Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn tại cục hải qua...

Tài liệu Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn tại cục hải quan lào cai

.PDF
92
1
89

Mô tả:

TẠ THANH ĐÔNG BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ Ph¸p luËt LUẬT KINH TẾ vÒ qu¶n lý thuÕ xuÊt khÈu, thuÕ nhËp khÈu tõ thùc tiÔn t¹i Côc H¶i quan Lµo Cai TẠ THANH ĐÔNG 2018 - 2020 HÀ NỘI - 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ Ph¸p luËt vÒ qu¶n lý thuÕ xuÊt khÈu, thuÕ nhËp khÈu tõ thùc tiÔn t¹i Côc H¶i quan Lµo Cai TẠ THANH ĐÔNG Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 8 38 01 07 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN HÀ NỘI - 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi là Tạ Thanh Đông, học viên lớp Luật Kinh tế khóa 2018 - 2020 xin cam đoan đây là công trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ quan cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu cũng như các thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình. Hà Nội, ngày tháng năm 2021 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Tạ Thanh Đông LỜI CẢM ƠN Được sự phân công của Khoa Sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội và sự đồng ý của giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Tuyến về đề tài luận văn: "Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn tại Cục Hải quan Lào Cai". Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của quý thầy, cô giáo trong trường. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo của Trường Đại học Mở Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu tại Trường. Chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Văn Tuyến đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu thực hiện luận văn của mình. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một cách hoàn chỉnh nhất, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà tự bản thân không thể tự nhận thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của Quý thầy, cô giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn, công trình nghiên cứu của mình. Hà Nội, ngày tháng năm 2021 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Tạ Thanh Đông MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU 1.1. 6 Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế thị trường 6 1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 6 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 8 1.1.3. Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 9 1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 11 1.2.1. Khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 11 1.2.2. Các đặc điểm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 15 1.2.3. Nội dung quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 19 1.3. Lý luận pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 21 1.3.1. Khái niệm 21 1.3.2. Cấu trúc pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 22 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. 26 Thực trạng quy định về chủ thể và quyền nghĩa vụ của các chủ thể trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 26 2.1.1. Thực trạng quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩ 26 2.1.2. Thực trạng quy định về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế trong quan hệ quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2.2. 31 Thực trạng quy định về nội dung và nguyên tắc quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 34 2.2.1. Quy định về nội dung quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 34 2.2.2. Quy định về nguyên tắc quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 35 2.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 37 2.3.1. Về thủ tục đăng ký thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 37 2.3.2. Về thủ tục kê khai thuế, ấn định thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 41 2.3.3. Về thủ tục nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 43 Về thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế 2.4. 44 Thực trạng quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 46 2.4.1. Nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 47 2.4.2. Phương thức kiểm tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 48 2.4.3. Trình tự, thủ tục kiểm tra, thanh tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2.5. 50 Nhận xét thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất, thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 52 Chương 3: THỰC TIỄN QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CỤC HẢI QUAN LÀO CAI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. 54 Thực tiễn quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai 3.1.1. Khái quát về Cục Hải quan Lào Cai 54 54 3.1.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai từ năm 2018 đến nay 56 3.1.3. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai 3.2. 63 Một số kiến nghị nhằm nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 64 KẾT LUẬN 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Số liệu bắt giữ và xử lý vi phạm hành chính 59 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong bối cảnh thế giới đương đại, pháp luật thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng đã và đang là một trong những công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước, góp phần hạn chế tình trạng gian lận thương mại, trốn thuế và định hướng phát triển quốc gia. Trước tình hình kinh tế thế giới hiện nay đang suy thoái, do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 đang diễn ra rất phức tạp, chưa thể kiểm soát trên phạm vi toàn cầu; cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã gây ra suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới và gây ra sự gia tăng chủ nghĩa bảo hộ thương mại, đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế mở của Việt Nam. Do vậy, Nhà nước phải có những công cụ mạnh mẽ để quản lý chặt chẽ đối với hoạt động thu nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong hoạt động thương mại, góp phần ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời thiết lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động thương mại quốc tế. Với vai trò là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế, pháp luật thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng đang ngày càng được quan tâm, xây dựng hoàn thiện theo hướng ngày càng tiếp cận với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Bằng chứng rõ nhất là gần đây Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Quản lý thuế số 39/2019/QH14 ngày 13/6/2019 để thay thế cho Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 đã được áp dụng tại Việt Nam từ hơn 10 năm nay. Sự thay đổi chính sách về quản lý thuế nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng thể hiện trong đạo luật về quản lý thuế năm 2019 chắc chắn rất cần được nghiên cứu, tìm hiểu để đánh giá về mức độ hiệu quả của nó trong quá trình thực hiện. Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn tại Cục Hải quan Lào Cai” để nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Kể từ sau thời điểm Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ra đời cho đến nay, vấn đề pháp luật thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế nói 1 riêng đã nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả với cách tiếp cận nghiên cứu từ các góc độ khác nhau. Một cách khái quát, có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: - Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Cường với đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về quản lý nợ thuế ở Việt Nam”, bảo vệ năm 2015, tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về quản lý nợ thuế và pháp luật về quản lý nợ thuế; phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý nợ thuế ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Luận văn này không trực tiếp nghiên cứu về vấn đề quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam và cũng không nghiên cứu thực tiễn thực hiện quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại một địa phương cụ thể là Cục Hải quan Lào Cai. - Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài: “Pháp luật về quản lý thuế đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và thực tiễn thi hành tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội”, bảo vệ năm 2018, tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản của pháp luật về quản lý thuế và nội dung quản lý thuế đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Luận văn cũng phân tích thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý thuế đối với hàng hóa nhập khẩu tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội; từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác này trong thực tiễn. - Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương với đề tài: “Pháp luật về quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp từ thực tiễn thi hành tại Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn”, bảo vệ năm 2018, tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn trình bày cơ sở lý luận về pháp luật quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp; phân tích thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp và thực tiễn thi hành tại Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn; từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác này trong thực tiễn. - Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Khuất Thị Thu Hà với đề tài: “Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các hộ 2 kinh doanh trên địa bàn thành phố Vũng Tàu”, bảo vệ năm 2013, tại Trường Đại học Luật Hà Nội. - Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Anh với đề tài “Pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, bảo vệ năm 2013, tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài này nghiên cứu khái quát về pháp luật quản lý thuế thu nhập trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; phân tích thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam hiện nay; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; - Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Cương về đề tài: “Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu nêu trên phần nhiều đề cập đến công tác quản lý thuế nói chung, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng chưa phân tích, đề cập một cách đầy đủ, chuyên sâu ở một địa phương cụ thể. Chính vì vậy tác giả nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn tại Cục Hải quan Lào Cai” là cần thiết; từ đó đưa ra những kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ đề tài Mục đích của đề tài là nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; đánh giá thực trạng tại một địa phương cụ thể và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. Với mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; - Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam và đánh giá thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai; - Trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai để chỉ ra một số tồn tại, nguyên 3 nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu vào ba nhóm vấn đề cơ bản bao gồm: - Lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. - Thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Cục Hải quan Lào Cai từ năm 2018 đến năm 2020. - Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở áp dụng các phương pháp nghiên cứu có tính chất phổ quát trong khoa học xã hội và nhân văn như: - Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa: được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. - Phương pháp thống kê, phân loại và hệ thống hóa: được sử dụng để thu thập thông tin, thống kê số liệu, sắp xếp, phân loại quy định pháp luật và các vấn đề có cùng bản chất để phục vụ cho việc nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: được sử dụng để đánh giá, bình luận pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa các văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam với nhau. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. - Đánh giá, bình luận thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và chỉ ra những vấn đề cần lưu ý trong thực tiễn thi hành, đóng góp ý kiến xây dựng hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 4 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được thiết kế thành 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Thực tiễn quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai và một số kiến nghị. 5 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU 1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng 1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Trong đời sống kinh tế xã hội, thuế được biết đến như là khoản tiền do các tổ chức, cá nhân nộp cho Nhà nước để góp phần chia sẻ gánh nặng chi tiêu với Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Ở mỗi quốc gia, cấu trúc hệ thống thuế thường bao gồm hai nhóm cơ bản là thuế nội địa và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. với tư cách là một loại thuế đánh vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò rất quan trọng, không chỉ góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước hàng năm mà còn là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước để kiểm soát hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện các mục tiêu đối ngoại của Chính phủ trong từng thời kỳ. Lịch sử hình thành và phát triển của thuế cho thấy rằng mặc dù xuất hiện tương đối muộn nhưng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã nhanh chóng khẳng định được vai trò, tác dụng to lớn của mình đối với nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là vai trò kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa với bên ngoài và bảo hộ nền sản xuất trong nước1. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng thu hẹp phạm vi ảnh hưởng và tầm quan trọng của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu song về cơ bản, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vẫn sẽ là giải pháp quản lý vĩ mô có hiệu quả đối với nền kinh tế trong nước, nhất là đối với những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước như Việt Nam. Xét về phương diện lý thuyết, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận. 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017. 6 Xét về phương diện kinh tế, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế qua biên giới của một nước. Với cách tiếp cận này, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được quan niệm như là một quan hệ phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá nhân nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước. Mặt khác, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn được hiểu như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Xét về phương diện pháp lý, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể được hình dung như là quan hệ pháp luật phát sinh giữa Nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế), theo đó các bên phải thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý đối với nhau trong quá trình hành thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành mà hậu quả pháp lý chủ yếu của việc áp dụng đạo luật đó trong thực tiễn là làm phát sinh quyền thu thuế cho Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế cho các tổ chức, cá nhân là người nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu2. Việc tiếp cận khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ góc độ pháp lý có nhiều ý nghĩa thiết thực, trước hết là giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về bản chất của thuế nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng, thực chất là một quyết định hành chính đơn phương của quốc gia đối với người đóng thuế, hay là một “thoả thuận” song phương giữa người thu thuế với người nộp thuế? Trên cơ sở lý thuyết đó, giúp cho Nhà nước hoạch định và thực thi chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp hơn với quyền lợi của quốc gia và của người đóng thuế, xét trong mối quan hệ lợi ích với các quốc gia khác trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá qua biên giới được điều tiết và kiểm soát bởi hai công cụ chủ yếu là “hàng rào thuế quan” và “hàng rào phi thuế quan”. Hàng rào thuế quan ở những nước 2. Trường Đại học Luật hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017. 7 này được hiểu thực chất là thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá nhập khẩu3, chứ không bao gồm cả thuế xuất khẩu đánh vào hàng hoá xuất khẩu như Việt Nam hay Trung Quốc4. Do có quan niệm khác nhau như trên giữa các nước về nội hàm của khái niệm “thuế quan” nên chính sách thuế quan của các nước cũng có sự khác nhau. Sở dĩ có sự khác nhau này trong chính sách thuế quan của các nước là bởi vì, mỗi quốc gia đều có phong tục, tập quán riêng cần được duy trì, tôn trọng, bảo vệ và quan trọng hơn, mỗi quốc gia đều có quyền đánh thuế đối với các công dân hay tổ chức mang quốc tịch nước mình hoặc đối với các công dân, tổ chức nước ngoài có hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá diễn ra trên lãnh thổ nước mình. Quyền đánh thuế của quốc gia chính là cơ sở, là đạo lý cơ bản để Nhà nước - với tư cách là người đại diện hợp pháp cho quốc gia, ban hành và áp dụng các đạo luật về thuế quan trên tinh thần của nguyên tắc lãnh thổ và nguyên tắc quốc tịch. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu So với các loại thuế nội địa thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nhiều điểm khác biệt quan trọng cần được nhận diện đầy đủ và chính xác. Những điểm khác biệt này bắt nguồn từ bản chất và chức năng của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Theo quan điểm nhận thức của tác giả luận văn, các đặc điểm cơ bản này bao gồm5: Thứ nhất, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hoá được phép vận chuyển qua biên giới của một quốc gia theo quy định của pháp luật quốc gia đó. Khái niệm “hàng hoá” là đối tượng chịu thuế nhập khẩu có thể hiểu theo nghĩa thông thường, bao gồm các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng do con người sản xuất ra và được lưu thông trên thị trường bằng cách chuyển vào hoặc chuyển ra khỏi biên giới của một nước. Trong xã hội hiện đại ngày nay, xuất hiện ngày càng nhiều loại hàng hoá vô hình được chuyển vào hoặc ra khỏi biên giới một nước nhưng không phải bằng phương thức thông thường mà cơ quan Hải quan có thể kiểm soát được. Ví dụ điển hình cho những loại hàng hoá này chính là những sản phẩm 3. Khoản 1 Điều 12 Luật Hải quan Indonesia; tiết 100 Luật thuế quan trong Bộ Luật Hải quan Philippines và Luật thuế hải quan (chống bán phá giá) năm 1975 của Úc. 4. Điều 53 Luật Hải quan Trung Quốc. 5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017. 8 phần mềm công nghệ thông tin được giao dịch hàng ngày qua mạng máy tính toàn cầu (internet). Thứ hai, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tính chất đặc thù so với nhiều loại thuế nội địa khác. Điều này thể hiện ở chỗ, đối với thuế xuất khẩu, loại thuế này luôn có tính chất là thuế gián thu, vì khoản thuế xuất khẩu sau khi nộp sẽ được tính vào giá xuất khẩu và chuyển cho người nhập khẩu chịu thông qua việc thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu. Còn đối với thuế nhập khẩu, khi nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng hoá nhập khẩu đó chứ không bán ra bên ngoài thì khi đó khoản thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất giống như là thuế trực thu, vì chính người nhập khẩu vừa là người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Ngược lại, khi nhà nhập khẩu đã nộp xong thuế nhập khẩu và bán lại số hàng hoá đó cho người khác thì số tiền thuế nhập khẩu đã nộp có xu hướng chuyển sang cho người mua hàng chịu và do đó, khoản thuế nhập khẩu này lại có tính chất là thuế gián thu, bởi lẽ người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một. Thứ ba, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong nước và điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới. Chức năng này thể hiện sự khác biệt căn bản giữa thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với các loại thuế nội địa khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp… Tuy nhiên, trải qua thời gian, dưới sức ép của trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại, chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có xu hướng ngày càng giảm sút, để nhường chỗ cho chức năng tạo nguồn thu ngân sách nhà nước. Ngày nay, do chính sách thuế nhập khẩu của các nước có xu hướng cắt giảm dần các mức thuế suất nhằm đáp ứng yêu cầu tự do hoá thương mại quốc tế nên có thể trong tương lai, ranh giới để phân biệt giữa thuế nhập khẩu và thuế nội địa sẽ trở nên rất mong manh và thậm chí có thể bị “xoá nhoà” hoàn toàn, khi mà tự do hoá thương mại đã trở thành xu hướng tất yếu và mang tính hiện thực trên toàn thế giới6. 1.1.3. Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng thể hiện ba vai trò cơ bản sau đây: 6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017. 9 Một là, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Vai trò này thể hiện ở chỗ, nhờ có thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà Nhà nước có thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước và nguồn thu này có thể chiếm một tỷ lệ khác nhau trong tổng thu ngân sách nhà nước ở từng quốc gia, tùy thuộc vào kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng năm của mỗi quốc gia là nhiều hay ít. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng trở nên mạnh mẽ, vai trò tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chắc chắn sẽ có xu hướng ngày càng giảm sút và chính phủ các nước thường có xu hướng lựa chọn các giải pháp khác để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, trong khi thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu buộc phải giảm do các quốc gia phải thực hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế quan. Hai là, điều tiết hoạt động kinh tế. Có thể nhận thấy, đây là vai trò rất quan trọng của thuế nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng ở mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vai trò này thể hiện ở chỗ, Nhà nước có thể sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như một công cụ kinh tế - tài chính để tác động vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó điều tiết hoạt động kinh tế trong nước và đồng thời cũng điều tiết mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Ba là, hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội. Vai trò này của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thể hiện ở chỗ, nếu Nhà nước muốn người tiêu dùng trong nước ưu tiên sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước và hạn chế dùng hàng hóa nhập khẩu thì Nhà nước sẽ có xu hướng đánh thuế thấp đối với hàng hóa sản xuất trong nước và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng nhập khẩu. Ngược lại, nếu Nhà nước muốn thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa có xuất xứ Việt Nam để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế thì Nhà nước sẽ giảm thuế xuất khẩu, thậm chí không đánh thuế đối với hàng xuất khẩu được xuất sang các thị trường mà Nhà nước mong muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa có nguồn gốc, xuất xứ từ Việt Nam. Ngoài ra, do đặc trưng cơ bản của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là đánh vào các hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu và sau đó được cấu thành trong giá cả của hàng hoá xuất, nhập khẩu nên loại thuế này còn có một vai 10 trò khá đặc thù, đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hoá trong nước với hàng hoá ngoại nhập. Xét trên bình diện lý thuyết, vai trò này của thuế nhập khẩu được thể hiện ở chỗ: do bị đánh thuế nhập khẩu nên về lý thuyết, giá cả của loại hàng hoá này trên thị trường nước nhập khẩu sẽ tăng lên, trong khi đó các hàng hoá được sản xuất trong nước, do không phải chịu thuế nhập khẩu (hoặc chỉ phải chịu thuế nhập khẩu cho phần nguyên liệu hay máy móc, thiết bị là tài sản cố định nhập khẩu) nên giá thành sản phẩm của loại hàng hoá này có xu hướng rẻ hơn và do đó có sức cạnh tranh lớn hơn so với hàng ngoại nhập. Điều này cho thấy việc đánh thuế xuất khẩu hay thuế nhập khẩu thực chất là một biện pháp để một quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước, khi Chính phủ nhận thấy những bất lợi nghiêng về phía các hàng hoá được sản xuất từ các doanh nghiệp trong nước7. 1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1.2.1. Khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Để làm rõ khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, có lẽ trước hết cần bắt đầu từ việc làm rõ các khái niệm có tính chất tiền đề như khái niệm “quản lý” và khái niệm “quản lý thuế”. Về khái niệm “quản lý”. Theo Từ điển Hán - Việt của tác giả Đào Duy Anh, “quản lý” được giải nghĩa là “sắp đặt, chăm nom công việc”8. Tương tự, theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân, “quản lý” cũng được giải nghĩa là “chăm nom và sắp đặt công việc trong một tổ chức”9. Theo Từ điển Việt Nam của tác giả Thanh Nghị, “quản lý” được giải nghĩa là “trông nom, coi sóc”10. Trong đời sống kinh tế, xã hội, quản lý được quan niệm là việc quản trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp, một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động thiết lập chiến lược của một tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên (hoặc tình nguyện viên) để hoàn thành các mục tiêu của mình thông qua việc áp dụng các nguồn 7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017. 8. Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt, NXB Khoa học Xã hội, tr. 154. 9. Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội 2002, tr. 555. 10. Thanh Nghị, Từ điển Việt Nam, NXB Thời Thế, Sài Gòn, 1958, tr. 1063. 11 lực sẵn có, như tài chính, tự nhiên, công nghệ và nhân lực. Thuật ngữ “quản lý” cũng có thể chỉ những người quản lý một tổ chức. Về khái niệm “Quản lý thuế”. Trong khoa học kinh tế - tài chính, khái niệm “quản lý thuế” đã được một số tác giả nhắc đến trong cuốn “Tài chính công” được xuất bản bởi Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (năm 2005), theo đó: “Quản lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu ngân sách nhà nước thực hiện”. Với cách định nghĩa này, các tác giả của tác phẩm nói trên cho rằng quản lý thuế là hoạt động mang tính chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu ngân sách nhà nước (ví dụ: cơ quan thuế, cơ quan hải quan…), hướng tới mục tiêu cơ bản là đảm bảo thu đúng, thu đủ số thuế phải nộp đối với người nộp thuế. Trong khoa học pháp lý, một số tác giả luận văn, luận án khi thực hiện công trình nghiên cứu của mình đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về quản lý thuế nhưng các định nghĩa này đều chỉ phản ánh quan điểm cá nhân của mỗi tác giả, chưa phải là định nghĩa chính thức được thừa nhận rộng rãi trong giới luật học. Trong pháp luật thực định (bao gồm cả Luật Quản lý thuế mới nhất được ban hành năm 2019), các nhà làm luật cũng không giải thích thuật ngữ “quản lý thuế” là gì. Rõ ràng, sự thiếu vắng một định nghĩa chính thức về quản lý thuế đã phần nào gây khó khăn cho việc nghiên cứu lý thuyết về quản lý thuế nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng. Qua nghiên cứu, tìm hiểu lý thuyết về quản lý thuế cho thấy, có hai luồng quan điểm, ý kiến khác nhau về khái niệm và bản chất của quản lý thuế nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng. Quan điểm thứ nhất cho rằng, quản lý thuế là hoạt động quản lý hành chính nhà nước về thuế, do cơ quan thuế và các cơ quan hành chính nhà nước khác thực hiện với tư cách là chức năng quản lý hành chính của nhóm chủ thể này. Quan điểm này thể hiện cách tiếp cận quản lý thuế theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm hoạt động quản lý hành chính về thuế của các cơ quan hành chính nhà nước mà thôi. Ví dụ điển hình cho quan điểm này là định nghĩa đã dẫn ở trên, theo đó: “Quản lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức 12 năng thu ngân sách nhà nước thực hiện”11. Ngoài ra, tác phẩm này cũng cho rằng quản lý thuế “đó là những hoạt động thường xuyên của cơ quan thu hướng về phía đối tượng nộp nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ, kịp thời và đúng luật định”. Với quan niệm như vậy, quản lý thuế được hiểu gần như đồng nghĩa với quản lý thu thuế. Nó bao gồm việc xây dựng kế hoạch thu thuế, tổ chức các biện pháp hành thu và tổ chức bộ máy ngành thuế. Theo quan điểm này, quản lý thuế là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp thích hợp tác động lên đối tượng của quản lý thuế làm cho chúng vận động phù hợp với mục tiêu đặt ra. Như vậy, với quan điểm tiếp cận coi quản lý thuế là quản lý hành chính nhà nước thì đương nhiên chủ thể quản lý thuế sẽ được xác định là Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước cụ thể được trao thẩm quyền như cơ quan thuế, cơ quan hải quan, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp tham gia vào hoạt động quản lý thuế…) và đối tượng quản lý thuế sẽ là các tổ chức, cá nhân - với tư cách là người nộp thuế. Cũng theo quan điểm này, các công cụ được Nhà nước sử dụng trong quản lý thuế chính là pháp luật, là kế hoạch, là chính sách và một số công cụ khác. Trong số các công cụ này, pháp luật là công cụ quản lý thuế có tính định hướng và điều tiết quan trọng nhất. Nó tạo tiền đề để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Nó tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ về thuế giữa các chủ thể kinh tế. Kế hoạch cũng là một công cụ không thể thiếu trong quản lý thuế. Nếu quản lý thuế không lên kế hoạch ngắn hạn, trung và dài hạn một cách cụ thể thì không thể đánh giá so sánh được chất lượng hiệu quả của quản lý thuế qua các từng giai đoạn, không rút ra được những kinh nghiệm bổ ích phục vụ công tác quản lý thuế. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với nhiều nhân tố tác động đến quản lý thuế từ trong và ngoài nước, công tác lập kế hoạch và quản trị chiến lược trong quản lý thuế càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trong hệ thống các công cụ quản lý, các chính sách được xem là bộ phận năng động nhất, có độ nhạy cảm cao trước những biến động trong đời 11. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, “Tài chính công”, xuất bản năm 2005. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất