Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học...

Tài liệu Phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở hải phòng hiện nay

.PDF
166
511
70

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------------------------------- NGUYỄN THỊ THU LAN PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------------------------------- NGUYỄN THỊ THU LAN PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY Ngành: CNDVBC&CNDVLS Mã số : 9 22 90 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. DƢƠNG XUÂN NGỌC Hà Nội, năm 2018 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ÐẾN ÐỀ TÀI LUẬN ÁN................................................................................. 7 1.1. Nhóm công trình nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên các trường cao đẳng, đại học ........................ 7 1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra về vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hải Phòng ..................................................................................... 16 1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về giải pháp phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hải Phòng ........... 24 1.4. Đánh giá những giá trị của các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu ................................. 36 Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY .............................................................................. 41 2.1. Quan niệm về chủ thể và khách thể nhận thức ........................................ 41 2.1.1. Quan niệm về chủ thể nhận thức ........................................................... 41 2.1.2. Quan niệm khách thể nhận thức ............................................................ 46 2.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể nhận thức............. 47 2.2. Sinh viên - chủ thể nhận thức và vai trò của nó ....................................... 48 2.2.1. Sinh viên – chủ thể nhận thức ............................................................... 48 2.2.2. Vai trò chủ thể nhận thức của sinh viên trong học tập.......................... 57 2.3. Những nhân tố tác động đến vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên .................................................................................................... 73 2.3.1. Nhà trường ............................................................................................ 73 2.3.2. Gia đình ................................................................................................. 81 2.3.3.Bản thân.................................................................................................. 82 Chƣơng 3: VAI TRÕ CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở HẢI PHÕNG – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................... 86 3.1. Khái quát chung về giáo dục đại học ở Hải Phòng .................................. 86 3.1.1. Khái lược về Hải Phòng và các trường cao đẳng, đại học ở Hải Phòng .............................................................................................................. 86 3.1.2. Những nét đặc thù của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng chủ thể nhận thức trong học tập ...................................................................... 92 3.2. Thực trạng về vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên đại học, cao đẳng ở Hải Phòng........................................................................ 98 3.2.1. Thực trạng vai trò chủ thể nhận thức trong học tập tiếp thu tri thức........... 98 3.2.2. Thực trạng vai trò chủ thể nhận thức trong học tập vận dụng tri thức vào giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, trong đó có vấn đề học tập. .......... 102 3.2.3. Thực trạng vai trò chủ thể nhận thức trong học tập góp phần hình thành tri thức mới do kết quả vận dụng tri thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra và tham gia hoạt động tổng kết thực tiễn ........................ 108 3.3. Những vấn đề đặt ra về vai trò chủ thể nhận thức học tập của sinh viên ở Hải Phòng ........................................................................................... 110 Chƣơng 4: GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN CAO ÐẲNG, ÐẠI HỌC Ở HẢI PHÕNG HIỆN NAY ............................................................ 120 4.1. Đổi mới công tác giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh trên tất cả các phương diện, trong tiếp thu tri thức, trong vận dụng và sáng tạo tri thức mới. ............................................. 120 4.2. Đổi mới chương trình đào tạo, nội dung giáo trình, phương pháp giảng dạy - học tập và phương pháp kiểm tra, đánh giá tạo thuận lợi cho sinh viên phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập ......................... 122 4.3 Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tạo động lực phát huy vai trò chủ thể nhận thức của sinh viên trong học tập ..................................................... 130 4.4. Huy động nguồn lực tổng hợp, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên học tập, nghiên cứu, vận dụng và sáng tạo tri thức mới .............................................................................................. 133 4.5. Nêu cao ý thức tự lực, tự cường, chủ động dấn thân, năng động và sáng tạo của sinh viên trong học tập vì ngày mai tươi sáng ......................... 141 KẾT LUẬN .................................................................................................. 145 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .......................................... 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 149 DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Danh sách các trường cao đẳng, đại học ở Hải Phòng ................... 91 Bảng 3.2. Động cơ thi vào trường của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng ............................................................................................. 99 Bảng 3.3. Nhận thức về mức độ tự tu dưỡng, tự rèn luyện của sinh viên .... 101 Bảng 3.4. Nhận thức của sinh viên về hoạt động NCKH ............................. 104 Bảng 3.5. Thái độ của sinh viên đối với hoạt động NCKH .......................... 105 Bảng 3.6. Thái độ của sinh viên đối với nghề theo học ................................ 107 Bảng 3.7. Hình thức tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ ................................. 112 Bảng 4.1. Đánh giá ý thức, thái độ của sinh viên tham gia Xêmina các môn Lý luận Chính trị và Pháp luật ở trường Đại học Hải Phòng, Cao đẳng Cộng đồng (số phiếu 639) .................................................. 127 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay, chất lượng giáo dục đại học quyết định chất lượng phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Bởi lẽ, giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn vốn đặc biệt cho xã hội phát triển. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng chất lượng giáo dục đại học, Đại hội IX của Đảng (4- 2001) khẳng định: "Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học... theo hướng đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay" [25, tr. 203-204]. Đồng thời, giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học ghi rõ trong Luật giáo dục, năm 2005: “Phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng” [84, tr. 35]. Hải Phòng là thành phố cảng, công nghiệp, thương mại và dịch vụ du lịch lớn ở miền Bắc nước ta, một đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông đa dạng, gồm: đường thuỷ, đường bộ, đường sắt, hàng không nối liền các tỉnh trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Điều kiện tự nhiên đó tạo thuận lợi cho Hải Phòng phát triển đa dạng các trường cao đẳng, đại học, cung cấp nguồn lực con người đủ số lượng, đảm bảo chất lượng đáp ứng yêu cầu của thành phố và đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với cả nước, giáo dục đại học ở Hải Phòng đạt thành tựu to lớn về quy mô, chất lượng, hiệu quả. Đến năm 2009, Hải Phòng có 20 trường cao đẳng, đại học với gần 300.000 sinh viên. Hàng năm, giáo dục đại học Hải Phòng cung cấp cho thành phố và đất nước gần 70.000 cử 1 nhân, kỹ sư, đồng thời bồi dưỡng và nâng cao kiến thức cho hàng vạn cán bộ quản lý cấp cơ sở đáp ứng tốt nhu cầu của thực tiễn [10]. Tuy nhiên, giáo dục đại học Hải Phòng trong những năm qua còn nhiều hạn chế, đó là: quy mô đào tạo được mở rộng nhưng chất lượng đào tạo giảm sút do nhiều trường chú trọng dạy chữ, dạy nghề mà ít quan tâm dạy người; việc triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ của các trường đang trong giai đoạn đầu, gặp nhiều khó khăn, bất cập; nội dung, quy trình đào tạo lạc hậu, chỉ coi trọng cung cấp tri thức hàn lâm, coi nhẹ kỹ thuật thực hành. Phương pháp dạy học của giảng viên chủ yếu là thuyết trình, “thầy nói- trò nghe, thầy đọc- trò chép”; chưa chú trọng giáo dục kỹ năng sống, phát huy tính sáng tạo, tính tích cực tự học, năng lực thực hành, thực tế của sinh viên; sinh viên chủ yếu học thụ động, ỷ lại vào thầy. Trong thi cử còn tồn tại một phận sinh viên vi phạm quy chế: quay cóp, chạy điểm, còn hiện tượng sử dụng văn bằng giả... Quán triệt quan điểm Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1996) là “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo” [24, tr. 42]; quan điểm Đại hội XII của Đảng: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả 2 mọi nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.” [31, tr.77]. Đảng bộ thành phố Hải Phòng chủ trương “Đổi mới mạnh mẽ, phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…” [95, tr. 18]. Đối với giáo dục đại học, các trường cao đẳng, đại học Hải Phòng dần chuyển đổi hình thức đào tạo niên chế sang tín chỉ. Đào tạo theo hình thức tín chỉ khi thời lượng giảng dạy trên lớp rút ngắn, thời gian tự học của sinh viên tăng lên đòi hỏi người dạy phải có cách thức đào tạo phù hợp với cấu trúc chương trình và hình thức đào tạo mới, chuyển mạnh từ chủ yếu truyền thụ kiến thức một chiều sang phát huy năng lực và phẩm chất người học. Đặc biệt, đối với sinh viên phải có cách học, cách nghiên cứu khoa học theo hướng chủ động, tích cực, sáng tạo để nắm bắt tri thức của các môn học, vận dụng kiến thức vào cuộc sống, nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trước những đòi hỏi cấp thiết trong thực tiễn chất lượng giáo dục đại học Hải Phòng, lại được sinh ra và lớn lên ở Hải Phòng, hàng ngày trực tiếp giảng dạy, công tác trong ngành giáo dục đã thôi thúc tác giả chọn đề tài “Phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành triết học duy vật biện chứng. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá đúng thực trạng vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở thành phố Hải Phòng trên ba phương diện: tiếp thu tri thức, vận dụng tri thức và góp phần sáng tạo tri thức mới, luận án đề xuất một số giải pháp đồng bộ, hiệu quả, có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: 3 - Tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án. Chỉ rõ những kết quả chính đã thực hiện, những nội dung luận án tiếp tục nghiên cứu - Làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học với tư cách là chủ thể nhận thức trong tiếp thu tri thức, trong vận dụng tri thức và trong góp phần sáng tạo tri thức mới - Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở thành phố Hải Phòng và khái quát những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó - Đề xuất những giải nhằm phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở thành phố Hải Phòng trong những năm tới 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là: Vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở thành phố Hải Phòng với tư cách là chủ thể nhận thức trong tiếp thu tri thức, trong vận dụng tri thức và trong góp phần sáng tạo tri thức mới. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi nội dung: Do tính trừu tượng và phức tạp của đề tài luận án, bởi vậy, tác giả giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu: Vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở thành phố Hải Phòng, từ đó đề xuất giải pháp phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học trong tiếp thu tri thức, trong vận dụng tri thức và trong góp phần sáng tạo tri thức mới - Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng - Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu vấn đề nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng từ năm 2011 đến nay (Từ Đại hội Đảng XI đến nay) 4 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, giáo dục đại học, về vai trò chủ thể nhận thức của sinh viên trong học tập. Luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu có giá trị của các nhà khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp lôgíc - lịch sử. Phương pháp lôgíc - lịch sử giúp khai thác các dữ kiện, hoàn cảnh thông tin khoa học, tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Nhờ đó, có thể tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu, khái quát quy luật chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên, phát hiện những vấn đề đặt ra và các giải pháp giải quyết những vấn đề đó. Phương pháp lôgíc - lịch sử đặt ra yêu cầu nghiên cứu về vai trò chủ thể nhận thức của sinh viên theo lôgic: Chủ thể nhận thức trong tiếp thu tri thức, chủ thể nhận thức trong vận dụng tri thức và chủ thể nhận thức trong góp phần sáng tạo tri thức theo trình tự chương trình đào tạo từ năm thứ nhất đến năm cuối (lịch sử) - Phương pháp điều tra xã hội học được vận dụng trong xây dựng phiếu điều tra, thu thập tư liệu, số liệu phục vụ quá trình nghiên cứu. - Phương pháp phân tích và tổng hợp dùng để khái quát những tư liệu, tài liệu tham khảo để tạo cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu, rút ra những kết luận khoa học mới. - Phương pháp thống kê, so sánh trong xử lý những tư liệu, số liệu thu thập làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu. 5 5. Đóng góp mới của luận án - Làm rõ một số vấn đề lý luận về chủ thể nhận thức, vai trò chủ thể nhận thức, phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên: chủ thể nhận thức trong tiếp thu, vận dụng và góp phần sáng tạo tri thức mới. - Chỉ ra những nhân tố tác động đến việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng hiện nay. - Luận án phát hiện những vấn đề nẩy sinh về vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên Hải Phòng - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở thành phố Hải Phòng trong những năm tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chủ thể nhận thức, vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên: chủ thể nhận thức trong tiếp thu, vận dụng và góp phần sáng tạo tri thức mới ở Hải Phòng hiện nay. - Đề ra những giải pháp phát huy vai trò chủ thể nhận thức của sinh viên trong học tập, trên cơ sở đó góp phần thiết thực về cải tiến và đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở các trường cao đẳng, đại học ở nước ta hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể phục vụ cho học tập, đào tạo và nghiên cứu về vai trò của sinh viên với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập tiếp thu tri thức, vận dụng và sáng tạo tri thức mới. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 14 tiết. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Một số vấn đề lý luận về vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng Chương 3: Vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng - thực trạng và vấn đề đặt ra Chương 4: Giải pháp phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học ở Hải Phòng trong những năm tới 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ÐẾN ÐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Nhóm công trình nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên các trƣờng cao đẳng, đại học Trong hoạt động giáo dục, ở mọi thời đại, ở mức độ khác nhau, song vai trò chủ thể nhận thức của người học luôn được quan tâm. Ý tưởng dạy coi trọng người học, chú ý đến chủ thể nhận thức của người học có từ thời cổ đại, đã phát triển trở thành quan điểm trong giáo dục hiện đại ngày nay. Ở Phương Tây cổ đại, các nhà triết học nổi tiếng có những quan điểm tiến bộ về giáo dục như: Hêraclitus (Hy Lạp, 535- 475 trước Công nguyên), Socrate (Hy Lạp, 469- 399 trước Công nguyên), Platon (Hy Lạp, 427- 347 trước Công nguyên), Aristote (Hy Lạp, 384- 322 trước Công nguyên)… đều hướng đến nâng cao hiệu quả giáo dục thông qua phương pháp giảng dạy tích cực. Đặc biệt, Hêraclitus đánh giá rất cao vai trò của giáo dục là phải soi sáng để người học tự chọn, rồi tự bước đi, nghĩa là người học phải biết tự học. Ông khẳng định: “thực chất giáo dục là thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng cho người học nhận ra những con đường, tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy” [82, tr.112]. Cùng quan điểm với Hêraclitus, nhà triết học cổ đại Hy Lạp Socrate nhấn mạnh đến vai trò của nội lực ở người học với phương châm: hỡi con người, hãy tự biết mình. Theo quan điểm của Socrate, mục đích của giáo dục không phải là cách làm cho con người ra khỏi đám đông, càng không phải làm cho người ấy mất hút trong đám đông “mục đích của giáo dục là làm cho con người nhận ra chính mình giữa đám đông” [82, tr. 54]. Để giúp người học tự bộc lộ, ông đề ra phương pháp đỡ đẻ tinh thần, thường gọi là phương pháp Socrate. 7 Theo Platon, mọi người đều phải học và học đến nơi đến chốn. Để học hành đến nơi đến chốn thì con đường chủ yếu vẫn là tự học, tự học thường xuyên và tự học lâu dài. Aristote cũng có phương pháp giáo dục đặc biệt nhấn mạnh tính độc lập ở người học. Đó là, người dạy đặt câu hỏi để người học tự tìm ra kết luận, phát hiện “chân lý”. Ông đã phê phán con đường mà Platon đang đi. Để trả lời những người kết tội mình, ông nói: Platon là người thầy quan trọng, rất quan trọng đối với tôi. Song chân lý còn quan trọng hơn cả Platon. Quan điểm trong dạy học của Aristote là: phải có một tinh thần độc lập suy nghĩ, một ý thức tự tin, tự khẳng định và bộc lộ cao độ mới có thể tự mình tìm một lối đi riêng của mình, nếu thiếu ý thức tự học thì việc dạy sẽ không thể có kết quả [82]. Ở phương Đông, Khổng Tử (551- 479 TCN) dành một cuộc đời 50 năm dạy học, gắn bó với học trò và có nhiều quan niệm sâu sắc về giáo dục. Thừa nhận có mệnh trời (Thiên mệnh), thiên mệnh chi phối cuộc sống của người và vạn vật, song theo Khổng Tử, con người có giáo dục, tự giáo dục có thể cải thiện được mệnh trời. Trong giáo dục, Khổng Tử sử dụng hệ thống các phương pháp phong phú, linh hoạt, sinh động, trong đó ông dùng phương pháp gợi mở, kích thích suy nghĩ của người học, đối thoại giữa thầy và trò nhằm phát huy năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của người học. Ông không đặt ra câu hỏi cho học trò trước mà đòi hỏi học trò phải chủ động đặt câu hỏi trước: “nếu học trò không tự đặt câu hỏi trước, Khổng Tử sẽ không dạy”[82, tr.58]. Phương châm dạy học của Khổng Tử là: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui mà học” [82, tr.59]. Điều này rất phù hợp với phương pháp tạo động cơ trong học tập, gây hứng thú cho người học trong dạy học hiện đại. Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm, coi trọng chủ thể nhận thức người học của Commeski được các nhà giáo dục như: Jean Jacques Rousseau (1712- 1778) , Pestalozi (1746-1827), Disterver (1790-1886), 8 Usinski (1824-1890), J. Dewey (1859-1952)… kế thừa, phát triển thành tư tưởng lớn về giáo dục “giáo dục tự do”. Trong tư tưởng về giáo dục tự do có học thuyết “lấy đứa trẻ làm trung tâm” với ý tưởng “đừng cho trẻ em khoa học, mà phải để trẻ tự phát minh”[82, tr.19]. Các nhà giáo dục này đều hướng việc phát huy những tiềm năng trong cá nhân con người, nhấn mạnh phương pháp học tích cực: tự học, tìm tòi, khám phá, nỗ lực của bản thân để dành lấy tri thức. Bàn về chủ thể nhận thức trong học tập, tác giả I.F. Kharlamop viết cuốn: Phát huy tính tính cực học tập của học sinh như thế nào (1978), tập I, II, NXB Giáo dục, Hà Nội. Nội dung các tập cuốn sách đều khẳng định: “tự học có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tính tích cực nhận thức và hiệu quả cho hoạt động trí tuệ của học sinh” [55, tr. 32]. Để phát huy tính tích cực học tập của học sinh, tác giả cuốn sách cho rằng giáo viên phải vận dụng vốn hiểu biết, kinh nghiệm của từng học sinh và cả tập thể lớp để xây dựng bài học và thiết kế giáo án kiểu phân nhánh. Những dự kiến của giáo viên về hoạt động của người học và cách tổ chức các hoạt động đó. Tuỳ theo diễn biến các hoạt động của người học trên lớp để giáo viên có thể linh hoạt điều chỉnh giờ học phân hóa theo trình độ và năng lực của người học, tạo điều kiện để bộc lộ và phát triển tiềm năng của mỗi cá nhân trong lớp. Thông qua các tập của cuốn sách, I.F. Kharlamop khẳng định cách dạy tích cực, chủ động của giáo viên sẽ là động lực phát huy tính tích cực chủ động của học sinh góp phần nâng cao hiệu quả trong giáo dục. Năm 1994, Raja Roy Singh - nhà giáo dục người Ấn Độ, trong cuốn sách Giáo dục thế kỷ XX: Những triển vọng của châu Á Thái Bình Dương nghiên cứu vai trò tự học của người học và đề cao vai trò chuyên gia cố vấn của người thầy trong học tập thường xuyên và học tập suốt đời, hình thành và phát huy năng lực tự học của người học [86, tr.54]. Người học được đặt ở vị trí trung tâm của hệ giáo dục, vừa là mục đích lại vừa là chủ thể của quá trình học tập. Theo tác giả, khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong thế kỷ XXI là 9 khu vực năng động nhất thế giới về kinh tế và tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, động lực phát triển khu vực này phụ thuộc trực tiếp vào giáo dục, thành quả của giáo dục trong thế kỷ XXI. Do đó, việc đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại: phát huy vai trò tự học của người học, vai trò cố vấn của người thầy, học tập suốt đời… là những yếu tố giúp giáo dục phát triển và là triển vọng to lớn khu vực châu Á Thái Bình Dương. Năm 2001, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội xuất bản cuốn Tự học của sinh viên, đồng chủ biên Hoàng Anh và Đỗ Thị Châu về chủ thể nghiên cứu, học tập của sinh viên. Theo các tác giả cuốn sách: Quá trình dạy học thành công của giáo viên có quan hệ biện chứng với quá trình tự học của sinh viên. Vì vậy, thước đo hiệu quả của phương pháp dạy học là kết quả của tự học “cốt lõi của học tự học và khi xem xét đến mối quan hệ giữa dạy và học thì dạy chỉ là ngoại lực, còn tự học là nhân tố quyết định đến bản thân người học - nội lực” [1, tr. 99]. Nhưng quá trình dạy cũng có ý nghĩa rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học. Do vậy, trò là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lý bằng hành động của mình, tự phát triển bên trong. Thầy là tác nhân, hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn cho trò tự học. Người thầy giỏi là người dạy cho trò nâng cao năng lực tự nhận thức tự học. Người trò giỏi là người từ năng lực được nhận thức biết tự học sáng tạo suốt đời. Công trình Tự học như thế nào của tác giả N.A.Rubakin, NXB Thanh niên, 2004 - khẳng định vai trò tự học góp phần nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ, chủ động trong việc lập kế hoạch ngay từ đầu cho cả chương trình học tập. Từ cách đặt vấn đề: thế nào là người có học thức, tác giả phân tích rõ mối liên hệ giữa việc tự học và đặc tính riêng của từng người. Theo tác giả, tự học tốt nhất là đọc sách, nhưng đọc sách phải như thế nào, chọn sách ra sao. Đó là những câu hỏi, mà cũng là câu trả lời mà qua đó tác giả giúp người đọc những kinh nghiệm để tự học hiệu quả. Tác giả cho rằng: Quá trình nắm kiến thức mới không thể tiến hành bằng việc học thụ động, học thuộc các 10 quy tắc, các kết luận và khái quát hóa. Nó được xây dựng trên cơ sở đổi mới phương pháp học tập của người học xuất phát từ yêu cầu, điều kiện học tập tích cực để xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập. Tác giả kết luận: chỉ bằng con đường tự học và phát huy tính tích cực của người học, tăng cường nghiên cứu, làm việc với tài liệu, dạy học nêu vấn đề và giải quyết vấn đề, cải tiến công tác tự học, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá… mới nâng cao hiệu quả học tập. Do đó, phải coi trọng hoạt động độc lập hoặc theo nhóm (thảo luận, làm thí nghiệm, quan sát vật mẫu, phân tích bảng số liệu…) qua đó người học vừa được trang bị tri thức, kĩ năng mới vừa rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu [87]. Cùng với xu thế phát triển của thời đại, các nhà giáo dục ở các nước phát triển còn đi sâu nghiên cứu để tối ưu hóa việc học, họ đánh giá cao vai trò tự nhận thức trong việc học của học sinh, sinh viên. Với hướng nghiên cứu này, các nhà giáo dục học có nhiều đóng góp cơ sở lý luận về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy vai trò tự nhận thức của sinh viên. Tiêu biểu trong lĩnh vực này là các nhà khoa học về giáo dục như: Smit - Man Hetboc,Sharma, R. Ahmed… đều khẳng định tầm quan trọng của tự học trong xã hội cạnh tranh, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin và tri thức khoa học như hiện nay [88], [90]. Như vậy, nghiên cứu về nhận thức và vai trò chủ thể nhận thức của người học đã được các nhà giáo dục thế giới từ thời kỳ cổ đại đến nay quan tâm. Dù cho các cách tiếp cận phương pháp nghiên cứu về giáo dục khác nhau, các nhà giáo dục nổi tiếng trên thế giới đều thống nhất vai trò quan trọng chủ thể nhận thức của người học để tiếp cận, lĩnh hội tri thức hình thành nhân cách, đồng thời các quan điểm tiến bộ về giáo dục từ thời cổ đại là cơ sở quan trọng về đổi mới phương pháp dạy và học trong giáo dục đại học hiện nay. Tác giả Nguyễn Kỳ tiếp tục chủ đề vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của người học nhưng với góc nhìn cụ thể được nêu trong cuốn sách 11 Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995 - nghiên cứu vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của người học. Tác giả phân tích, học tập của sinh viên vừa là sự tiếp nối quá trình học tập bậc giáo dục phổ thông vừa là sự khởi đầu cho một giai đoạn mới - nghiên cứu chuyên sâu vào một lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp nhất định. Hoạt động học tập của sinh viên không thể tách rời hoạt động nhận thức để khám phá tri thức, chiếm lĩnh tri thức và sáng tạo tri thức, qua đó phát triển các năng lực. Ngay trong quá trình học tập ở phổ thông, học sinh vừa là khách thể của quá trình giảng dạy nhưng lại là chủ thể của hoạt động học tập thì trong môi trường giáo dục đại học, sinh viên lại càng phải thể hiện rõ nét hơn vai trò chủ thể nhận thức trong học tập và nghiên cứu. Mức độ thể hiện vai trò chủ thể trong học tập phản ánh tính tích cực học tập của sinh viên. Nói cách khác, tính tích cực học tập của sinh viên thể hiện vai trò chủ thể nhận thức trong hoạt động học tập [57]. Nguyễn Cảnh Toàn, tác giả của công trình Quá trình dạy - tự học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997 phân tích đặc điểm của quá trình dạy học, về phương pháp tự học với những luận giải sâu sắc. Nội dung cuốn sách đề cập hai quá trình là dạy của giáo viên và học của sinh viên thực chất là kinh nghiệm, trải nghiệm cả cuộc đời miệt mài phấn đấu tự học và dạy học của chính tác giả. Theo tác giả, tự học là quá trình tự mình động não, tự mình sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả năng lực cơ bắp cùng các phẩm chất cá nhân của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến nó thành sở hữu của mình. Theo tác giả: “Tự học thường được hiểu là học với sách, không có thầy bên cạnh. Nhưng hiểu như vậy là hạn hẹp. Ngay cả khi có thầy bên cạnh, thì thầy cũng chỉ giảng giải, uốn nắn, chứ thầy đâu có học hộ trò. Dạy, dù sao cũng chỉ là ngoại lực tác động đến trò. Ngoại lực đó phải có sự cộng hưởng của nội lực cố gắng của học trò. Sự cố gắng này mới đúng là tự học. Như vậy, tự học có thể xảy ra khi có thầy, có sách, cả khi không có thầy, có sách” [107, tr.21]. 12 Công cuộc đổi mới giáo dục chỉ thực sự thành công khi nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự lập và sáng tạo của người học là nhận định của tác giả Nguyễn Văn Hợi trong bài: Cơ sở lý luận của việc biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, Tạp chí Triết học Đại học Sư phạm I Hà Nội, năm 1999… Theo tác giả, quan điểm biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo là tư duy mới về phương pháp giáo dục. Phương pháp này dựa vào cách thức hoạt động của người thầy trong quá trình dạy học tác động đến người học và việc học của họ, nhằm hướng dẫn họ học tập và giúp họ đạt mục tiêu học tập. Quá trình tự đào tạo thực hiện trên lớp học, ở mỗi bài học, trong sự tương tác giữa thầy và trò, giữa trò với nhau và với môi trường học tập, trong đó, trò là chủ thể chứ không phải “người ngoài cuộc”, thầy là người tổ chức, dẫn dắt, cố vấn và tổng hợp ý kiến để giờ học diễn ra đúng hướng, đạt mục tiêu. Thay vì chỉ tập trung ngồi nghe thầy thuyết trình, trò sẽ được tăng cường tính tự chủ và tự lập, phát triển khả năng tư duy, kỹ năng trình bày, hùng biện, chia sẻ, hợp tác, tổng hợp tài liệu…, thầy nêu vấn đề, trò phải tìm cách giải quyết vấn đề đó, qua đó rút ra cho mình những tri thức mình cần, chứ không phải thụ động tiếp thu những kiến thức mà thầy áp đặt. Bài báo kết luận để biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo thành công phải chuyển đổi dần vai trò, lấy người thầy là trung tâm sang việc lấy học trò làm trung tâm [47, tr.25-26]. Năm 1999, Tạp chí Đại học Sư phạm I Hà Nội đăng bài viết của nhóm tác giả Nguyễn Văn Hộ và Nguyễn Thị Tính nhan đề: Hiệu quả của việc dạy tự học trong quá trình dạy ở đại học và giáo dục chuyên ngành. Các tác giả cho rằng sinh viên đại học và giáo dục chuyên ngành phải có phương pháp học hiệu quả để lĩnh hội kiến thức và tập nghiên cứu khoa học. Thực tế cho thấy, dạy cách tự học là phương pháp hiệu quả để giúp cho người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến đổi những tình cảm thái độ, đồng thời bảo đảm thực hiện tốt khối lượng kiến thức học tập [44, tr.28-29]. 13 Tiếp tục chủ đề này, năm 2003, Phạm Mạnh Hà có bài Đổi mới phương pháp dạy học ở bậc đại học, Tạp chí Giáo dục (17) [39, tr.5]. Bài viết chỉ ra sự cần thiết phải thay đổi phương pháp giảng dạy truyền thống đang phổ biến hiện nay, đồng thời làm nổi bật những ưu điểm của phương pháp giảng dạy mới – tạm gọi là các phương pháp giảng dạy tích cực. Để trở thành một phương pháp mà yếu tố tích cực trở thành nét đặc trưng thì phải thực sự xem người học là trung tâm, là chủ thể của hoạt động “học”. Sinh viên được khuyến khích tư duy độc lập và sáng tạo, được chú trọng phát triển kỹ năng và xây dựng thái độ làm việc tích cực, tích cực tham gia vào các hoạt động, chủ động tìm kiếm kiến thức, rèn luyện kỹ năng cũng như điều chỉnh thái độ trong quá trình làm việc với nhau Tác giả Nguyễn Kỳ trong bài: Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học (2006), Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2 - nghiên cứu một trong những phương pháp giáo dục quan trọng ở bậc đại học là dạy phương pháp tự học. Theo quan điểm của tác giả: “Học là quá trình nghiền ngẫm, đọc đi đọc lại, nhắc đi nhắc lại để ghi nhớ, để bắt chước, để hiểu, để làm” hoặc “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ yếu là tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong của con người mình” [58, tr.24-27]. Tuy nhiên, học để có hiệu quả, phương pháp dạy phải biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, lấy sinh viên làm trung tâm. Trong quá trình dạy này, sinh viên được nói, được tìm hiểu, khám phá tri thức, hay được hoạt động, được làm, tức là học trong hoạt động và bằng hoạt động. Năm 2009, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội đăng bài viết của tác giả Phan Bích Ngọc với nhan đề: Tổ chức tốt việc tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các trường Đại học theo hình thức tín chỉ hiện nay [78, tr.160-164]. Theo tác giả bài báo, bản chất tự học của sinh viên đại học là quá trình tự nỗ lực, quyết tâm, tích cực để đạt được mục tiêu 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan