tiễn xây dựng, giáo dục, rèn luyện, huấn luyện bộ đội cùng với những kinh nghiệm về chuyên môn sƣ phạm quân sự, là cơ sở quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giảng dạy của đội ngũ giáo viên. Sự tác động lẫn nhau của hệ thống tri thức trên đây tạo thành khả năng, trình độ nhận thức và năng lực thực tiễn của đội ngũ giáo viên Trƣờng Sĩ quan Công binh. Tuy nhiên, trong hoạt động giáo dục, đào tạo ở Nhà trƣờng thì tri thức về khoa học xã hội nhân văn quân sự và tri thức về chuyên ngành có ý nghĩa quyết định nhất trong nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên. Bởi vì, nó định hƣớng chính trị, động cơ, thái độ, trách nhiệm và qui định trình độ, khả năng, phƣơng pháp truyền thụ của ngƣời giáo viên. Tình cảm, là một hệ thống rung động nội tâm, đƣợc nảy sinh trên cơ sở thoả mãn các nhu cầu của con ngƣời. Đối với đội ngũ giáo viên ở Trƣờng Sĩ quan Công binh, tình cảm đƣợc biểu hiện ở niềm tin yêu đối với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, với quê hƣơng, đất nƣớc, với nhân dân, với quân đội, với Binh chủng và trực tiếp là với nhiệm vụ đƣợc phân công trong giáo dục, đào tạo của Nhà trƣờng. Tình cảm của ngƣời giáo viên là động lực thúc đẩy quá trình nhận thức về đƣờng lối, chức năng, nhiệm vụ của quân đội và của bản thân mình, từ đó điều chỉnh, thái độ của họ trong quá trình công tác. Theo V.I.Lênin: “không có sự “xúc cảm của con ngƣời” thì xƣa 15 nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý” [26, tr. 131]. Khi ngƣời giáo viên có tình cảm nghề nghiệp sâu sắc sẽ thôi thúc họ đi tìm chân lý, tìm con đƣờng hiệu quả nhất trong thực hiện hành vi nghề nghiệp của bản thân. Trong nhân tố chủ quan, bên cạnh tình cảm phải kể tới ý chí, đây là mặt năng động của ý thức xã hội, là sức mạnh tạo ra năng lực hoạt động có mục đích của con ngƣời. Điều này giúp cho ngƣời giáo viên tích cực, thƣờng xuyên phấn đấu vƣơn lên, khắc phục mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Nhiệm vụ càng khó khăn, gian khổ, nguy hiểm đòi hỏi sự nỗ lực, sức chịu đựng và sức mạnh con ngƣời càng cần đến vai trò của ý chí. Ý chí của đội ngũ giáo viên Trƣờng Sĩ quan Công binh là kết quả của quá trình nhận thức khoa học với niềm tin cộng sản của ngƣời quân nhân cách mạng. Chỉ có niềm tin trên cơ sở khoa học, với tình cảm cách mạng trong sáng, với ý chí quyết tâm cao ngƣời giáo viên mới có động lực vƣơn lên, vƣợt qua mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của Nhà trƣờng. Nói về vai trò, sức mạnh của ý chí, Hồ Chí Minh viết: “không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền…” [36, tr. 95]. Động cơ, thái độ, trách nhiệm cũng là vấn đề cơ bản trong nhân tố chủ quan của con ngƣời. Động cơ, thái độ của đội ngũ giáo viên Trƣờng Sĩ quan Công binh là hệ thống các nhu cầu, mục đích giảng dạy, là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy hoạt động giáo dục, đào tạo, là cơ sở tạo nên tính tích cực, chủ động của họ trong việc chuẩn bị nội dung, phƣơng pháp truyền thụ, rèn luyện kỹ năng, xây dựng phẩm chất, nhân cách cho ngƣời học. Trong giáo dục, đào tạo ngƣời giáo viên có động cơ, thái độ đúng đắn, mục đích trong sáng, rõ ràng, sẽ là điều kiện tạo nên niềm hứng thú, say mê, nhiệt tình, yêu thích nghề nghiệp, góp phần nâng cao trách nhiệm của họ trong công tác từ đó góp phần vào nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo. Ngƣợc lại, nếu động cơ, thái độ, trách nhiệm giảng dạy không đúng đắn, ngƣời giáo viên sẽ thiếu gắn bó với nghề nghiệp không thấy đƣợc vinh dự “cao quý” với công việc giảng dạy của bản thân. Tình cảm, ý chí, động cơ, thái độ, trách nhiệm trong giáo dục, đào tạo của đội ngũ giáo viên không những đƣợc hình thành trên cơ sở nhận thức của họ, mà còn phụ 16 thuộc vào những yếu tố khác của quá trình dạy học nhƣ mục tiêu, chƣơng trình, nội dung, đối tƣợng đào tạo, sự tác động của cơ chế chính sách, của môi trƣờng quản lý và các điều kiện vật chất bảo đảm cho quá trình giáo dục, đào tạo ở nhà trƣờng. Năng lực thực tiễn sư phạm là biểu hiện khả năng của ngƣời giáo viên trong hoạt động giảng dạy phù hợp với yêu cầu của hoạt động truyền thụ và lĩnh hội tri thức cho ngƣời học theo các mức độ khác nhau. Năng lực thực tiễn sƣ phạm, là biểu hiện trực tiếp vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong quá trình giáo dục, đào tạo. Năng lực thực tiễn sƣ phạm của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh, đƣợc thể hiện ở khả năng nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo trong các khâu, bƣớc của quá trình sƣ phạm; trong nghệ thuật tổ chức giáo dục, đào tạo; trong kỹ năng, kỹ xảo của tay nghề sƣ phạm và phƣơng pháp sƣ phạm… Điều đó đƣợc thể hiện ở tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo từ khâu chuẩn bị nội dung cho bài giảng, lựa chọn phƣơng pháp dẫn dắt, truyền thụ kiến thức, lựa chọn phƣơng tiện giảng dạy cho tới việc tổ chức thực hành bài giảng nhằm lôi cuốn, kích thích sự sáng tạo, say mê của ngƣời học vào bài giảng, buổi giảng. Năng lực thực tiễn sƣ phạm của ngƣời giáo viên còn thể hiện ở khả năng xử lý mềm dẻo, linh hoạt các tình huống sƣ phạm trong quá trình giảng dạy; khả năng kết hợp giữa truyền thụ tri thức, kinh nghiệm với tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đƣờng lối của Đảng, luật pháp của Nhà nƣớc, nghệ thuật quân sự, tri thức mới về khoa học kỹ thuật và định hƣớng phát triển đạo đức, nhân cách cho ngƣời học để họ có đƣợc những kiến thức cơ bản, toàn diện và phƣơng pháp tiếp cận vấn đề phục vụ cho quá trình công tác trên từng cƣơng vị ở đơn vị cơ sở sau này. Nhƣ vậy, nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh là sự thống nhất biện chứng giữa tri thức, tình cảm, ý chí, động cơ… và năng lực thực tiễn sƣ phạm tạo nên những phẩm chất, năng lực bên trong của họ. Tuy nhiên, nó không là yếu tố ẩn kín bên trong chủ thể, mà nó luôn đƣợc biểu hiện ra bên ngoài thông qua hệ thống phẩm chất, hành vi, thao tác sƣ phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của họ. 17 1.1.2. Vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trường Sĩ quan Công binh Trải qua hơn 60 năm xây dựng và trƣởng thành, Trƣờng Sĩ quan Công binh đã thực sự trở thành một trung tâm đào tạo cán bộ, sĩ quan cho binh chủng, cho quân đội. Vị thế của Nhà trƣờng ngày càng đƣợc nâng cao. Sở dĩ có đƣợc những thành tựu đó là do công lao đóng góp của các thế hệ cán bộ, giảng viên, học viên, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng, chiến sĩ trong toàn Nhà trƣờng, trong đó có vai trò rất quan trọng của các thế hệ đội ngũ nhà giáo. Nói đến vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên là nói đến mặt tích cực, chủ động, sáng tạo của ngƣời giáo viên trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn sƣ phạm của họ. Vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì hoặc của ai trong sự vận động phát triển của nhóm của tập thể nói chung. Thông thƣờng, ngƣời ta hiểu vai trò là chức năng, vai trò là ý nghĩa tác dụng… Theo nghĩa đó có thể khái quát: Vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trường Sĩ quan Công binh là sự tích cực trong hoạt động giáo dục, đào tạo, là tác động vào đối tượng nghiên cứu của đội ngũ giáo viên vào học viên để nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo. Vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên trong giáo dục, đào tạo ở Trƣờng Sĩ quan Công binh đƣợc biểu hiện: Thứ nhất, nhân tố chủ quan là động lực bên trong thúc đẩy ngƣời giáo viên phấn đấu vƣơn lên khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Nhà trƣờng đang thực hiện nhiệm vụ do Đảng uỷ Binh chủng Công binh giao, trọng điểm là nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo với nhiều chuyên ngành, nhiều đối tƣợng. Mục tiêu, nhiệm vụ hết sức nặng nề, cho dù đội ngũ giáo viên của nhà trƣờng luôn đƣợc quan tâm bổ sung, nhƣng vẫn còn thiếu về số lƣợng, hạn chế về chất lƣợng. Mặt khác, công tác giáo dục, đào tạo đƣợc tiến hành trong mọi hoàn cảnh: vừa ở giảng đƣờng, vừa ở thao trƣờng bãi tập, vừa ban ngày và ban đêm; với mọi địa hình: rừng núi, đồng bằng, sông nƣớc trong điều kiện phức tạp; mô hình, học cụ, phƣơng tiện với nhiều loại, vừa hiện đại, vừa thủ công thô sơ, lạc hậu; cùng với đó, thu nhập, điều kiện 18 hoàn cảnh vợ, con nơi ăn ở của gia đình chƣa thật sự ổn định nhất là với giáo viên trẻ... Tất cả những điều đó vừa là sự đòi hỏi, vừa là minh chứng cho vai trò to lớn của nhân tố chủ quan đội ngũ giáo viên trong hoạt động giáo dục, đào tạo. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình đòi hỏi ngƣời giáo viên không ngừng học tập, rèn luyện phấn đấu vƣơn lên với ý chí quyết tâm cao, lòng say mê nghề nghiệp, sự nhiệt tình trách nhiệm với động cơ, thái độ đúng đắn. Điều đó cho thấy nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên là động lực bên trong thúc đẩy họ phấn đấu vƣơn lên nâng cao trình độ tri thức, hoàn thiện nội dung, phƣơng pháp nhằm khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao phó. Thứ hai, nhân tố chủ quan của đội ngũ giáo viên quyết định đến nâng cao chất lƣợng giảng dạy, trang bị tri thức khoa học cho ngƣời học ở Trƣờng Sĩ quan Công binh. Chất lƣợng giảng dạy là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, đó là sự tác động tổng hợp của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục, đào tạo. Trong đó, đội ngũ giáo viên có vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định nâng cao chất lƣợng giảng dạy của nhà trƣờng. Với tƣ cách là nhà giáo dục, lại là ngƣời đi trƣớc đƣợc đào tạo cơ bản, chuyên sâu, ngoài trình độ tri thức, họ còn có nhiều kinh nghiệm và vốn sống thực tiễn quân sự. Họ có đủ điều kiện để truyền thụ, trang bị những tri thức, kinh nghiệm cho ngƣời học theo chƣơng trình, nội dung đào tạo, đồng thời, định hƣớng cho ngƣời học nhận thức đƣợc mục đích học tập, rèn luyện từ đó xây dựng lý tƣởng, tinh thần vƣơn lên đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề ra. Chất lƣợng giảng dạy là tổng hợp của nhiều yếu tố tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó yếu tố hàng đầu là chất lƣợng nội dung bài giảng, phƣơng pháp giảng dạy, sử dụng phƣơng tiện, kiểm tra đánh giá kết quả. Chất lƣợng nội dung bài giảng là sự phản ánh hàm lƣợng khoa học, nông sâu của ngƣời thầy cả về tri thức lý luận và tri thức thực tiễn. Tuy nhiên, độ sâu về tri thức chƣa đảm bảo cho nội dung bài giảng có chất lƣợng cao, mà còn đòi hỏi sự phù hợp giữa hàm lƣợng tri thức truyền thụ và khả năng nhận thức của ngƣời học. Đào tạo đại học quân sự ở Trƣờng Sĩ quan Công binh hiện nay với một hệ thống chƣơng trình, nội dung hết sức phong phú, là tổng hợp hệ thống tri thức khoa học tự nhiên, xã 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan