BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG
ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG
VÀ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
NGÔ THỊ TÚ ANH
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG
ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ
THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
NGÔ THỊ TÚ ANH
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI THU
HÀ NỘI – 2021
-2-
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là: Ngô Thị Tú Anh, học viên lớp K18B khóa 2018-2020 xin cam
đoan đây là công trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ
nguồn tài liệu nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích
trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận
của cơ quan cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết
quả nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách
quan. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số
liệu cũng như các thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình
Tác giả luận văn
Ngô Thị Tú Anh
-3-
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy trong chương trình Cao học Luật Kinh tế - Trường Đại học Mở Hà Nội,
những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở cho tôi
thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô PGS.TS Lê Thị Hoài Thu đã tận tình
hướng dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Cô đã hướng dẫn, chỉ
bảo cho tôi rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, Cô Khoa đào tạo Sau
đại học - Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình học tập.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều
nên luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của
Thầy, Cô và các bạn học viên./.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
Học viên
Ngô Thị Tú Anh
-4-
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
3
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐỐI VỚI
NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG
1.1 Khái quát chung về tai nạn lao động và trách nhiệm của ngƣời sử
dụng với ngƣời lao động bị tai nạn lao động
1.1.1 Khái niệm về tai nạn lao động
8
8
8
1.1.2 Khái niệm về trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động
bị tai nạn lao động
11
1.2 Sự điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng đối
với ngƣời lao động bị tai nạn lao động
14
1.2.1 Khái niệm pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với
người lao động bị tai nạn lao động
14
1.2.2 Nguyên tắc pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động
đối với người lao động bị tai nạn lao động
15
1.2.3 Nội dung pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với người
lao động bị tai nạn lao động
17
1.3 Pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng đối với ngƣời lao
động bị tai nạn lao động của một số nƣớc trên thế giới và những gợi
mở cho Việt Nam
Kết luận chƣơng 1
21
25
CHƢƠNG 2:THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO
ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
26
2.1 Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng
đối với ngƣời lao động bị tai nạn lao động
26
2.1.1 Về trách nhiệm sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động
26
2.1.2 Về trách nhiệm trả lương cho người lao động bị tai nạn lao động
27
2.1.3 Về trách nhiệm của người sử dụng trong bồi thường và trợ cấp đối
với người lao động bị tai nạn lao động
29
2.1.4 Về trách nhiệm giới thiệu người lao động xác định mức độ suy giảm
khả năng lao động và các trách nhiệm khác
34
2.1.5 Về trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp sức khỏe người lao động
sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc
37
2.1.6 Về trách nhiệm thống kê, báo cáo tai nạn lao động
2.2 Thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng
đối với ngƣời lao động bị tai nạn lao động tại thành phố Hà Nội
2.2.1 Về thành công
2.2.2 Về hạn chế tồn tại
2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế trên
Kết luận chƣơng 2
39
42
42
45
55
56
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI
NẠN LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1 Yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng với ngƣời lao
động bị tai nạn lao động
57
57
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của
ngƣời sử dụng với ngƣời lao động bị tai nạn lao động
59
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
trách nhiệm của ngƣời sử dụng với ngƣời lao động bị tai nạn lao động tại
thành phố Hà Nội
64
Kết luận chƣơng 3
72
KẾT LUẬN
73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
75
-2-
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là bộ phận có vai trò quan trọng trong việc tạo ra của cải vật
chất cho xã hội, là “gốc, rễ” thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt như kinh tế,
văn hóa, xã hội, ngoại thương... Người sử dụng muốn mua sức lao động của
người lao động cần phải chú trọng quan tâm hàng đầu đến yếu tố con người,
phải đảm bảo an toàn về sức khỏe, vật chất, tinh thần của người lao động và
đặc biệt là bồi thường thỏa đáng khi tai nạn lao động xảy ra, như vậy mới thúc
đẩy người lao động hăng say làm việc, cống hiến và an tâm hơn vào công
việc, vào trách nhiệm của người sử dụng. Hiện nay, tai nạn lao động xảy ra
dưới rất nhiều dạng và bất ngờ, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình làm việc,
năng suất và hiệu quả công việc. Các tai nạn lao động như bị chết, bị chấn
thương, thương tật, sức khỏe suy giảm... đều hết sức nguy hiểm và đáng lo
ngại, cần có sự giám sát triệt để và củng cố, kiện toàn cơ sở vật chất - kĩ thuật
nhằm đảm bảo an toàn lao động, trên hết là có chế độ bồi thường thỏa đáng
cho người lao động khi gặp phải tình huống như vậy.
