Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phật giáo mật tông tại hàn quốc thời kỳ trung đại...

Tài liệu Phật giáo mật tông tại hàn quốc thời kỳ trung đại

.PDF
93
211
100

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG PHẬT GIÁO MẬT TÔNG TẠI HÀN QUỐC THỜI KỲ TRUNG ĐẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Chuyên ngành: Châu Á học Mã số: 60 31 06 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trần Tiến Hà Nội-2016 MỤC LỤC Phần mở đầu 01 Phần nội dung 13 Chƣơng 1: ĐÔI NÉT VỀ PHẬT GIÁO VÀ PHẬT GIÁO MẬT TÔNG 13 1.1. Sự hình thành Phật giáo tại Ấn Độ 13 1.2. Phật giáo Mật tông 17 1.2.1. Lịch sử Mật tông 18 1.2.2. Giáo nghĩa Mật tông 24 Chƣơng 2: PHẬT GIÁO PHẬT GIÁO MẬT TÔNG TẠI HÀN QUỐC THỜI KỲ TRUNG ĐẠI 37 2.1. Thời kỳ Tam quốc (57 TCN – 668 SCN) cho tới thời Silla thống nhất (668-918) 37 2.2. Thời kỳ Goryeo (918-1392) 52 2.3. Thời kỳ Choson (1392-1910) 59 Chƣơng 3: ĐẶC TRƯNG PHẬT GIÁO MẬT TÔNG TẠI HÀN QUỐC THỜI KỲ TRUNG ĐẠI 67 3.1. Sự dung hợp tự nhiên của Mật tông Hàn Quốc với các tông phái Phật giáo Hàn Quốc khác 67 3.2. Hàn Quốc hóa Mật tông 72 Kết luận 77 Danh mục Tài liệu tham khảo 80 Phụ lục – Một số hình ảnh minh họa LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn trích dẫn rõ ràng. Nếu có gì gian dối, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2016 Nguyễn Thị Trang Nhung LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn Tiến sĩ Nguyễn Trần Tiến, người hướng dẫn khoa học đã nhiệt thành hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện, chỉnh sửa và hoàn thành luận văn này cũng như thực hiện các thủ tục cần thiết khác. Xin chân thành gửi lời cám ơn tới thầy Kim Seong Beom, thầy Kim Sang Ho, và chị Đào Vũ Vũ đã hỗ trợ tôi trong việc tìm kiếm tài liệu tham khảo tiếng Hàn cũng như hỗ trợ tôi trong quá trình biên dịch, cung cấp các thông tin hữu ích. Ngoài ra, tôi cũng chân thành cám ơn Quý Khoa Đông phương học, Quý Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho tôi hoàn thành chương trình học viên thạc sĩ Châu Á học cùng bản luận văn này. Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2016 Nguyễn Thị Trang Nhung PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Ra đời tại Ấn Độ và tồn tại cho đến ngày nay đã trải qua trên 2500 năm thăng trầm trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại, Phật giáo biện luận nhiều về cả nhân sinh quan và vũ trụ quan. Việc tìm hiểu triết lý Phật giáo về nhân sinh quan và vũ trụ quan là mối quan tâm của nhiều học giả trên toàn thế giới. Qua đó, thế giới ngày càng nhận thức rõ được chân giá trị của Phật Giáo. Phật Giáo hay “Đạo Phật” chính là “Đạo” mà cốt tủy giáo lý hướng về phương diện xã hội, về lòng từ bi và chủ trương hòa bình. Phật Giáo còn là Đạo của tri thức, trí tuệ và trí huệ 1, biện giải được những thắc mắc của con người về chính bản thân mình cùng vũ trụ. Phải chăng vì vậy mà ngày nay hiện tượng Phật Giáo phát triển khắp nơi trên thế giới trong đó có Hàn Quốc?!2 Xét về góc độ lịch sử, Phật giáo có thể được chia làm bốn thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là giai đoạn của Phật giáo Nguyên thủy. Thời kỳ thứ hai là sự phân chia thành Phật giáo bộ phái. Thời kỳ thứ ba là Phật giáo Đại thừa. Thời kỳ thứ tư là sự phát triển của Thiền tông và Phật giáo bí truyền hay Mật tông (Tantric Buddism).3 Phật giáo Mật tông xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ V-VI SCN tại bắc Ấn Độ cùng với Giáo lý Đại Thừa xuất hiện. Bộ luận Trung quán (Mādhyamika) và Duy thức (Vijñānavāda) đã đóng góp những nền móng cơ bản cho Mật tông. Ngài Nagarjuna (Long Thọ, 600-650) được coi là vị Tổ sư 1 Theo giáo lý Phật giáo, tri thức là những kiến thức tích lũy được từ học tập, trí tuệ là là tri thức, kinh nghiệm thu thập được từ cuộc sống, còn trí huệ là tâm thức không còn vô minh bên trong con người, được tích lũy và bảo lưu qua nhiều kiếp sống. 2 Sau cuộc nội chiến năm 1950 kết thúc bằng thỏa thuận ngừng bắn vào ngày 27/7/1953, bán đảo Hàn bị chia cắt thành hai miền với phía Bắc là Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và phía Nam là Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc). Do phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào thời kỳ trung đại, khi bán đảo Hàn chưa bị chia cắt, và do các học giả phương Tây khi nghiên cứu về bán đảo Hàn đều dùng tên riêng Korea (Hàn Quốc) để chỉ chung cho khu vực địa lý này nên trong luận văn này, thuật ngữ Hàn Quốc dùng để chỉ chung cho toàn bộ lãnh thổ bán đảo Hàn thời kỳ trung đại (từ thời Tam quốc thống nhất đến thời Choson) 3 Trong luận văn này, thuật ngữ Phật giáo bí truyền (Esoteric Buddhism) cũng có nghĩa là Tantric Buddhism (Phật giáo Mật tông), Mật thừa (Tantrayana) hoặc Kim Cương Thừa (Vajrayana) . 1 của Mật giáo. Tuy nhiên, đến thế kỉ thứ VII thì giáo phái này mới chính thức hình thành và phát triển mạnh.4 Trong giai đoạn này, Mật tông được truyền bá sang các quốc gia Phật giáo Bắc truyền như Nepal, Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Bhutan, Mông Cổ...5 Theo đó, Phật giáo Mật tông truyền vào Hàn Quốc từ Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ VI qua một nhà sư Hàn Quốc là Myeong-rang (명랑, 明朗, Minh Lãng) và được đặt tên là Thần Ấn tông Sinin Set (神印宗, hay còn gọi là Mudra Sect hay Pháp ấn). Đây được xem là Phật giáo bí truyền sơ khai dựa trên lớp Mật thừa Hành Động (kriyātantra).6 Sau đó một thời gian, phái Tổng trì tông (總指宗) - Chongji Sect của Dharani Sect 7 được thành lập bởi nhà sư Hye-tong (혜통, 惠洞, Huệ Động) ở Hàn Quốc. Hai nhà sư Myeong-rang và Hye-tong được xem như những người đặt nền móng cho Phật giáo Mật tông tại Hàn Quốc. Đến đầu thế kỷ XV, dưới thời vương triều Goryeo, Phật giáo tại Hàn Quốc phát triển và phân thành 11 giáo phái, trong đó có hai giáo phái Mật tông kể trên. Tuy nhiên, đến triều đại Choson, Phật giáo có dấu hiệu suy yếu dần do chính sách của triều đình trong Lúc ban đầu, Mật tông chỉ được truyền khẩu. Đến cuối thế kỉ thứ VI và thứ X, Mật tông mới dần dần được kết tập và hệ thống hóa. 5 Cuối thế kỉ thứ VIII, Padmasambhava (Liên Hoa Sinh) mới đem Mật tông từ Ấn Độ vào Tây Tạng, sau đó là Atisa (thế kỉ 11) là người có đóng góp rất lớn. Tại Tây Tạng, Mật tông Phật giáo được phát triển thành một tông phái đầy uy danh với rất nhiều đạo sư cùng nhiều hệ truyền thừa lừng lẫy. Khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng, Mật tông Tây Tạng phải chịu cảnh phân tán lưu vong. Tuy nhiên chính vì cái duyên lưu vong này mà tinh hoa Mật giáo Tây Tạng mới lộ diện cho toàn thế giới được học hỏi. Đầu thế kỉ thứ IX, Đạo sư người Nhật Kukai (Không Hải) đem Mật tông từ Trung Quốc về Nhật Bản, lập ra Chân Ngôn Tông (shingon shu). 6 Cỗ xe đầu tiên trong 3 lớp Mật tông ngoại vi. Các Mật điển Hành Động có tên như thế vì chúng chú trọng chính yếu vào các hạnh kiểm bên ngoài, các thực hành về lễ tịnh hóa, tẩy uế v.v.... Đây là phương pháp tiếp nhận khát vọng vào trong con đường là liếc nhìn đối ngẫu. Xem thêm: “Kriya Tantra”. Rigpa Shedra Wiki. http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Kriya_tantra . Truy cập 19/12/2015. 7 Chân ngôn tông là những kinh ngằn chứa đựng những công thức ma thuật gồm những âm tiết có nội dung tượng trưng (mantra) 4 2 việc bảo trợ Nho giáo. Phải đến thời kỳ của học giả Phật giáo Hoedang (회당, 悔堂, Hối Đàng, tên thật: Son-Gyu-sang, 손규상, 孫珪祥, Tôn Khuê Tường: 1902~1963) xuất thân từ một vị cư sĩ trong vòng 50 năm đã nỗ lực phục hưng Phật giáo Mật tông. Ông bắt đầu với việc khởi xướng phổ biến câu chân ngôn Om Mami Padme hum 8 tới mọi người và đứng ra sáng lập ra giáo phái Chân giác tông (진각종, 眞覺宗), một trong những giáo phái thuộc Mật tông. Những nỗ lực truyền bá của Hoe-dang đã góp phần đưa nhiều người Hàn Quốc quay trở lại tu chứng Mật tông. Trong 18 tông phái Phật giáo khác nhau của Hàn Quốc hiện nay 9, ba tông phái Mật tông là Chân giác tông, Tổng trì tông và Chân ngôn tông vẫn đang được người dân Hàn Quốc thực hành và tu tập. Với lịch sử Mật tông như vậy, có thể nói nghiên cứu về Mật tông Hàn Quốc là nghiên cứu căn bản, trang bị và bổ sung những kiến thức cần thiết về Phật giáo Hàn Quốc nói riêng và Mật tông Hàn Quốc nói chung. Ngày 22 tháng 12 năm 1992, Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đến nay, Hàn Quốc là đối tác đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam cả về quy mô lẫn tổng vốn đầu tư và số dự án. 10 Cùng với đó, các công trình nghiên cứu về Hàn Quốc cũng không ngừng gia tăng số lượng theo thời gian. Tuy nhiên, những công trình này tuy đa dạng về nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu tập trung về kinh tế, chính trị. Về văn hóa, việc nghiên cứu Phật giáo Hàn Quốc không nhận được sự quan tâm thích đáng từ câu Chân ngôn tiếng Sanskrit, chân ngôn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát. Đây là chân ngôn quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nó còn được mệnh danh là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn" tức là "Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ" 8 9 Thích Nguyên Tạng tổng hợp từ tài liệu: Korean Buddhism Magazine( Seoul/1997) Tài liệu do phái đoàn Phật Giáo Triều Tiên trao tặng nhân dịp các vị đến Úc tham dự Ðại Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới lần thứ 20 được tổ chức tại Sydney, Úc Châu, 1998), Phật giáo tại Nam Triều Tiên, http://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbpha237.htm 10 Trang thông tin điện tử đầu tư nước ngoài: http://fia.mpi.gov.vn/tinbai/2174/FDI-Han-Quoc-ra-nuoc-ngoaiva-Quan-he-doi-tac-hop-tac-chien-luoc-Viet-Nam-Han-Quoc, truy cập 12/12/2014 3 các nhà nghiên cứu Việt Nam. Ngoài ra, khi nghiên cứu Phật giáo Hàn Quốc, tông phái chủ đạo được chú trọng tìm hiểu là Thiền tông. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào dành cho Mật tông đến từ các học giả Việt Nam. Trong khi đó, Mật tông lại là đặc phẩm của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, được du nhập từ rất sớm vào bán đảo Hàn và để lại nhiều chứng tích trong nền Phật giáo Hàn Quốc. Nghiên cứu Mật tông Hàn Quốc không chỉ góp phần lấp dần khoảng trống nghiên cứu của Việt Nam về văn hóa Hàn Quốc nói chung, Phật giáo Hàn Quốc nói riêng mà còn góp phần cung cấp thêm các nguồn tư liệu mới giúp mang lại cái nhìn toàn diện hơn về đất nước, con người Hàn Quốc. Những chứng cứ khảo cổ cho thấy bán đảo Hàn đã có người sinh sống từ thời đồ đá cũ, cách nay khoảng 600.000 đến 400.000 năm. Vào đầu thiên niên kỷ, sau khi nhà nước Choson cổ bị diệt vong, lịch sử Hàn Quốc bước vào Thời kỳ ba Vương quốc với ba nhà nước Goguryeo, Baekje và Silla. Sau khi Silla thống nhất Tam quốc, lịch sử Hàn Quốc chuyển mình vào thời kỳ trung đại và kéo dài tới hết giai đoạn tồn tại của vương triều Choson vào năm 1910. Là một giai đoạn lịch sử dài với nhiều biến động, thăng trầm trong đời sống xã hội, trung đại cũng là giai đoạn mà Hàn Quốc tiếp nhận, dung hợp nhiều hệ tư tưởng ngoại lai vào tín ngưỡng truyền thống của mình, trong đó có Phật giáo. Là một tông phái của Phật giáo, Mật tông cũng được du nhập vào bán đảo Hàn từ đầu thế kỷ thứ VI. Tổng hòa trong Phật giáo thời kỳ trung đại, Mật tông Hàn Quốc cũng trải qua quá trình du nhập, định hình từ thời Silla, phát triển qua các triều đại để trở nên cường thịnh vào thời Goryeo rồi bị đàn áp và thiệt hại dưới thời Choson. Nghiên cứu Mật tông Hàn Quốc trong phạm vi thời kỳ trung đại với nhiều thăng trầm, biến động, dưới góc độ lịch sử, sẽ giúp chúng ta khảo cứu đầy đủ được những tính chất, đặc trưng của Mật tông 4 Hàn Quốc, từ đó có thể lấy làm tiền đề căn bản để khảo cứu về Mật tông Hàn Quốc ở các giai đoạn lịch sử sau đó cũng như thời hiện đại. Chính vì những lý do như đã trình bày ở trên, người viết đã lựa chọn đề tài luận văn nghiên cứu khoa học của mình với tên gọi: “Phật giáo Mật tông tại Hàn Quốc thời kỳ trung đại” 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Với lý do lựa chọn đề tài nêu trên, nghiên cứu tập trung vào các mục đích nghiên cứu dưới đây:  Hệ thống các kiến thức tổng quan về Phật giáo và Phật giáo Hàn Quốc, về Mật tông và các tư liệu có liên quan đến quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Mật tông tại Hàn Quốc thời kỳ trung đại.  Tìm kiếm và tổng hợp những đặc trưng của Mật tông trong nền Phật giáo Hàn Quốc giai đoạn kể trên.  Bước đầu đưa ra một số đặc trưng của Phật giáo Mật tông Hàn Quốc trong đời sống văn hóa của người Hàn. Mục đích nghiên cứu này là trọng tâm giúp người viết định hình được bố cục, kết cấu nội dung cũng như những chủ điểm cần tập trung khai thác xung quanh đề tài. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Phật giáo ra đời tại Ấn Độ, từ đây được truyền bá rộng rãi và trở thành một trong những tôn giáo lớn của nhân loại. Ngay từ khi Phật giáo hình thành đến nay, việc nghiên cứu truyền bá Phật giáo đã đóng góp cho nền Phật học thế giới nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Cũng từ đó, các tu sĩ Phật giáo, Phật tử hay học giả nghiên cứu Phật học thế giới đã triển khai công tác nghiên cứu một cách đầy đủ hơn, sâu rộng hơn theo hướng liên ngành và đa ngành 5 văn hoá, lịch sử, xã hội học, văn học, triết học, v.v... Các nhà nghiên cứu đã triển khai mở rộng việc nghiên cứu Phật học và những vấn đề có liên quan đến Phật giáo từ nơi sinh ra tôn giáo này đến những nơi nó được du nhập tới như Sri Lanca, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam và nhiều quốc gia khác. Mật tông đã khai sáng một nhận thức mới về sự giác ngộ qua hành trình tìm hiểu tri thức. Đây là một vấn đề Phật học quan trọng và sâu rộng, chính vì vậy đã thu hút được nhiều học giả nghiên cứu trên thế giới. Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cũng đã nghiên cứu về Phật giáo Hàn Quốc nói chung và Mật tông Hàn Quốc nói riêng. Điểm mấu chốt trong nghiên cứu Mật tông Hàn Quốc trong luận văn này là hệ thống lại các nghiên cứu trước đây của các học giả Hàn Quốc, học giả quốc tế và trong nước về chủ đề này. Cuốn sách mang tính chất tổng quan về lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo tại Hàn Quốc từ khi du nhập vào quốc gia này cần kể đến là Introduction of Buddhism to Korea: New Cultural Patterns (1989) trong tuyển tập gồm 3 tập về Nghiên cứu Tôn giáo và Văn hóa Hàn Quốc (Studies in Korean religions and culture), nhà xuất bản Jain Publishing Company, của hai tác giả Lewis R. Lancaster và Chai-Shin Yu. Cuốn sách đặc biệt quan tâm đến Phật giáo thời kỳ Tam Quốc (Three Kingdom period) trong lịch sử Hàn Quốc. Cũng cùng tác giả Lewis R. Lancaster và Chai-Shin Yu trong cuốn Assimilation of Buddhism in Korea: Religious Maturity and Innovation in the Silla Dynasty (1991) đã nghiên cứu Phật giáo từ giai đoạn triều đại Silla thống nhất (669-935 AD) sau thời kỳ Tam Quốc. Trong giai đoạn này, Phật giáo đã được hòa nhập vào nền văn hóa Hàn Quốc cùng một số thành tố văn hóa được xem là vay mượn từ Trung Quốc. Nhiều học giả nghiên cứu Phật giáo đồng 6 quan điểm sẽ tìm thấy được tiếng nói chung trong những nghiên cứu của mình về sự tiếp biến văn hóa Phật giáo trong khoảng thời gian này. Cũng nghiên cứu về triều đại Silla, trong cuốn Silla: Korea's Golden Kingdom (2013) của Soyoung Lee, Denise Patry Leidy, tác giả đã tập hợp sử liệu và đưa ra những đánh giá về một vương triều hoàng kim trong lịch sử Hàn Quốc, trong đó Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và tôn giáo thời kỳ từ thế kỷ IV-VIII. Trong số các học giả nước ngoài, đi sâu vào nghiên cứu Phật giáo Mật tông có lẽ phải kể đến Richard K. Payne thuộc Viện Nghiên cứu Phật học, trường Đại học Berkeley, Hoa Kỳ. Trong một cuốn sách do ông chủ biên Tantric Buddhism in East Asia (2005), Richard K. Payne đã đưa ra một bức tranh khá toàn cảnh về Phật giáo Mật tông ở các nước Đông Á trong đó có Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản: “Trong cuốn này, tác giả đã dành phần lớn nghiên cứu của mình đến Phật giáo bí truyền Hàn Quốc, đặc biệt là thời kỳ Choson. Charles D. Orzech (chủ biên) cùng với các nhà nghiên cứu Henrik H. Sørensen, Richard K. Payne, trong tác phẩm Esoteric Buddhism and the Tantras in East Asia (Phật giáo Bí truyền và Mật tông ở Đông Á) đã khái quát con đường truyền bá Phật giáo Bí truyền và Mật tông từ Ấn Độ sang nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có các quốc gia Đông Nam Á, Trung Á (Tây Tạng và Mông Cổ) và các nước khu vực Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc). Không chỉ có Phật giáo bí truyền góp phần đáng kể vào sự phát triển của Phật giáo ở nhiều nền văn hóa, nhưng nó cũng tạo điều kiện cho việc truyền tải nghệ thuật tôn giáo và văn hóa vật chất…Tác phẩm này là kết quả của sự hợp tác trao đổi quốc tế của bốn mươi học giả, cung cấp nguồn tư liệu 7 tương đối toàn diện về Phật giáo bí truyền và Mật tông ở các nước Đông Á từ đầu của kỷ nguyên cho đến nay. Tại Hàn Quốc, việc nghiên cứu Phật giáo tại Hàn Quốc dường như chưa nhận được sự ưu ái đúng mức. Tác giả Byung-jo Chung trong cuốn History of Korean Buddhism có lẽ đã nghiên cứu tương đối tổng quan về Phật giáo Hàn Quốc trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quốc và Ấn Độ. Ở đây, tác giả đi sâu vào tìm hiểu các khái niệm cơ bản về Phật giáo và việc tiếp nhận các tư tưởng đó ở Hàn Quốc để từ đó giúp người đọc hiểu hơn về Phật giáo ở đây. Đối với Mật tông, một số tác giả Hàn Quốc như Jong-Seok trong cuốn 밀교학 개론 (Khái luận Mật giáo học), tác giả Kim Yeong-deok trong cuốn 밀교문화 이해 (Hiểu biết văn hóa Mật giáo), tác giả Choi Jong-woong trong cuốn 밀교의 강좌 (Bài giảng của Mật giáo), tác giả Jeong Taek-hyeok trong cuốn 밀교의 세계 (Thế giới của Mật giáo) và một số tác giả khác khi nghiên cứu chủ yếu mới chỉ dừng lại ở phạm trù tín ngưỡng hoặc tôn giáo nên những tác phẩm này thường đi theo hướng vừa kiến giải vừa “ca tụng”, có đôi khi còn bao gồm cả mục tiêu nâng cao uy tín tôn giáo của mình nên phần lớn đều thiếu tính khách quan khoa học và cũng mới dừng lại ở mức độ nhất định. Một tác phẩm nghiên cứu Mật tông đáng kể khác phải kể đến là 한국불교의 밀교적 특색 (Đặc trưng mang tính Mật giáo của Phật giáo Hàn Quốc) của tác giả Hong Yoon-sik đã giúp người đọc khái quát được những yếu tố Mật tông ẩn tàng sâu trong văn hóa Hàn Quốc nói chung, Phật giáo Hàn Quốc nói riêng theo dòng chảy lịch sử nước Hàn, đặc biệt tâp trung vào giai đoạn trung đại. 8 Trở lại Việt Nam, nhiều đề tài nghiên cứu về quan hệ kinh tế - ngoại giao hay văn hóa xã hội Hàn Quốc nhận được sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu nhưng nghiên cứu về Phật giáo Hàn Quốc nói chung và Phật giáo Mật tông nói riêng tại Việt Nam vẫn còn ở mức độ khiêm tốn. Cho đến nay, cuốn sách tổng quát một cách hệ thống nhất về Phật giáo Hàn Quốc bằng tiếng Việt là cuốn Dẫn nhập lịch sử tư tưởng Hàn Quốc của ba tác giả Kim Seong Beom, Kim Sang Ho, Đào Vũ Vũ, tuy không đề cập đến Mật giáo những đã cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng thể về sự phát triển của Phật giáo Hàn Quốc qua các thời kỳ cũng như cho thấy hệ tư tưởng của nhiều học giả Phật giáo Hàn Quốc quan trọng. Có thể hiểu, các yếu tố Hallyu hay kinh tế Hàn Quốc đã trở thành trọng tâm và việc nghiên cứu Phật giáo Hàn Quốc của các nhà nghiên cứu Việt Nam ít được quan tâm. Đây cũng là khó khăn cho những nhà nghiên cứu trẻ, tuy nhiên cũng mở ra một khoảng trống mà chúng ta cần lấp dần trong việc nghiên cứu Phật giáo Hàn Quốc. Chính vì thế trong luận văn này, tác giả đặt mục tiêu phác họa một cách tổng thể bức tranh về Mật tông Hàn Quốc qua việc tổng hợp và hệ thống các nguồn tài liệu trong và ngoài nước. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Tác giả Hye Jeong Choi Jong Ung khi viết lời tựa tái bản lại cuốn Bài giảng Mật giáo (밀교의 강좌, Lecture on Esoteric Buddhism, 2011) đã viết: “Ở nước ta (Hàn Quốc), theo chân Myeong-rang và Mil-bon, Hye-tong của Silla, Mật giáo đã phát triển qua cả thời Goryeo cho tới Choson, tuy nhiên, do chính sách kiềm chế đạo Phật trong những điều chỉnh của nhà Choson mà Mật giáo đã bị hấp thu vào Hiển giáo và bị giấu đi những dấu tích của mình. Theo đó, Phật giáo của chúng ta (Hàn Quốc) đã chuyển đổi mạnh mẽ sang hình thái mang tính Phật giáo tổng hợp giữa lễ kinh (예경, 禮經) với tụng 9 kinh (독경), tham thiền, niệm Phật cùng với trì chú là một phương thức tu tập của Mật giáo.” [40, tr. 3] Nhận xét tổng quát này đã giúp người viết nhận định đối tượng nghiên cứu của luận văn là Phật giáo Mật tông tại Hàn Quốc trong mối liên hệ tổng thể, mật thiết với Phật giáo mang tính chất tổng hợp của nước Hàn. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào Mật tông thời kỳ Trung Đại trong lịch sử Hàn Quốc. “Trung đại” là một thuật ngữ của khoa học lịch sử phương Tây để chỉ một thời đại nằm giữa thời cổ đại và thời cận đại, có nghĩa là giai đoạn lịch sử gắn liền với chế độ phong kiến. Tuy nhiên, nhiều học giả cho rằng ở phương Đông, do phương thức sản xuất châu Á nên chế độ phong kiến kéo dài và chưa phát triển đến cực điểm của nó, do vậy, việc áp dụng thuật ngữ “Trung đại” theo cách định nghĩa của phương Tây để phân kỳ lịch sử cho các nước phương Đông sẽ không tránh khỏi tính chất ước lệ. Đối với Hàn Quốc, một trong số các nước phương Đông, việc phân kỳ lịch sử được dựa trên các triều đại cai trị. [37, pg. 50]. Trong phạm vi nghiên cứu, thời kỳ trung đại trong lịch sử Hàn Quốc bắt đầu bằng sự cai trị của nhà nước Silla thống nhất (668-918) dưới triều đại vua Kim và Park đóng đô tại phía Đông Nam Gyongju. Từ 918 đến 1392, vương triều này đổi tên thành Goryo do dòng họ Wang vùng Kaesong cai trị. Từ 1392 đến 1910, dòng tộc Chonju Yi từ Yonghung lên nắm quyền và đổi tên nước thành Choson. Trong giai đoạn này, lịch sử Hàn Quốc trải qua nhiều biến đổi. Từ 676 đến cuối thế kỷ VIII là giai đoạn nhà nước Silla củng cố và phát triển kéo theo đó là sự phát triển cả về tôn giáo (Phật giáo) và nghệ thuật. Thời kỳ từ sau 780 đến cuối thế kỷ IX, lịch sử Hàn Quốc chuyển sang giai đoạn suy yếu cả về kinh tế, chính trị và đời sống văn hóa. Đến thế kỷ X, nhà nước Silla chính thức bị suy yếu và thay vào đó là dòng họ Wang lên nắm quyền. Nhà nước Goryo kéo dài 10 khoảng 5 thế kỷ cho đến thế kỷ XIV nhà nước Choson của vương triều Yi được thành lập và nắm quyền trong khoảng thời gian dài cho đến năm 1910 khi Hàn Quốc bị Nhật xâm chiếm. Cùng với những thăng trầm của lịch sử Hàn Quốc Trung đại, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu Phật giáo Mật tông trong giai đoạn này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội phổ biến bao gồm:  Phương pháp lịch sử nhằm tái hiện trung thực quá trình hình thành Phật giáo và sự du nhập của Phật giáo vào Hàn Quốc. Thông qua phương pháp này, luận văn nghiên cứu theo trình tự thời gian và không gian Phật giáo Hàn Quốc qua các triều đại (quá trình ra đời, phát triển, tiêu vong). Từ việc nghiên cứu bằng cách tìm nguồn gốc phát sinh (nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh nảy sinh), quá trình phát triển và biến hóa (điều kiện, hoàn cảnh, không gian, thời gian…. có ảnh hưởng) để phát hiện bản chất và quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.  Thu thập tài liệu, tổng hợp và phân tích tài liệu từ nguồn tư liệu gốc cũng như nguồn tư liệu thứ cấp.  Cách tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành đươc sử dụng khi xem xét các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của luận văn. 6. Đóng góp của luận văn Như trên đã đề cập, nghiên cứu về Phật giáo Hàn Quốc nói chung và Mật tông nói riêng tại Việt Nam vẫn còn ở mức độ khiêm tốn, do đó, như bước đầu trong nghiên cứu, luận văn góp phần lấp dần những khoảng trống về nghiên cứu Phật giáo Hàn Quốc. Từ việc nghiên cứu lịch sử vấn đề, luận văn 11 đóng góp một số vấn đề lý luận cơ bản về Phật giáo và Mật tông, đặc biệt là đi sâu tìm kiếm những dấu ấn và đặc trưng của Mật tông Hàn Quốc thời kỳ trung đại. Những lập luận rút ra trong quá trình thực hiện đề tài có thể sử dụng như nguồn thông tin bổ trợ, tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy. Ngoài ra, người viết cũng cố gắng kết nối Phật giáo Mật tông Hàn Quốc với những tông phát Phật giáo Hàn Quốc khác cũng như những hệ thống tư tưởng truyền thống của người Hàn nhằm đưa ra một góc nhìn mới trong việc nghiên cứu về Phật giáo Hàn Quốc nói chung. Đồng thời, luận văn cũng sẽ đưa ra một số đóng góp của Mật tông và Phật giáo nói chung đến đời sống văn hóa Hàn Quốc. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được chia thành 3 chương như sau: Chương 1: Đôi nét về Phật giáo Phật giáo Mật tông Chương này là phần khái thuyết cung cấp kiến thức tổng quan về sự hình thành Phật giáo tại Ấn Độ, từ đó giới thiệu về lịch sử phát triển của Mật tông cũng như Giáo nghĩa Mật tông. Chương 2: Phật giáo và Phật giáo Mật tông tại Hàn Quốc thời kỳ trung đại Dưới góc độ lịch sử, tập trung vào thời kỳ trung đại, chương này cung cấp thông tin về Phật giáo và Phật giáo Hàn Quốc theo từng phân kỳ của giai đoạn trung đại: từ thời Tam quốc đến hết thời Silla thống nhất (57TCN – 668SCN), thời kỳ Goryeo (918-1392) và thời kỳ Choson (1392-1910) Chương 3: Đặc trưng Phật giáo Mật tông tại Hàn Quốc thời kỳ trung đại 12 Trên cơ sở thông tin tại chương 2, chương 3 đưa ra hai đặc trưng nổi bật của Phật giáo Mật tông Hàn Quốc thời kỳ trung đại là sự dung hợp tự nhiên của Mật tông Hàn Quốc với các tông phái Phật giáo Hàn Quốc khác và đặc trưng Hàn Quốc hóa Mật tông 13 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 ĐÔI NÉT VỀ PHẬT GIÁO VÀ PHẬT GIÁO MẬT TÔNG 1.1. Sự hình thành Phật giáo tại Ấn Độ Có thể khẳng định, việc nghiên cứu sự hình thành, phát triển cũng như giáo lý, giáo đoàn Phật giáo nhận được sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu và ngay cả các tu sĩ, cư sĩ Phật giáo trên toàn thế giới. Chính vì vậy, trong luận văn này, người viết chỉ khái quát một vài yếu tố kinh tế-xã hội và tôn giáo dẫn đến sự hình thành và phát triển của Phật giáo cũng như sự lan tỏa của Phật giáo trong lãnh thổ cũng như ra ngoài Ấn Độ để từ đó có sự liên kết chặt chẽ hơn với Phật giáo Hàn Quốc nói chung và Mật tông Phật giáo tại Hàn Quốc nói riêng. Nền văn minh sớm nhất của dân tộc Ấn Độ phải kể đến là nền văn minh sông Ấn (Indus river). Nhiều ý kiến cho rằng giống người Dravidian là dân bản địa xưa nhất và nổi bật nhất trong số các dân tộc ở Ấn Độ, là chủ nhân của nền văn hóa Indus. Họ thờ nữ thần sáng tạo đất đai và dân tộc. Nền văn minh giai đọan này không thua gì nền văn minh Lưỡng Hà vùng Trung Á và văn minh nhà Thương của Trung Hoa thể hiện qua di tích khảo cổ những thành thị thủ công nghiệp và thương nghiệp lớn, xuất hiện từ khoảng giữa thiên niên kỷ III đến đầu thiên niên niên kỷ II trước công nguyên. Dấu mốc thay đổi trong lịch sử Ấn Độ bắt đầu với sự hiện diện của người Aryan. 11 Hiện vẫn còn nhiều tranh luận về giả thiết về sự tràn vào của người Aryan ở Ấn Độ như giả thiết di cư, giả thiết xâm lược hay giử thiết cho rằng người Aryan là cư dân bản địa . Vào khoảng thời gian 100 đến 1.600 TCN, một chi của dòng họ Aryan rộng lớn, thường được gọi là người Indo-Aryan, di cư đến Ấn Độ. Họ đem theo cùng với họ là tiếng Phạn và một tôn giáo dựa trên nghi lễ hiến tế các vị thần tượng trưng cho các thế lực của thiên 11 14 Người Ấn-Aryan cư trú ở vùng Panjab phồn thịnh, rất phát đạt về mặt tư tưởng, vì thế, dân tộc này đã chế tác được bộ kinh điển Rig Veda đầu tiên. Đây là nguồn tư tưởng văn hóa ở thời kỳ thứ nhất của Bà La Môn giáo, vào khoảng 1500 -1000 TCN. Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ Ấn độ đã phát triển cao, nhưng vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, cùng sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ tư tưởng chính thống, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ này với khuynh hướng đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau, vừa mang tính chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo. Trong giai đoạn này, người Ấn Độ rất tôn trọng nghi thức tế tự, kính thần. Lúc đầu họ đặt ra người gia trưởng, hoặc tộc trưởng để đảm nhận việc tế lễ, gọi là chức Ty tế. Dần dần chức Ty tế này trở thành công việc chuyên môn nên được thay thế bằng các Tăng lữ. Mặc khác, vì theo đà tiến triển của xã hội, phát sinh ra bốn chức nghiệp: Sĩ, nông, công, thương. Dần dần, các nghề nghiệp này được giai cấp hóa. Giai cấp Tăng lữ trông coi việc tế tự chiếm địa vị tối cao; thứ đến là giai cấp vua chúa, nắm quyền thống trị; thứ dân thuộc hạng nông, công,thương ở địa vị thứ ba; sau cùng là tiện dân ở địa vị thấp nhất. Lối phân chia giai cấp này mỗi ngày thêm chặt chẽ. Các Tăng lữ nắm thực quyền trong xã hội, đã đem tổ chức xã hội thành bốn giai cấp rõ rệt: Tăng lữ thuộc giai cấp Bràhman, vua chúa thuộc giai cấp Ksatriya, bình dân thuộc giai cấp Vaisya, tiện dân thuộc giai cấp Sùdra. Hai giai cấp Bràhman và Ksatriya là giai cấp thống trị, hai giai cấp bình dân và tiện dân là hai giai cấp nhiên như Indra, thần mưa và sấm, thần Agni (lửa) và Varuma, chúa tể của các sông biển và mùa màng. Những bài ngợi ca vị thần ấy được tập hợp lại thành bốn tập Kinh Vệ Đà. 15 bị trị. Bốn giai cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con nối, nên giai cấp nô lệ cứ phải đời đời làm nô lệ tạo thành một tổ chức xã hội bất công. Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Veda. Từ đó đã hình thành cách phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái triết học thành hai phái chính là phái triết học chính thống (Astika) thừa nhận uy thế tối cao của kinh Veda của đạo Bàlamôn12 và phái triết học bác bỏ uy thế tối cao của kinh Veda đạo Bàlamôn (gọi là phái phi chính thống). 13 Trong các trường phái phi chính thống, ngoại trừ Phật giáo là một tôn giáo mang tính giác ngộ và giải thoát hoàn toàn, còn trường phái Lokayata là trường phái triệt để duy vật, vô thần, các trường phái khác đều mang tính chất nhị nguyên luận hay thiếu triệt để. Cũng chính vì điều này mà Phật giáo sau khi hình thành đã sớm được truyền bá đến nhiều vùng trong Ấn Độ và trên thế giới. Xuyên suốt dòng lịch sử của đất nước Ấn Độ, người ta nhận thấy Ấn Độ là nơi phát xuất tổ chức nhiều mô hình tôn giáo của thế giới. [15, tr17]. Lịch sử truyền bá của Phật giáo và tư tưởng Phật giáo rộng và sâu, nếu người muốn nghiên cứu về Phật giáo mà không đặt một đường lối đã định để noi theo thì khó thể đạt được phần kết quả tốt đẹp. Vậy bước đầu tiên của đường lối đó chính là việc nghiên cứu về sự hình thành của Phật giáo. Phật giáo ở mỗi vùng, mỗi nước đều có những đặc chất khác nhau. Tuy vậy, Phật giáo ở bao gồm 6 trường phái chính là: 1)Samkhya, 2) Mimamsa,3) Vaisesika,4) Nyaya, 5) Yoga và 6)Védanta. 13 gồm 3 trường phái chính là: 1) Các trường phái triết học vô thần, duy vật trong phong trào mới đòi tự do tư tưởng ở Đông ấn và trường phái triết học duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ nghĩa duy vật khoái lạc như Charvaka; 2) Phật giáo và 3) Đạo Jaina. 12 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan