VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH
PHÁP LUẬT VỀ THUẾ XUẤT KHẨU
TỪ THỰC TIỄN CỤC HẢI QUAN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH
PHÁP LUẬT VỀ THUẾ XUẤT KHẨU
TỪ THỰC TIỄN CỤC HẢI QUAN TỈNH ĐẮK LẮK
Ngành: Luật kinh tế
Mã số : 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi.
Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Khánh Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CHUNG VỀ THUẾ XUẤT
KHẨU........................................................................................................... 6
1.1. Những vấn đề lý luận về pháp luật thuế xuất khẩu ............................... 6
1.2. Lý luận pháp luật về thuế xuất khẩu ................................................... 11
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU Ở VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI CỤC HẢI QUAN TỈNH ĐẮK
LẮK ............................................................................................................ 22
2.1. Thực trạng pháp luật thuế xuất khẩu ở Việt Nam ............................... 22
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật thuế xuất khẩu qua thực tiễn ở Cục Hải
quan tỉnh Đắk Lắk .................................................................................... 29
2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật thuế xuất khẩu tại Cục Hải quan
tỉnh Đắk Lắk............................................................................................. 51
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU .......................................................... 61
3.1. Quan điểm, yêu cầu hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu ................... 61
3.2. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu .... 63
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thuế xuất khẩu ........ 69
KẾT LUẬN ................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTNT
: Đối tượng nộp thuế
NSNN
: Ngân sách nhà nước
NNT
: Người nộp thuế
XK
: Xuất khẩu
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu tổ chức của Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk ................. 36
Bảng 2.2 Số liệu kết quả chống buôn lậu, gian lận thương mại năm
2015 – 2018 ................................................................................................. 40
Bảng 2.3: Số liệu thu NSNN của Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk từ năm
2014 – 2018 ................................................................................................. 43
Bảng 2.4: Kim ngạch xuất nhập khẩu từ năm 2015 – 2018 ................ 45
Bảng 2.5: Số thuế nợ đọng từ năm 2015 – 2018 ................................ 46
Bảng 2.6: Số liệu kiểm tra sau thông quan từ năm 2015 – 2018.......... 47
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, nguồn thu thuế từ hoạt động xuất
khẩu luôn chiếm vai trò quan trọng nhằm duy trì sự cân đối ngân sách, đảm
bảo đáp ứng tốt các nhu cầu hoạt động của bộ máy nhà nước. Luật Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 được Quốc hội XI thông qua ngày
14/6/2005 có hiệu lực ngày 1/1/2006. Sau hơn 10 năm thực thi, Luật đã đem
lại nhiều kết quả đáng ghi nhận, cụ thể: Luật đã tạo ra khuôn khổ pháp lý, góp
phần quan trọng trong thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, phù hợp với tiến
trình cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2005 đến 2015; Các
quy định tại Luật đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu (XK) phát
triển, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đồng thời, bảo hộ hợp lý, có điều kiện, có chọn lọc đối với một số
nhóm mặt hàng, ngành nghề phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và hạn
chế nhập khẩu (NK) các hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, hàng hóa tiêu
dùng không khuyến khích NK, góp phần hạn chế nhập siêu.
Cùng với đó, tỷ trọng số thu thuế XK trong tổng thu ngân sách nhà
nước qua các năm giảm do thực hiện các cam kết quốc tế nhưng số thu vẫn
góp phần điều chỉnh cơ cấu thu ngân sách nhà nước theo hướng bền vững và
phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong chống gian lận thương mại,
chống thất thu thuế...
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, Luật thuế XK năm 2005
cũng đã bộc lộ một số hạn chế, không phù hợp với diễn biến thực tế phát triển
kinh tế và hội nhập quốc tế của đất nước. Một số nội dung quy định tại Luật
không còn phù hợp với quy định của hệ thống pháp luật nói chung và một số
luật liên quan như Luật Quản lý thuế, Luật Hải quan, Luật Đầu tư, Luật Bảo
1
vệ môi trường… và thực tiễn XK hàng hóa những năm gần đây, đặc biệt là
trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế và triển khai mạnh mẽ
công tác cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020. Trước yêu cầu đổi mới,
phát triển, hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế cần phải sửa đổi Luật thuế XK
cho phù hợp với thực tiễn, ngày 6/4/2016, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế
XK khẩu sửa đổi, thay thế Luật Thuế XK khẩu năm 2005.
Thời gian qua pháp luật về thuế xuất khẩu (XK) ở nước ta nói chung
và Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk nói riêng đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ, tuy nhiên trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện
nay, Việt Nam sẽ phải cắt giảm đáng kể hàng rào thuế xuất khẩu. Thuế xuất
khẩu là loại thuế có liên quan đến yếu tố nước ngoài, đồng thời ảnh hưởng lớn
đến vấn đề tự do hóa thương mại. Vì thế bất kỳ một quốc gia nào chấp nhận
con đường hội nhập đều phải chấp nhận ràng buộc mình với các cam kết quốc
tế, mà nội dung chủ yếu của các cam kết đó là dỡ bỏ hàng rào thương mại,
đặc biệt là hàng rào thuế xuất khẩu. Ngoài WTO, Việt Nam còn phải thực
hiện nhiều lộ trình cắt giảm thuế để tham gia các khu vực mậu dịch tự do như:
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); khu vực mậu dịch tự do
ASEANTrung Quốc (ACFTA); khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối
tác khác như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc-Newzealand. Trong bối cảnh
đó, pháp luật về thuế XK là một vấn đề cần phải có sự quan tâm thích đáng.
Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk là tổ chức thực hiện pháp luật về hải quan
trên địa bàn 03 tỉnh Tây nguyên gồm Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng điều
kiện kinh tế - xã hội còn chậm phát triển, nguồn thu từ thuế XK là một trong
những nguồn thu chủ yếu trên địa bàn 03 tỉnh. Vì vậy, thu thuế XK là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của Cục Hải quan tỉnh Đắk
Lắk. Trong bối cảnh đó, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về thuế
xuất khẩu từ thực tiễn Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk”, để đáp ứng được yêu
2
cầu cấp thiết từ thực tế thu thuế XK tại Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đề tài về pháp luật thuế XK đã và đang được nhiều tổ chức, cá nhân
liên quan nghiên cứu đến ở nhiều góc độ khác nhau như:
- Đề tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đối với hàng hoá xuất nhập
khẩu ngành Hải quan”, Luận văn thạc sỹ Kinh tế của Dương Phú Đông, Đại
học Kinh tế quốc dân năm 2008;
- Đề tài: “Tiếp tục cải cách, hiện đại hoá Hải quan Việt Nam đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sỹ Kinh tế của Nguyễn Ngọc
Túc, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội năm 2007;
- Đề tài: “Các giải pháp tăng cường quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu trong tiến trình gia nhập AFTA của Việt nam”, Luận án tiến sỹ Kinh tế
của Nguyễn Danh Hưng, Học viện Tài chính năm 2003.
- Đề tài: “Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của
ngành Hải quan hiện nay”, Luận án thạc sỹ Kinh tế của Trần Thành Tô, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006.
Nhìn chung, các đề tài và tài liệu trên đều có đề cập ở những mức độ
nhất định về pháp luật thuế XK, chống thất thu thuế XK của ngành Hải quan.
Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào dưới dạng luận văn thạc sỹ và
luận án tiến sỹ nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về đề tài pháp luật về
thuế xuất khẩu từ thực tiễn Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk, ở góc độ Luật kinh tế.
Do vậy, tác giả đã chọn đề tài làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Kinh
tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn khái quát thực trạng pháp luật về thuế XK ở Việt Nam và tập
trung làm rõ thực tiễn thi hành tại Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk trong thời gian
3
qua. Từ đó luận văn đề xuất kiến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp
luật thuế xuất khẩu và nâng cao hiệu quả thực hiện thuế xuất khẩu tại Cục Hải
quan tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật thuế XK:
khái niệm thuế xuất khẩu; vai trò của thuế xuất khẩu.
- Phân tích đánh giá khái quát các quy định của pháp luật thuế xuất
khẩu và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế XK tại Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk,
rút ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện pháp
luật thuế xuất khẩu.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu pháp luật thuế xuất khẩu, các cam kết quốc
tế về lĩnh vực này mà Việt Nam đã ký kết, tham gia cũng như một số quy định
liên quan về pháp luật thuế XK; thực tiễn thi hành pháp luật thuế xuất khẩu tại
Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nội dung pháp luật thuế xuất khẩu và
thực tiễn thi hành pháp luật thuế xuất khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk từ
năm 2014 - 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, nhà
nước về xuất khẩu và pháp luật thuế XK.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
4
Tác giả luận văn sử dụng đồng bộ các phương pháp tổng hợp, thống kê,
so sánh, phân tích. Luận văn bám sát quan điểm, đường lối đổi mới, chính
sách của Đảng, Nhà nước về thuế. Đồng thời tham khảo có chọn lọc, kế thừa
các công trình khoa học đã công bố của các tác giả có liên quan đến đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn cung cấp thêm dẫn chứng về thực trạng thu thuế XK qua
thực tiễn thu thuế XK của một đơn vị là Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk từ năm
2015 - 2018.
- Luận văn cũng cấp một số luận cứ khoa học cho các giải pháp cơ bản
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thu thuế XK ở Cục Hải quan tỉnh
Đắk Lắk.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề pháp lý chung về pháp luật thuế xuất khẩu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật thuế xuất khẩu ở Việt Nam và thực
tiễn thi hành tại Cục Hải quan tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế
xuất khẩu.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CHUNG VỀ THUẾ XUẤT KHẨU
1.1. Những vấn đề lý luận về pháp luật thuế xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm, tính chất, đặc điểm pháp luật thuế xuất khẩu
+ Khái niệm thuế xuất khẩu: Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn
đến các quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày
càng tăng. Mỗi một quốc gia độc lập có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế
thu vào hàng hoá xuất khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước mình. Thuế này
được gọi chung là thuế xuất khẩu.
Thuế xuất khẩu là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành nên giá
cả hàng hóa, áp dụng cho tất cả hàng hóa được phép xuất khẩu qua cửa khẩu,
biên giới của một quốc gia hoặc từ thị trường nội địa vào khu phi thuế quan,
khu chế xuất hoặc ngược lại.
Ðối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế xuất khẩu thường là quan hệ
thu nộp thuế xuất khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá
được phép xuất khẩu qua cửa khẩu, biên giới, kể cả hàng hoá từ thị trường
trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong
nước.
Thuế xuất khẩu đối với hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu.
Còn đối với các loại hàng hoá khác thì tùy theo từng trường hợp mà thuế xuất
khẩu có tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
Trên cơ sở nghiên cứu sự ra đời của pháp luật thuế XK cùng như các
quan niệm về thuế XK ở các góc độ nghiên cứu khác nhau, có thể hiểu khái
niệm chung về thuế XK như sau: Thuế XK là một phần thu nhập được tạo ra
từ các hoạt động XK hàng hoá mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải đóng
góp cho Nhà nước theo quy định của pháp luật thuế XK nhằm đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước.
6
+ Tính chất của pháp luật thuế XK:
Pháp luật thuế XK là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện
chính sách kinh tế của mình, quản lý các hoạt động XK, mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất XK. Căn cứ vào từng
giai đoạn lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước mà thuế quan
được sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất
có thể nhận thấy rằng tính chất của pháp luật thuế XK được thể hiện ở các
khía cạnh sau:
Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng pháp luật thuế XK để tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước, Thuế XK là loại thuế dễ thu nhất, ít bị
phản ứng từ phía trong nước, thậm chí còn được sự ủng hộ của nhiều người.
Pháp luật quy định thuế XK cấu thành trong giá cả hàng hóa, làm tang
giá hàng hóa, đo đó có tác dụng điều tiết XK và hướng dẫn tiêu dung, bởi vì
lượng hàng hóa XK phụ thuộc vào sức tiêu thụ hàng hóa, yếu tố này phụ
thuộc vào giá cả. Gía cả hang hóa cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc
tăng sức cạnh tranh của hàng hóa đó trên thị trường. Thông qua thuế XK nhà
nước điều tiết việc XK hàng hóa.
Pháp luật thuế XK bảo hộ nền sản xuất trong nước. Là công cụ để nhà
nước thực hiện chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại đối với
các nước. Chẳng hạn Mỹ đòi EU phải giảm từ 30 – 50% trợ cấp cho nông
nghiệp, nếu không Mỹ sẽ tang mức thuế đánh vào hàng hóa nông sản của EU
nhập khẩu vào thị trường Mỹ.
Pháp luật thuế XK góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa
Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Đặc điểm của pháp luật thuế XK: thuế XK cũng có những đặc điểm
của thuế nói chung đó là:
7
Thứ nhất, pháp luật thuế XK phản ánh và thể hiện quyền lực nhà nước.
Nhà nước là người duy nhất có quyền đặt ra pháp luật thuế XK và thu thuế
XK; qua đó nhà nước kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động XK hàng hoá
và bảo hộ nền sản xuất trong nước, đồng thời để tạo nguồn thu cho
NSNN.
Thứ hai, pháp luật thuế XK mang tính pháp lý cao. Thuế là khoản đóng
góp bắt buộc cho nhà nước mà không có sự bồi hoàn trực tiếp nào, việc nộp
thuế được thể chế bằng pháp luật mà mọi pháp nhân và thể nhân phải tuân
theo.
Thứ ba, pháp luật thuế XK chứa đựng các yếu tố - kinh tế, xã hội. Điều
này được thể hiện ở chỗ thuế XK là một phần của cải của xã hội, mức huy
động thuế XK vào ngân sách nhà nước phụ thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế
của đất nước, nhu cầu chi tiêu của nhà nước và các mục tiêu –kinh tế, xã hội
của đất nước đặt ra trong mỗi thời kỳ.
Ngoài những đặc điểm chung, pháp luật thuế xuất khẩu còn có đặc
điểm riêng là:
- Thuế XK chỉ đánh vào hàng hoá được phép XK qua biên giới của một
nước, kể cả hàng hoá được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế
quan và khu phi thuế quan đưa vào tiêu thụ trong nước.
- Thuế XK là một loại thuế gián thu. Nhà nước sử dụng thuế XK để
điều chỉnh hoạt động xuất khẩu thông qua việc tác động vào cơ cấu giá cả của
hàng hóa XK. Vì vậy, thuế XK là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa
XK, người nộp thuế là người thực hiện hoạt động XK hàng hóa; người chịu
thuế là người tiêu dùng hàng hóa XK. Nhà nước thu thuế XK của người tiêu
dùng gián tiếp thông qua người cung cấp hàng hóa XK.
1.1.2. Vai trò của pháp luật thuế xuất khẩu
Thuế luôn là nguồn thu quan trọng và chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số
thu ngân sách nhà nước của hầu hết các quốc gia. Nguồn huy động tập trung
8
thông qua thuế là một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân. Nhờ đó, một bộ phận thu nhập của xã hội được tập trung vào
NSNN để đảm bảo nhu cầu chi tiêu, giúp nhà nước thực hiện các chức năng
và nhiệm vụ của mình. Nguồn thu thuế xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nguồn thu ngân sách quốc gia. Đảm bảo nguồn thu từ thuế xuất
khẩu là vai trò quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
nhà nước cần phải tăng thu thuế xuất khẩu bằng mọi giá. Một tỷ lệ thu thuế
xuất khẩu hợp lý và ổn định sẽ vừa kích thích nền kinh tế phát triển, hiệu quả
vừa đảm bảo nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Vì
vậy, vai trò của pháp luật thuế xuất khẩu là một trong những vai trò quan
trọng.
+ Kiểm soát và điều tiết hàng hóa xuất khẩu
Kiểm soát hàng hóa xuất khẩu là mục tiêu chủ chốt của mỗi quốc gia,
đặc biệt trong xu thế tự do hóa thương mại trên phạm vi khu vực và thế giới.
Thông qua việc thực hiện pháp luật thuế xuất khẩu cơ quan nhà nước sẽ quản
lý được số lượng, loại hình hàng hóa thực xuất khẩu, từ đó kiểm soát được tất
cả hàng hóa xuất khẩu ra khỏi biên giới quốc gia. Đây là cơ sở quan trọng để
nhà nước đưa ra chính sách, pháp luật phù hợp đối với hoạt động xuất khẩu,
cho phép xuất khẩu hàng hóa nào, cấm xuất khẩu hàng hóa nào.
+ Thực hiện các chính sách đối ngoại
Một trong những vai trò không kém phần quan trọng của pháp luật thuế
xuất khẩu là việc thực hiện các chính sách đối ngoại. Đây là một biện pháp
quản lý tiến bộ thay vì sử dụng những biện pháp phi thuế quan như cấm nhập
khẩu. Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện điều chỉnh cơ cấu xuất nhập
khẩu theo định hướng phát triển kinh tế, xã hội thì nhà nước sẽ sử dụng công
cụ thuế quan theo hướng có lợi cho nền kinh tế là một chính sách phù hợp,
góp phần cân bằng cán cân thương mại và ổn định được cán cân thanh toán
9
quốc tế. Để xác định mức độ chịu thuế của các hàng hóa khác nhau, mỗi nước
đều xây dựng một biểu thuế quan. Biểu thuế quan là một bảng tổng hợp quy
định một cách có hệ thống các mức thuế quan đánh vào các loại hàng hóa
chịu thuế khi xuất khẩu. Biểu thuế quan có thể được xây dựng dựa trên
phương pháp tự định hoặc phương pháp thương lượng giữa các quốc gia. Vì
vậy, pháp luật thuế xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính
sách đối ngoại với từng quốc gia.
1.1.3. Tác động của pháp luật thuế xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc
dân
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự tác động của
pháp luật thuế XK đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ngày càng
trở nên sâu sắc. Sự tác động thể hiện ở hai khía cạnh: Điều chỉnh hoạt động
sản xuất kinh doanh, quản lý và định hướng phát triển kinh tế; Đảm bảo sự
bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh và công bằng xã hội.
Việc tăng cường vai trò kinh tế, xã hội của nhà nước dẫn đến tốc độ chi
tiêu của nhà nước ngày càng tăng lên. Điều này đòi hỏi nhà nước phải mở
rộng quỹ tài chính, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế, trong đó có thuế XK.
Nhu cầu về nguồn tài chính càng lớn thì nhà nước cần phải tăng cường chức
năng của thuế, chính trong quá trình đó, chức năng điều chỉnh của thuế
được phát huy hiệu quả. Nhà nước có thể sử dụng công cụ thuế XK để kích
thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của hoạt động XK. Thuế XK được sử
dụng để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể. Với công cụ này, sự can
thiệp của nhà nước không còn mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể
phải kinh doanh hay không kinh doanh, mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với
các chủ thể kinh doanh. Đồng thời hệ thống pháp luật về thuế XK được áp
dụng chung cho các thành phần kinh tế kinh doanh trong các lĩnh vực khác
nhau, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Điều này
10
được thể hiện thông qua chính sách khuyến khích giống nhau giữa các đơn vị,
cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống
nhau.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng pháp luật về
thuế XK theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hoá cơ cấu hệ thống thuế và
thuế suất.
1.2. Lý luận pháp luật về thuế xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế xuất khẩu
Giống như các chế định pháp luật khác, pháp luật thuế xuất khẩu bao
gồm hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị để điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp sinh trong quá trình thu thuế của các
cơ quan nhà nước đối với hành vi xuất khẩu của các chủ thể và đối tượng
hàng hóa được xuất khẩu qua cửa khẩu, biên giới quốc gia hoặc qua chuyển
từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan.
Pháp luật thuế XK có thể được tiếp cận ở nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở
nghĩa rộng nhất, pháp luật thuế XK là hệ thống bao gồm tổng hợp các quy
phạm do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình đặt ra luật thuế XK (hoạt động lập pháp), thu thuế
XK, phân chia và sử dụng tiền thu được từ thuế XK giữa các cấp ngân sách và
giữa các đơn vị sử dụng ngân sách, quản lý thuế XK. Ngoài pháp luật nội
dung gồm các quy phạm trong đạo luật thuế XK (hoặc thuế XK, thuế NK),
pháp luật thuế XK còn chứa đựng các quy phạm pháp luật hình thức (quy
phạm về thủ tục thu, sử dụng, quản lý thuế XK) trong đạo luật thuế XK, luật
quản lý thuế, luật ngân sách nhà nước.
Ở nghĩa hẹp, pháp luật thuế XK chỉ bao gồm các quy phạm do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
11
quá trình thu thuế, miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế XK của nhà nước. Với
nghĩa đó, ở nhiều quốc gia, quy phạm pháp luật quốc gia về thuế xuất khẩu
được thể hiện tập trung trong một đạo luật riêng gọi là Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu hoặc quy định thành một chương riêng trong đạo luật hải
quan. Pháp luật thuế XK gồm các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp
luật trong nước (trong đạo luật thuế XK, thuế NK, các văn bản dưới luật
hướng dẫn, cụ thể hóa Luật thuế XK, thuế NK) và các quy phạm pháp luật
trong các hiệp định, điều ước quốc tế, cam kết quốc tế về thuế XK, thuế NK.
Với đặc điểm như vậy, có thể thấy pháp luật thuế XK là một bộ phận của
pháp thuế XK, thuế NK.
Pháp luật thuế XK điều chỉnh mối quan hệ thu thuế giữa nhà nước và
người nộp thuế. Do đó, pháp luật thuế XK mang tính chất của luật công. Tính
chất quyền lực nhà nước của pháp luật thuế XK thể hiện rất rõ và tạo nên đặc
điểm của chế định pháp luật này.
Ở Việt Nam, ngoài thuế XK, Nhà nước còn ban hành thuế chống trợ
cấp và thuế chống bán phá giá. Thực chất đây là hai loại thuế bổ sung cho
thuế XK, thuế NK trong những trường hợp có căn cứ cho rằng hàng hóa đó có
trợ cấp của nhà nước hoặc có hành vi bán phá giá nhằm mục đích cạnh tranh
không lành mạnh.
1.2.2. Sự cần thiết phải ban hành pháp luật thuế xuất khẩu ở Việt Nam
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán
trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng tăng. Trong bối cảnh nền kinh
tế thế giới hội nhập thì pháp luật thuế của các nước cũng đang trong xu thế
hội nhập với khu vực và thế giới. Ở Việt Nam, thuế xuất khẩu cùng với thuế
nhập khẩu là công cụ được nhà nước bắt đầu sử dụng năm 1951. Ở thời điểm
đó thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng quản lý hoạt
động nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị tạm chiếm, bảo vệ và
12
phát triển kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại hàng hóa là nhu
yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phương châm đấu tranh kinh tế
với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần
thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, một mặt, nhà
nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các hàng hoá của vùng tự do, một mặt,
hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước ta ban hành ngày 29/12/1987. Đạo
luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu
dịch. Do đó, nó có sự phân biệt trong áp dụng chế độ thu thuế giữa hàng
hoá mậu dịch với hàng hoá phi mậu dịch khác. Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 và tiếp theo
được sửa đổi, bổ sung hai lần: Luật sửa đổi, bổ sung được Quốc hội
thông qua ngày 5/7/1993 và Luật sửa đổi bổ sung được Quốc hội thông qua
ngày 20/5/1998 và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11
được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 nhưng chưa được hệ thống hóa lại.
Do đó, bộc lộ một số điểm cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình
hình mới về hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển đất nước. Cụ thể là:
- Có những quy định trong Luật, qua thực hiện đã phát huy tác dụng
tốt, tạo sự thông thoáng cho doanh nghiệp nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu
về quản lý Nhà nước về chống gian lận thương mại, chống thất thu ngân sách
và dễ bị lợi dụng như: Quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế.
- Căn cứ vào Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế giai
đoạn 2011 – 2020 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt và yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế, thì việc ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
thay thế Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1991 và Luật sửa bổ sung năm
1993,1998, 2005 là một yêu cầu cấp thiết. Trong bối cảnh đó, Luật thuế xuất
13
khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 được Quốc hội thông qua ngày
06/4/2016. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành có phạm vi điều
chỉnh rộng và cụ thể.
1.2.3. Nội dung pháp luật thuế xuất khẩu
Pháp luật thuế XK thường bao gồm các quy phạm pháp luật quy định
về đối tượng chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, thời điểm tính thuế,
biểu thuế, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ áp dụng đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu.
Pháp luật thuế XK bao gồm các quy phạm pháp luật quy định cơ sở
pháp lý và các căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật thuế xuất khẩu.
Quan hệ pháp luật về thuế xuất khẩu phát sinh dựa trên những căn cứ
sau:
+ Văn bản quy phạm pháp luật quốc gia.
Ở Việt Nam, các quy định pháp luật về thuế XK được thể hiện trong
Luật thuế XK, thuế NK được Quốc hội thông qua năm 1991, sửa đổi bổ sung
năm 1993 và năm 1998, 2005 hiện đang áp dụng là Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu năm 2016.
Nhìn chung, tuy có sự khác nhau giữa các nước trong cách thiết kế quy
phạm pháp luật quốc gia về thuế XK nhưng thực chất các văn bản pháp luật
này đều gồm các quy định về những vấn đề cơ bản sau: Xác định chủ thể nộp
thuế XK là ai; Xác định đối tượng nộp thuế XK là những hàng hoá, dịch vụ
nào; Xác định thuế suất thuế XK và giá tính thuế đối với hàng XK; Xác định
trình tự, thủ tục thu thuế nhập khẩu; Xác định các trường hợp miễn giảm,
hoàn thuế; Xác định các hành vi vi phạm và chế tài đối với từng hành vi đó.
* Văn bản quy phạm pháp luật quốc tế.
14
- Xem thêm -