Pháp luật Việt Nam từ trước đến nay đã có sự quan tâm và đề cập đến
trách nhiệm của người sử dụng khi xảy ra tai nạn lao động, ngay từ sắc lệnh
số 29/SL ngày 12 tháng 3 năm 1947 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy định
về vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động. Đến bộ luật lao động đầu tiên
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Bộ luật Lao động năm 1994
(được sửa đổi các năm 2002, 2006, 2007, Bộ luật Lao động năm 2012) và
nhất là Bộ luật Lao động năm 2019 đã quy định hết sức chặt chẽ và cụ thể về
các vấn đề đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động. Ngoài ra, xuất phát từ
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta "sức lao động trong con người là vốn
quý" những quan điểm về an toàn vệ sinh lao động trong Bộ luật Lao động đã
được tách ra thành luật chuyên ngành. Đó là luật An toàn vệ sinh lao động đã
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
25/06/2015 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Tuy nhiên trong quá
trình thực thi, các quy định này vẫn còn bộc lộ nhiều lỗ hổng. Quy định về
-3-
trách nhiệm của người sử dụng chưa thực sự chặt chẽ, đầy đủ, đặc biệt nhận
thức của người dân về vấn đề này còn hạn chế, công tác giám sát chưa được
kiện toàn và siết chặt. Cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém dẫn đến thực hiện
và đảm bảo trách nhiệm còn coi nhẹ, lơ là. Vì vậy, nghiên cứu về trách nhiệm
của người sử dụng khi người lao động bị tai nạn lao động nhằm có hướng sửa
đổi, hoàn thiện khắc phục hạn chế là điều cần thiết. Chính vì điều đó tôi mạnh
dạn chọn đề tài: “Pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng đối với
ngƣời lao động bị tai nạn lao động và thực tiễn tại Thành phố Hà Nội”
làm chủ đề cho luận văn của mình nhằm góp thêm những đánh giá, phân tích,
nhận xét, góp phần củng cố và hoàn thiện về vấn đề, nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật trên thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật lao động trong nước và một số
quốc gia trên thế giới về vấn đề trách nhiệm của người sử dụng đối với người
lao động khi xảy ra tai nạn lao động. Trên thực tế, số lượng các bài viết, công
trình nghiên cứu về nội dung này tuy có nhưng không nhiều, các công trình
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những bài viết tạp chí hay luận văn thạc sĩ ở
một số khía cạnh khác nhau xoay quanh vấn đề tai nạn lao động như: Luận
văn thạc sĩ với đề tài: “Chế độ tai nạn lao động - Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện” của Phạm Thị Phương Loan, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2011;
Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” của Vũ Tuấn Đạt,
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2014; Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Chế độ
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” của Lục Thị
Thu Hòe, khoa Luật - trường Đại học Quốc Gia, năm 2015; Luận văn thạc sĩ
với đề tài: “Chế độ bảo hiểm xã hội với tai nạn lao động theo pháp luật Việt
Nam” của Phạm Đài Trang, Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam, năm 2017; Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Pháp luật về bồi
thường tai nạn lao động qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế” của Trần
Thanh Hải, Trường Đại học Luật – Đại học Huế, năm 2018; Luận văn thạc sĩ
với đề tài: “Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động
bị tai nạn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” của Nguyễn
-4-
Thị Mai Anh, Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Việt Nam, năm
2018; Bài viết: “Vấn đề bồi thiệt hại do bị tai nạn lao động” của tác giả Đỗ
Ngân Bình đăng trên Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số
6/2000; Bài viết: “Tiêu chí của pháp luật bồi thường tai nạn lao động” của tác
giả Lê Kim Dung đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 5/2011; Bài
viết: “Một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định về tai nạn lao động theo
quy định của pháp luật hiện hành” của Nguyễn Thị Bích đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân, Số 23/2017...
Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những khía cạnh khác
nhau có liên quan nhất định về trách nhiệm của người sử dụng đối với người
lao động khi xảy ra tai nạn lao động, tuy nhiên các công trình nghiên cứu về
vấn đề này còn tương đối hạn chế cả về số lượng cũng như tính mới. Đồng
thời những đề tài khoa học được nghiên cứu trực tiếp về trách nhiệm của
người sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động hiện tại chưa thực
sự phổ biến. Hơn nữa phần lớn các công trình nghiên cứu trước đây đã có
những “độ trễ” nhất định bởi quá trình thay đổi pháp luật diễn ra liên tục, đặc
biệt khi Quốc hội ban hành Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015.
Do vậy, luận văn đi sâu phân tích các quy định hiện hành của Bộ luật
lao động 2019, Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015, các văn bản hướng
dẫn và pháp luật một số quốc gia khác để có cái nhìn khái quát nhất, đánh giá
được ưu, nhược điểm và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực
trạng pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị
tai nạn lao động tại thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với
người lao động bị tai nạn lao động
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ
chính sau:
-5-
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm của
người sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm của người
sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động nhằm đánh giá tính hợp lí,
khả thi của các quy định này, đồng thời đi sâu làm rõ việc áp dụng thực hiện
quy định này tại địa bàn cụ thể là thành phố Hà Nội để rút ra được những giải
pháp thiết thực, có cơ sở và căn cứ khoa học.
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong việc
hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện trách nhiệm của người sử dụng đối
với người lao động bị tai nạn lao động một cách có hiệu quả.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về trách nhiệm của người
sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động trong pháp luật Việt Nam;
Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về an toàn vệ
sinh lao động tại thành phố Hà Nội, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về an toàn vệ sinh lao động tại thành
phố Hà Nội.
Trong một mức độ nhất định, luận văn có đề cập đến một số quy định
của Tổ chức lao động thế giới (ILO) và pháp luật lao động của một số nước
về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn
lao động.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là trách nhiệm của người sử dụng đối
với người lao động bị tai nạn lao động trong Bộ luật Lao động năm 2019 và
luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 và thực tiễn tại thành phố Hà Nội, giai
đoạn từ 2017-2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lenin và các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
-6-
Nhà nước ta về trách nhiệm của người sử dụng đối với vấn đề tai nạn lao
động. Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, luận văn sử dụng lồng ghép, tổng hợp
nhiều phương pháp như phương pháp so sánh khi so sánh quy định của các
giai đoạn khác nhau, phương pháp phân tích khi đánh gia quy định pháp luật,
liên hệ quy định hiện hành và quy định trước đây, phương pháp thống kê,
tổng hợp để nghiên cứu tình hình tai nạn lao động trên thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Các nghiên cứu, đánh giá, đề xuất trong luận văn này góp phần làm rõ
nội dung, những thành tựu và hạn chế trong các quy định pháp luật lao động
Việt Nam về trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai nạn
lao động đồng thời đánh giá tình hình thực thi các quy định trên thực tế tại
thành phố Hà Nội. Luận văn đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và
một số biện pháp bảo đảm thực thi các quy định của pháp luật về trách nhiệm
của người sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động trên thực tế.
Luận văn này có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập,
nghiên cứu khoa học cho người học, những nhà sử dụng lao động và những
người lao động cần tìm hiểu về pháp luật lao động về trách nhiệm của người
sử dụng đối với vấn đề tai nạn lao động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tai nạn lao động và pháp luật về
trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối
với người lao động bị tai nạn lao động và thực tiễn tại thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với
người lao động bị tai nạn lao động từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội.
-7-
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐỐI
VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG
1.1 Khái quát chung về tai nạn lao động và trách nhiệm của ngƣời sử
dụng với ngƣời lao động bị tai nạn lao động
1.1.1 Khái niệm về tai nạn lao động
1.1.1.1 Định nghĩa tai nạn lao động
Tai nạn lao động là nội dung đang còn có nhiều ý kiến khác nhau ở trong
nước và ở nhiều nước trên thế giới. Để có được một chính sách đúng đối với
người bị tai nạn lao động, mỗi quốc gia có những cách tiếp cận riêng và có
những quy định khác nhau về tai nạn lao động (kể cả khái niệm và nội dung).
Ban đầu, tai nạn lao động chỉ được hiểu là "Một sự việc không bình thường,
không mong muốn xảy ra" trong quá trình sản xuất. Khi nền công nghiệp phát
triển, nhất là các ngành công nghiệp khai khoáng, hầm mỏ, tai nạn lao động
xảy ra thường xuyên hơn và người sử dụng phải có trách nhiệm ràng buộc
chặt chẽ hơn với những tai nạn lao động của người công nhân, thì khái niệm
tai nạn lao động được hoàn thiện hơn. Đến nay, mặc dù vẫn còn có những
nhận thức khác nhau về tai nạn lao động, nhưng các quốc gia nói chung đã
thống nhất "tai nạn lao động là những tai nạn bất ngờ xảy ra trong quá trình
lao động, gây chết người hoặc làm tổn thương hoặc hủy hoại chức năng hoạt
động bình thường của một bộ phận nào đó của cơ thể con người".[39, tr.74]
Từ điển Sức khỏe môi trường và nghề nghiệp Lewis định nghĩa: tai nạn
lao động là một sự kiện không được lập kế hoạch, không biết trước và không
mong muốn có thể hoặc gây thiệt hại về thể chất và/hoặc phá hủy tài sản;
hoặc bất kỳ sự kiện nào không mong muốn gây trở ngại hoặc cản trở quy trình
sản xuất hoặc một quá trình. Từ điển Lewis khi định nghĩa về tai nạn lao động
đã tập trung vào ý chí của các chủ thể khi tai nạn lao động xảy ra – “không
mong muốn” và “không biết trước”, đồng thời cách định nghĩa này làm rõ hậu
quả gây ra từ tai nạn lao động, có thể là thiệt hại cho con người hoặc tài sản,
-8-
thiệt hại này có thể là thiệt hại thực tế hoặc “đe dọa” gây thiệt hại, thiệt
hại này tác động trực tiếp tới quá trình làm việc và sản xuất.
Tại khoản 8 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 định
nghĩa về tai nạn lao động như sau: “Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn
thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong
cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc
thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”. Quy định này được áp dụng đối
với cả người học nghề, tập nghề và thử việc. Người bị tai nạn lao động
phải được cấp cứu kịp thời và điều trị chu đáo.
Giáo trình Luật lao động của Trường Đại học Luật Hà Nội lại định
nghĩa tai nạn lao động như sau: tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương
cho bất kì bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người
lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn với việc thực hiện công
việc, nhiệm vụ lao động kể cả trong thời gian nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn
bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh...
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tai nạn lao động là làm việc không đảm bảo
an toàn lao động [34, tr. 436]. Khái niệm này khá đầy đủ, bao quát, toàn
diện là cơ sở xác định tai nạn lao động được đúng hướng, hiệu quả. Quan
điểm của giáo trình đã xoáy sâu trọng tâm, xác định thời gian, địa điểm,
phạm vi... xảy ra tai nạn lao động làm cơ sở khoa học cho việc xác định
và giải quyết tai nạn lao động.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tai nạn lao động nhưng
nhìn chung đều thống nhất cách hiểu tai nạn lao động là những tai nạn xảy
ra bất ngờ, con người không thể dự báo trước về không gian và thời gian,
gắn với quá trình làm việc của người lao động trong một khoảng thời gian
và không gian cụ thể, để lại hậu quả chết người hoặc làm tổn thương, hủy
hoại chức năng hoạt động bình thường của một bộ phận nào đó trên cơ thể
người lao động. Có thể nói, so với quan điểm của thế giới thì cách định
nghĩa về tai nạn lao động của Việt Nam trong văn bản pháp lý đã khá đầy
đủ, chính xác và rõ ràng.
-9-
1.1.1.2 Đặc điểm của tai nạn lao động
Thứ nhất, về chủ thể: Người bị tai nạn lao động là người lao động làm
việc trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, làm việc theo hợp
đồng lao động xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn, tuân thủ nội
quy, quy định của công ty và đóng góp trực tiếp công sức của mình vào sự phát
triển của công ty.
Thứ hai, tai nạn lao động ảnh hưởng trực tiếp và để lại hậu quả nghiêm
trọng về sức khỏe, vật chất cũng như tinh thần cho người lao động, gây ra tổn
thương như: gãy chân tay, chấn thương cùng với những thiệt hại về của cải
vật chất. Có thể nói, hậu quả của tai nạn lao động là những rủi ro mà người sử
dụng và người lao động đều không mong muốn xảy ra. Thực chất tai nạn lao
động không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động mà còn tác động xấu
đến quá trình vận hành sản xuất của đơn vị sử dụng lao động.
Thứ ba, tai nạn lao động xảy ra một trong ba nơi sau đây: tại nơi làm việc,
ngoài địa điểm làm việc, trên tuyến đường từ nơi ở đến nơi làm việc và
ngược lại. Ngoài những địa điểm trên thì không được coi là địa điểm xảy
ra tai nạn lao động. Việc xác định địa điểm xảy ra tai nạn lao động là căn
cứ quan trọng để người sử dụng cũng như cơ quan chức năng có thẩm
quyền thực hiện các trách nhiệm của mình. Việc xác định địa điểm xảy ra
tai nạn lao động có yếu tố gắn với việc thực hiện công việc mà người sử
dụng giao cho mang tính chất tiên quyết, trên cơ sở tình hình thực tế thì
địa điểm nảy có thể xác định một cách linh hoạt như trên tuyến đường đi
và về hợp lý từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại. Điều này góp phần
bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho người lao động khi xảy ra các sự kiện tai nạn
lao động không mong muốn.
Thứ tư, về yếu tố thời gian trong tai nạn lao động thì đó là khoảng thời
gian gắn liền với địa điểm xảy ra tai nạn lao động, có thể là trong giời làm
việc hoặc trong giờ nghỉ giải lao. Thời giờ làm việc được xác định cụ thể là
ban ngày hoặc ban đêm, không quá 8 giờ/ngày và 48 giờ/tuần (không tính
thời giờ khác). Thời gian xảy ra tai nạn lao động còn được tính từ là thời gian
- 10 -
ngoài giờ làm việc khi người lao động thực hiện yêu cầu của người sử dụng,
đang trên đường đi làm hoặc trên đường về nhà.
Thứ năm, tai nạn lao động không chỉ phát sinh từ các yếu tố độc hại, nguy
hiểm trong thời gian làm việc mà còn có thể do các trở ngại khách quan như
hỏa hoạn, động đất, dịch bệnh... Các yếu tố này mặc dù không phát sinh từ
công việc mà do các yếu tố thiên tai từ thiên nhiên tác động nhưng nếu nó ảnh
hưởng, gây thiệt hại, tổn thất cho người lao động thì cũng được coi là tai nạn
lao động, miễn là tai nạn xảy ra khi người lao động đang làm việc, thực hiện
yêu cầu công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động.
Như vậy, có thể nói, dấu hiệu quan trọng nhất để xác định tai nạn lao động
là tai nạn đó luôn gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ của người
lao động. Chỉ được coi là tai nạn lao động khi tai nạn đó xảy ra trong quá
trình người lao động thực hiện các nghĩa vụ lao động được pháp luật quy
định, theo nội quy, quy chế của đơn vị sử dụng hoặc theo sự thỏa thuận của
hai bên trong thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động…Vì vậy, tai nạn
lao động bao gồm những đặc điểm trên, đặc điểm nào cũng quan trọng và là
cơ sở để xác định tai nạn lao động và có được mức bồi thường đúng đắn, thỏa
đáng cho người lao động trên thực tế.
1.1.2 Khái niệm trách nhiệm của ngƣời sử dụng đối với ngƣời lao động
bị tai nạn lao động
1.1.2.1. Định nghĩa trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao
động bị tai nạn lao động
Trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao
động được hiểu là những nghĩa vụ, trách nhiệm mà người sử dụng phải thực
hiện đầy đủ các chế độ đối với người bị tai nạn lao động, thực hiện việc khai
báo, điều tra, thống kê, báo cáo tai nạn lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an
toàn nghiêm trọng và tình hình thực hiện công tác bảo hộ lao động. Khi xảy ra
tai nạn lao động, một trong những nội dung quan trọng đó là việc giải quyết
các chế độ tai nạn lao động đó. Việc giải quyết tai nạn lao động này cần phải
đảm bảo quyền lợi của người lao động, hạn chế thấp nhất hậu quả xảy ra cho
- 11 -
các bên trong quan hệ lao động và bên thứ ba, đồng thời để Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực lao động.
Do đó, để giải quyết tai nạn lao động, đầu tiên cần xác định được tai
nạn đó có phải là tai nạn lao động hay không? Việc xác định này dựa trên tình
hình thực tế về người bị tai nạn, hậu quả của tai nạn, địa điểm, thời gian,
nguyên nhân xảy ra tai nạn... Có như vậy, quyền lợi của người lao động bị tai
nạn lao động sẽ được bảo vệ tối đa.
1.1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm người sử dụng đối với người lao động bị
tai nạn lao động
Thứ nhất, trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai
nạn lao động là nghĩa vụ của người sử dụng trong quan hệ lao động. Nhằm
bảo vệ quyền lợi cho người lao động, đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe
của người lao động, pháp luật quy định những trách nhiệm của chủ sử dụng
lao động, buộc chủ sử dụng phải thực hiện khi người lao động bị tai nạn lao
động. Do đó, khi người sử dụng vi phạm việc thực hiện những trách nhiệm
đối với người lao động bị tai nạn lao động sẽ bị áp dụng những chế tài theo
quy định pháp luật hiện hành.
Thứ hai, trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai
nạn lao động chỉ áp dụng với người lao động thuộc quyền quản lý, sử dụng
của chủ sử dụng lao động. Đó là những trường hợp người lao động làm việc
theo chế độ hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân, người thử việc, người học nghề, tập nghề để làm việc cho chủ sử
dụng lao động. Bởi lẽ, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng với người lao
động chỉ phát sinh trong quan hệ lao động, nếu người lao động đó không
thuộc quyền quản lý, sử dụng của người sử dụng lao động này thì người sử
dụng sẽ không có trách nhiệm với người lao động đó.
Thứ ba, trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai
nạn lao động chỉ phát sinh khi người lao động bị tai nạn lao động. Rõ ràng,
trong quan hệ lao động, chỉ khi người lao động bị tai nạn lao động, người sử
dụng mới phát sinh trách nhiệm giải quyết các chế độ cho người lao động. Do
- 12 -
đó, yếu tố tai nạn lao động là điều kiện tiên quyết để phát sinh trách nhiệm
của người sử dụng đối với người lao động. Trường hợp tai nạn đó không được
xác định là tai nạn lao động, thì sẽ không phát sinh trách nhiệm của người sử
dụng đối với người lao động.
Thứ tư, trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai
nạn lao động gắn liền với các chế độ mà người sử dụng phải thực hiện đối với
người lao động khi bị tai nạn lao động. Khi người lao động gặp sự cố, bị tai
nạn lao động thì người sử dụng phải có những trách nhiệm nhất định nhằm
bảo vệ, bồi thường một cách thỏa đáng cho người lao động, giúp họ ổn định
chỗ ăn ở, có tiền trang trải sinh hoạt. Cụ thể, người lao động khi bị tai nạn lao
động sẽ được sơ cứu, cấp cứu; được trả lương, bồi thường, trợ cấp; được giới thiệu
đi xác định mức độ suy giảm khả năng lao động; được sắp xếp công việc phù hợp
với sức khỏe sau khi điều trị phục hồi chức năng…
1.1.2.3. Vai trò về trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị
tai nạn lao động
Trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao
động đóng vai trò rất quan trọng, bởi lẽ, trách nhiệm này nhằm bảo vệ quyền
lợi cho người lao động, đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe của người
lao động. Việc trả lương, trợ cấp, bồi thường một cách thỏa đáng cho người
lao động khi bị tai nạn lao động, giúp họ yên tâm, ổn định chỗ ăn ở, có tiền trang
trải sinh hoạt, tiếp tục sống và lao động.
Quy định pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao
động bị tai nạn lao động có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo nên một hành lang
pháp lý trong quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng, đặc
biệt là khi xảy ra tai nạn lao động.
Hơn nữa, quy định này còn thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu
sắc, giúp chủ thể nhận thức được và hạn chế hành vi vi phạm của mình.
Trách nhiệm của người sử dụng được luật hóa nhằm giúp người lao động
bị tai nạn lao động tái hòa nhập với cộng đồng, tiếp tục được đóng góp
công sức cho chủ sử dụng lao động.
- 13 -
Mặt khác, quy định pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với
người lao động bị tai nạn lao động còn là chế tài xử lý hành vi vi phạm, hành
vi gây thiệt hại cho người lao động của người sử dụng, là cơ chế giải quyết ổn
thỏa, điều tiết mâu thuẫn giữa người sử dụng và người lao động, xây dựng
quan hệ tốt đẹp, công bằng, tạo ra môi trường lao động bình đẳng, khách
quan và nhân văn.
Quy định pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với người
lao động bị tai nạn lao động được quy định một cách cụ thể, rõ ràng còn tạo
sức răn đe với người sử dụng, giúp người sử dụng thấy rõ nhiệm vụ, những
trách nhiệm, những việc cần phải làm, những việc bị cấm... nhằm tạo ra sự hài
hòa, nhất quán, hạn chế triệt để hành vi vi phạm của người sử dụng. Quy định
này còn thể hiện sự tôn trọng người lao động, quan hệ lao động, giúp cho
người lao động thêm phần an tâm khi thực hiện, hoàn thành công việc, tin
tưởng vào người sử dụng từ đó tích cực hăng say, cống hiến sức lao động của
mình vào quá trình lao động, an tâm vì đã có cơ chế bảo vệ một khi tai nạn
xảy ra.
1.2 Sự điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng đối
với ngƣời lao động bị tai nạn lao động
1.2.1 Khái niệm pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng đối với
ngƣời lao động bị tai nạn lao động
Trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động
được pháp luật lao động quy định khá chặt chẽ và đầy đủ. Theo đó, người sử
dụng phải sơ cứu, cấp cứu cho người lao động, thanh toán chi phí và những
chi phí y tế không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người
lao động tham gia bảo hiểm y tế, thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu,
cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người không tham gia bảo hiểm y tế.
Trong thời gian người lao động phải nghỉ việc để điều trị, người sử dụng phải
trả đủ tiền lương theo hợp đồng. Người sử dụng cũng phải bồi thường cho
người lao động bị tai nạn lao động áp dụng đối với những người bị suy giảm
khả năng lao động ở một mức độ nhất định, mức bồi thường phụ thuộc vào lỗi
- 14 -
và mức suy giảm khả năng lao động. Ngoài ra, khi người lao động bị tai nạn
lao động, pháp luật còn quy định cụ thể về thời hạn bồi thường, trợ cấp mà
người sử dụng phải có trách nhiệm với người lao động. Ngoài ra, nhằm đảm
bảo quyền lợi cho người lao động, đối với trường hợp người lao động thuộc
đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà người sử dụng không tham
gia bảo hiểm xã hội cho người lao động thì người sử dụng phải trả khoản tiền
tương ứng với chế độ quy định của luật Bảo hiểm xã hội. Việc chi trả do các
bên thỏa thuận, có thể thực hiện một lần hoặc hàng tháng.
Pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động bị tai
nạn lao động là tổng thể các quy định về trách nhiệm của người sử dụng đối
với người lao động bị tai nạn lao động, gồm các quy định về trách nhiệm giúp
lao động có tiền trang trải sinh hoạt, ổn định cuộc sống, trách nhiệm giới thiệu
người lao động đi giám định, xác định thương tật và trách nhiệm vật chất (bồi
thường) cho người lao động khi gặp tai nạn lao động... Pháp luật về trách
nhiệm của người sử dụng gồm tổng hợp các quy định, các chế tài mang tính
răn đe, làm gương nhằm tạo sự nghiêm túc tuân thủ, chấp hành pháp luật
trong mỗi một quan hệ lao động, đặc biệt là đối với những người sử dụng.
Điều này là một tiền đề quan trọng góp phần tạo ra thị trường lao động minh
bạch, hài hòa và bình đẳng.
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng đối
với ngƣời lao động bị tai nạn lao động
Quy định pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao
động bị tai nạn lao động được điều chỉnh trên nguyên tắc quyền uy, có tính
bắt buộc thi hành. Pháp luật quy định những trách nhiệm mà người sử dụng
bắt buộc phải đảm bảo với người lao động bị tai nạn lao động, người sử dụng
không có quyền lựa chọn thực hiện hay không thực hiện, hoặc mức độ thực
hiện đến đâu. Điều này nhằm đảm bảo những quyền lợi cơ bản của người lao
động trong quan hệ lao động. Được làm việc trong điều kiện an toàn lao động,
vệ sinh lao động là quyền của người lao động được nhà nước quan tâm thực
hiện, pháp luật cũng quy định nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong việc
- 15 -
đảm bảo công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động. Điều đó cho thấy tầm
quan trọng và sự cần thiết bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho người lao động khi
tham gia quan hệ lao động. Chính sách, chế độ an toàn lao động, vệ sinh lao
động được quy định tương đối toàn diện trong luật lao động từ các biện pháp
để phòng ngừa, ngăn chặn tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (trang bị
phương tiện bảo vệ cá nhân, huấn luyện về an toàn lao động, chăm sóc sức
khoẻ...) cũng như biện pháp khắc phục khi xảy ra tai nạn lao động. Do vậy,
khi người sử dụng không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm đối với người lao
động bị tai nạn lao động, người sử dụng sẽ phải chịu những chế tài xử phạt
theo quy định của pháp luật.
Một là, người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra tai
nạn lao động theo quy định của pháp luật. Người lao động bị tai nạn lao động
phải được cấp cứu kịp thời và điều trị chu đáo. Trường hợp xảy ra tai nạn lao
động chết người hoặc làm nhiều người bị thương nặng thì phải giữ nguyên
hiện trường nơi xảy ra tai nạn và báo ngay với cơ quan thanh tra nhà nước về
an toàn lao động. Trong thời gian người lao động phải nghỉ việc điều trị tai
nạn lao động người sử dụng lao động phải trả đủ lương và toàn bộ chi phí y
tế. Sau khi điều trị, người lao động được giám định để xếp hạng thương tật,
xác định mức độ suy giảm khả năng lao động để giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Hai là, người sử dụng lao động có trách nhiệm thanh toán phần chi phí
đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế
chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ
chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao
động không tham gia bảo hiểm y tế. Việc Nhà nước chỉ yêu cầu người sử
dụng lao động thanh toán một phần chi phí y tế đối với người lao động có
tham gia bảo hiểm y tế là phù hợp bởi lẽ người lao động và người sử dụng lao
động đã đóng góp vào quỹ bảo hiểm y tế, do đó cơ quan bảo hiểm xã hội phải
có trách nhiệm thanh toán một phần chi phí y tế cùng với người sử dụng lao
- 16 -
- Xem thêm -