ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN MINH
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN MINH
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan
Nguyễn Văn Minh
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
1.1.
LAO ĐỘNG
7
Khái niệm và ý nghĩa hợp đồng lao động
7
1.1.1. Khái niệm hợp đồng lao động
1.1.2. Ý nghĩa hợp đồng lao động
1.2.
Pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng lao động
7
10
14
1.2.1. Khái niệm giao kết hợp đồng lao động
14
1.2.2. Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động
16
1.2.3. Chủ thể giao kết hợp đồng lao động
20
1.2.4. Hình thức giao kết hợp đồng lao động
22
1.2.5. Các loại hợp đồng lao động được giao kết
23
1.2.6. Nội dung giao kết hợp đồng lao động
24
1.2.7. Quyền và nghĩa vụ các bên khi giao kết hợp đồng lao động
27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG
2.1.
31
Giới thiệu về tình hình lao động trong các doanh nghiệp ở thành phố
Đà Nẵng
31
2.2.
Thực tiễn giao kết hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp ở thành
phố Đà Nẵng
37
2.2.1. Về chủ thể giao kết hợp đồng lao động
37
2.2.2. Về hình thức giao kết hợp đồng lao động
39
2.2.3. Về loại hợp đồng lao động được giao kết
41
2.2.4. Về nội dung giao kết hợp đồng lao động
44
2.2.5. Về quyền và nghĩa vụ các bên khi giao kết hợp đồng lao động
47
2.3.
Nhận xét chung về giao kết hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp
ở thành phố Đà Nẵng
54
2.3.1. Kết đạt được
54
2.3.2. Một số hạn chế
55
2.3.3. Nguyên nhân của sự hạn chế
57
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN CÁC QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1.
61
Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện các qui định pháp luật về
giao kết hợp đồng lao động từ thực hiện trong các doanh nghiệp ở
thành phố Đà Nẵng
61
3.1.1. Đảm bảo quyền tự do thỏa thuận các bên trong giao kết hợp đồng
lao động
61
3.1.2. Đảm bảo phù hợp với những đặc điểm của thị trường lao động ở thành
phố Đà Nẵng
3.1.3. Đảm bảo hội nhập với nền kinh tế thế giới trong lĩnh vực lao động
3.2.
62
64
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về giao kết
hợp đồng lao động
65
3.2.1. Cần nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động
về pháp luật hợp đồng lao động
3.2.2. Cần hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường lao động
3.3.
65
66
Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả các quy định pháp luật
về giao kết hợp đồng lao động qua thực tiễn ở thành phố Đà Nẵng.
71
3.3.1. Về các qui định của pháp luật
71
3.3.2. Về tổ chức thực hiện
84
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- BLĐ-TB&XH
Bộ Lao động thương binh và xã hội
- COC
Bộ quy tắc ứng xử
- FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
- HĐBT
Hội đồng bộ trưởng
- ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế
- QĐ-CP
Quyết định – Chính phủ
- SL
Sắc lệnh
- TT
Thông tư
- WTO
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số
Tên bảng
Trang
Dự báo cầu lao động tăng thêm do phát triển chuyển dịch cơ
31
hiệu
bảng
2.1.
cấu kinh tế, dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động
2.2.
Kết quả dự báo có thể tính cho các năm
35
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là hoạt động quan trọng nhất trong đời sống của con người.
Lao động tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần cho xã hội. Hoạt động lao
động giúp con người hoàn thiện bản thân và phát triển xã hội. Khi xã hội đã
đạt đến mức độ phát triển nhất định thì sự phân hóa, phân công lao động xã
hội diễn ra như một tất yếu và ngày càng sâu sắc.
Đối với Việt Nam sau khi gia nhập WTO với mục tiêu xây dựng đất nước
đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng xuất
phát từ nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành
phần kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập kinh
tế đó tạo nên sự phong phú, đa dạng trong quan hệ lao động, cũng như nảy sinh
ra vấn đề phức tạp. Chênh lệch về lợi ích của quan hệ lao động giữa người sử
dụng lao động với người lao động làm thuê vốn có nay càng khắc họa rõ nét
hơn. Với những chủ trương và chính sách của Nhà nước là tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp thành lập, đi vào hoạt động nhằm tạo ra của cải vật
chất và giải quyết lớn lực lượng lao động dồi dào như hiện nay. Với dân số đông,
cơ cấu dân số trẻ như Việt Nam, nên các doanh nghiệp ra đời ngày càng nhiều.
Nhằm nâng cao quyền tự chủ, tự quyết cho doanh nghiệp, Nhà nước cho phép
các doanh nghiệp quyền tuyển dụng lao động theo nhu cầu sản xuất kinh doanh,
trong đó hình thức tuyển dụng lao động thông qua hợp đồng lao động hiện nay
trở thành hình thức phổ biến, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay.
Chính vì thế việc tuyển dụng chủ yếu thông qua hợp đồng lao động nhằm thiết
lập quan hệ lao động, sức lao động trong nền kinh tế thị trường, là lựa chọn ưu
tiên hàng đầu của doanh nghiệp.
Pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và
của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng
1
và quản lý lao động nhằm thúc đẩy sản xuất không ngừng phát triển. Đối với
pháp luật lao động thì giao kết hợp đồng lao động là một phần rất quan trọng,
là hình thức ban đầu chủ yếu làm phát sinh quan hệ pháp luật lao động.
Hợp đồng lao động là công cụ pháp lý quan trọng để xác lập mối quan
hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động. Giao kết hợp
đồng lao động được coi là vấn đề trung tâm trong mối quan hệ lao động. Việc
giao kết hợp đồng lao động không chỉ được thừa nhận bằng pháp luật trong
nước, mà còn ghi nhận trong hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện giao kết hợp đồng lao động tại các doanh
nghiệp cho thấy việc giao kết hợp đồng lao động còn bộc lộ tính thiếu chặt
chẽ, chưa đầy đủ. Thực tế áp dụng hợp đồng lao động còn nhiều vướng mắc,
điều này dẫn đến tranh chấp về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp phát
sinh ngày càng nhiều.
Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi thực tế của hợp đồng lao động nói chung,
đặc biệt là giao kết hợp đồng lao động nói riêng và thực tiễn trong các doanh
nghiệp ở thành phố Đà Nẵng, tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Pháp luật về giao
kết hợp đồng lao động và thực tiễn thực hiện trong các doanh nghiệp ở
Đà Nẵng” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. Qua việc nghiên cứu đề
tài, luận văn góp phần hoàn thiện về pháp luật hợp đồng lao động nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động, cũng như lợi
ích của Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về pháp luật hợp đồng lao động nói chung, trong đó có nội
dung liên quan đến giao kết hợp đồng lao động đã được đề cập ở nhiều mức
độ khác nhau trong một số công trình nghiên cứu độc lập hoặc đăng tải dưới
các bài viết trên các tạp chí pháp luật như :
Luận án Tiến sĩ luật học “Hợp đồng lao động trong cơ chế thị trường ở
2
Việt Nam”, (2002) của tác giả Nguyễn Hữu Chí.
Về hệ thống giáo trình: Giáo trình “Luật Lao động Việt Nam” của
trường Đại học Luật Hà Nội (2005, 2008, 2011), nhà xuất bản Công an nhân
dân; hay Giáo trình “Luật Lao động cơ bản” (2012), khoa luật Đại học Cần
Thơ; hay Giáo trình luật Lao động Việt Nam (1999), Khoa luật Đại học quốc
gia Hà Nội, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội. Có các đề tài như : “Thực
trạng pháp luật về quan hệ lao động ở Việt Nam và phương hướng hoàn
thiện” (2012) của PGS.TS Lê Thị Hoài Thu, Khoa Luật đại học quốc gia Hà
Nội. Về bài viết có: “Bàn về hiệu lực của hợp đồng lao động và việc xử lý
hợp đồng vô hiệu” số 8 (2000), Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Phạm Thị
Chính; hay “ Giao kết hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao động năm 2012 từ
quy định đến nhận thức và thực tiễn” tạp chí Luật số 3/2013 của tác giả
Nguyễn Hữu Chí; hay “Quá trình duy trì và chấm dứt hợp đồng lao động” số
3 (1997), Tạp chí Luật học, của Lưu Bình Nhưỡng; hay Tôn Trung Nhạn
(1995), “Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và Công đoàn”, Nhà xuất bản lao
động, Hà Nội; hay “Một số nét về lao động và sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Bản tin thị trường lao động – Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội (2006) của tác giả Nguyễn Thị Bích
Thủy; hay “Một số vấn đề pháp lý về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt
Nam” tạp chí Nhà nước và pháp luật” số 6/2003 và “Hợp đồng lao động một
trong những chế định chủ yếu của luật Lao động Việt Nam”, Nhà nước và
Pháp luật, số 7/1996 của Phạm Công Trứ; Đặc san tuyên truyền: “Thực tiễn
15 năm thi hành Bộ luật Lao động kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra”
(2011), Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính
phủ (số 11), Hà Nội. Đây là các tài liệu tham khảo hết sức quý giá chủ yếu tập
trung về hợp đồng lao động nói chung và có đề cập về vấn đề giao kết hợp
đồng lao động trong các doanh nghiệp.
3
Có thể thấy các công trình nghiên cứu cụ thể trên đã đề cập một cách
toàn diện về pháp luật hợp đồng lao động cả về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy
nhiên, nghiên cứu về giao kết hợp đồng lao động trên bình diện lý luận và
thực tiễn chưa được các tác giả đề cập nhiều. Chính vì thế, luận văn sẽ làm rõ
những vấn đề lý luận của giao kết hợp đồng lao động, chỉ ra những ưu điểm,
hạn chế của giao kết hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp tại thành phố
Đà Nẵng để từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp
đồng lao động đáp ứng yêu cầu hội nhập, góp phần tạo nên mối quan hệ lao
động bền vững.
3. Phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu ở phương diện lý luận và thực tiễn đối với pháp luật
về giao kết hợp đồng lao động. Luận văn tập trung nghiên cứu các qui định
pháp luật và thực tiễn thực hiện về giao kết hợp đồng lao động ở các doanh
nghiệp tại thành phố Đà Nẵng.
Mục đích, luận văn đưa ra các vấn đề khái quát chung về hợp đồng lao
động và giao kết hợp đồng lao động, qua đó làm rõ sự điều chỉnh của pháp
luật đối với hợp đồng lao động. Ngoài ra, luận văn đi sâu phân tích thực trạng
pháp luật về giao kết hợp đồng lao động theo pháp luật hiện hành, để thấy rõ
thực trạng giao kết hợp đồng lao động ở Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, luận văn
đánh giá thực trạng, đưa ra một số nhận xét về tình hình giao kết hợp đồng lao
động, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định pháp luật về giao
kết hợp đồng lao động từ thực tiễn tại các doanh nghiệp ở thành phố Đà Nẵng.
Luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng lao động.
- Phân tích, thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng lao động và thực
tiễn giao kết hợp đồng lao động tại thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn làm rõ những thành công và hạn chế việc áp dụng các quy
4
định pháp luật trong giao kết hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định pháp luật
về giao kết hợp đồng lao động, tiến tới xây dựng môi trường lao động an toàn,
năng động, phù hợp với cả nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn lấy phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật làm nền tảng, các quan điểm
chủ đạo của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực lao động làm phương pháp luận
cho việc nghiên cứu.
Ngoài ra, để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu, luận văn còn kết
hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau phù hợp với
từng phần của đề tài như phương pháp phân tích, tổng hợp, sử dụng số liệu
thống kê, so sánh và đối chiếu, kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với thực tiễn,
điều tra, khảo sát một cách có hệ thống và nhất quán nhằm làm sáng tỏ vấn đề
cần nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Là công trình nghiên cứu ở cấp thạc sỹ, luận văn có những đóng góp
một phần nhỏ sau:
- Nguyên cứu một cách toàn diện và hệ thống pháp luật về giao kết hợp
đồng lao động.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng lao động
và thực tiễn triển khai trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng
lao động từ thực tiễn tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn làm nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan, cá nhân làm
chính sách, xây dựng pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực lao động - việc làm.
5
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ và nghiên
cứu cho sinh viên, học sinh ngành luật và không chuyên luật, cũng có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, những nhà hoạch định
chính sách và những ai quan tâm đến pháp luật về giao kết hợp đồng lao động.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng lao động và pháp luật Việt
Nam về giao kết hợp đồng lao động.
Chương 2: Thực trạng giao kết hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp
ở thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định
pháp luật về giao kết hợp đồng lao động từ thực tiễn tại các doanh nghiệp ở
thành phố Đà Nẵng
6
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm và ý nghĩa hợp đồng lao động
1.1.1. Khái niệm hợp đồng lao động
So với các ngành luật khác, pháp luật lao động ra đời muộn hơn và
trước đó quan hệ lao động là loại quan hệ chịu sự điều chỉnh của luật dân sự.
Pháp luật Lao động là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Hơn thế, quan hệ lao động được xác lập thông qua hợp đồng lao động, là đối
tượng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật lao động.
Một số quốc gia quan niệm pháp luật lao động thuộc hệ thống luật tư
nên họ cho rằng, hợp đồng lao động là loại hợp đồng dân sự, chịu sự điều
chỉnh của chế định về hợp đồng dân sự. Pháp luật lao động Đức chưa có điều
luật nào quy định cụ thể riêng biệt về khái niệm hợp đồng lao động, mà coi nó
là một loại hợp đồng dân sự. Quan niệm về hợp đồng lao động áp dụng theo
Điều 611 Bộ luật Dân sự Đức 1896 “thông qua hợp đồng, bên đã cam kết
thực hiện một hoạt động thì phải thực hiện hoạt động đó, còn bên kia có
nghĩa vụ trả thù lao theo thỏa thuận” [37, tr. 50]. Bản chất của hợp đồng lao
động đã được thể hiện một phần khái niệm của Điều 611, nhưng hạn chế là
chưa chỉ rõ chủ thể và nội dung của hợp đồng lao động. Ở Pháp, khái niệm
hợp đồng lao động được ghi nhận trong án lệ “hợp đồng lao động là sự thỏa
thuận, theo đó một người cam kết tiến hành một hoạt động theo sự chỉ đạo
của người khác, lệ thuộc vào người đó và được trả công” (Bản án ngày
02/7/1954) [36, tr. 5]. Điều 1779 Bộ luật Dân sự năm 1804 về hợp đồng thuê
dịch vụ và công nghệ, khoản 1 quy định: "Hợp đồng thuê người lao động để
phục vụ một người nào đó" và Điều 1780 về hợp đồng thuê mướn gia nhân và
công nhân: "Chỉ được cam kết phục vụ theo thời gian hoặc cho một công việc
7
nhất định". “Nói chung, các quan niệm này đều coi hợp đồng lao động thuần
túy tương tự như một loại hợp đồng dịch vụ dân sự” [6, tr. 35]. Ưu điểm của
khái niệm này là đã chỉ ra một phần nội dung của hợp đồng lao động và sự lệ
thuộc pháp lý của người lao động đối với người sử dụng lao động, song cũng
chưa xác định được vấn đề chủ thể và nội dung hợp đồng. Như vậy hệ thống
pháp luật của Pháp, Đức chỉ ghi nhận hợp đồng lao động như là một dạng hợp
đồng dân sự, có bản chất của hợp đồng dân sự.
Tổ chức quốc tế (ILO) đã định nghĩa hợp đồng lao động có tính chất
khái quát và phản ánh được bản chất của hợp đồng lao động. Hợp đồng lao
động là “ một thỏa thuận ràng buộc pháp lý giữa người sử dụng lao động và
một công nhân trong đó xác lập các điều kiện và chế độ làm việc”[25, tr. 63].
Ưu điểm của khái niệm này là chỉ rõ chủ thể và một số nội dung cơ bản của
hợp đồng lao động, nhưng hạn chế ở việc thu hẹp chủ thể chỉ là công nhân.
Ở Việt Nam hợp đồng lao động được ghi nhận trong các văn bản pháp
lý, qua các thời kỳ khác nhau, có thể thấy trong Sắc lệnh số 29/SL
(12/3/1947) quy định về việc tuyển chọn, quyền và nghĩa vụ của giới chủ và
người làm công. Hợp đồng lao động được thể hiện dưới hình thức “Khế ước
làm công”.
Trong Thông tư số 01/BLĐ-TB&XH ngày 09/01/1988 hướng dẫn thi
hành Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng ban
hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa đối với xí nghiệp quốc doanh về việc chuyển dần từng bước chế độ
tuyển dụng vào biên chế nhà nước sang chế độ hợp đồng lao động có quy
định “Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa giám đốc xí
nghiệp và người lao động về nghĩa vụ và quyền lợi, về trách nhiệm và quyền
hạn của hai bên trong quá trình lao động do giám đốc ký kết theo mẫu đính
kèm thông tư này”. Khái niệm chỉ rõ bản chất, hình thức của hợp đồng lao
8
động bằng văn bản và xác định cụ thể thẩm quyền ký kết hợp đồng lao động
cũng như trách nhiệm và quyền hạn của các bên, nhưng quy định định mọi
trường hợp đều phải ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản là chưa hợp lý.
Ngày 30/8/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh hợp đồng lao
động thì “Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động với người sử
dụng, thuê mướn lao động (gọi chung là người sử dụng lao động) về việc làm có
trả công, mà hai bên cam kết với nhau về điều kiện sử dụng lao động và điều
kiện lao động, về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”.
Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994, có
hiệu lực thi hành từ 1/1/1995 ( được sửa đổi, bổ sung ngày 2/4/2002, có hiệu lực
ngày 01/01/2003) là cơ sở pháp lý điều chỉnh các quan hệ lao động, qua đó định
nghĩa hợp đồng lao động như sau: “Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao
động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động” (Điều 26). Như
vậy, khái niệm hợp đồng lao động là khá đầy đủ và rõ ràng.
Sau 15 năm thi hành, Bộ luật lao động về cơ bản đã được thực tiễn
cuộc sống chấp nhận. Đây là cơ sở pháp lý cho các chủ thể thiết lập quan hệ
lao động. Xuất phát từ thực tế về tình hình kinh tế xã hội của đất nước nói
chung, của thị trường lao động nói riêng; trước yêu cầu hội nhập quốc tế và
khu vực, đặc biệt là sau khi nước ta đã gia nhập WTO thì đòi hỏi Bộ luật Lao
động cần phải được sửa đổi, bổ sung nhằm để điều chỉnh các quan hệ lao
động mới phát sinh, đồng thời thể chế hóa mục tiêu, quan điểm, định hướng
xây dựng đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam và chiến lược phát triển kinh
tế xã hội 2011- 2020; Mặc khác, định hướng sửa đổi bổ sung Hiến pháp năm
1992 phù hợp với các luật chuyên ngành liên quan đến Bộ luật Lao động như
Bộ luật dân sự năm 2005, luật doanh nghiệp năm 2005, Luật thương mại năm
2005, Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật
9
Công đoàn đang trong quá trình sửa đổi.
Xuất phát từ nhiều vấn đề đã nêu trên, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa
XIII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật lao động
ngày 2/7/2012, có hiệu lực ngày 01/5/2013 bao gồm 17 chương và 242 điều.
Bộ luật lao động 2012 định nghĩa về hợp đồng lao động như sau: “Hợp
đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động
về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
trong quan hệ lao động” (Điều 15). Như vậy, khái niệm hợp đồng lao động của
Bộ luật Lao động thể hiện tính khái quát hơn và phản ánh được bản chất của hợp
đồng lao động, các yếu tố cơ bản cấu thành nên hợp đồng lao động.
Như vậy, khái niệm về hợp đồng lao động trong thực tế có nhiều cách
tiếp cận khác nhau và tựu chung lại là kết quả của sự thỏa thuận giữa người sử
dụng lao động với người lao động. Đó là sự thống nhất ý chí của các bên về
nội dung của hợp đồng mà các bên muốn đạt được. “Đây là loại quan hệ lao
động tiêu biểu và cũng là hình thức sử dụng lao động phổ biến trong nền kinh
tế thị trường”[10, tr. 4]
Có thể nhận thấy rằng, khái niệm hợp đồng lao động được nhiều nước
trên thế giới nhìn nhận chưa hoàn toàn giống nhau. Một số nước chia thành
luật công, luật tư như Đức, Pháp. Hợp đồng lao động chịu ảnh hưởng hợp
đồng dân sự, mặc dù quan hệ lao động được điều chỉnh chủ yếu bởi một hệ
thống pháp luật độc lập và riêng biệt.
Ở nước ta, khái niệm về hợp đồng lao động chỉ ra được chủ thể, nội dung
của hợp đồng lao động, từ đó có thể phân biệt được so với hợp đồng dân sự.
1.1.2. Ý nghĩa hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động là một chế định quan trọng vào bậc nhất của luật lao
động, là xương sống của pháp luật lao động, là một chương không thể thiếu
trong Bộ luật lao động của bất kỳ nước nào trên thế giới, trong có nước ta, vì vậy
10
hợp đồng lao động có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội.
Thứ nhất, hợp đồng lao động là hình thức pháp lý chủ yếu làm phát sinh,
thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật lao động trong nền kinh tế thị trường.
Trước đây trong cơ chế quản lý cũ (cơ chế quản lý hành chính tập
trung) chưa có sự tách biệt giữa lĩnh vực hành chính và lĩnh vực lao động, chế
độ tuyển dụng vào biên chế Nhà nước áp dụng cho các xí nghiệp, cơ quan
Nhà nước là hình thức chủ yếu làm phát sinh quan hệ pháp luật lao động.
Theo Nghị định 24/CP ngày 13/3/1963 hợp đồng lao động cũng được sử dụng
nhưng chỉ đóng vai trò ở vị trí thứ yếu. Sự ra đời của Pháp lệnh hợp đồng lao
động năm 1990 sau đó trở thành một chương trong Bộ luật Lao động, hợp
đồng lao động từng bước trở thành hình thức pháp lý chủ yếu làm phát sinh
quan hệ pháp luật lao động trong cơ chế thị trường. Thông qua việc ký kết
hợp đồng lao động người sử dụng lao động có quyền quản lý, điều hành, kiểm
tra giám sát chặt chẽ người lao động và cũng trên cơ sở của hợp đồng lao
động, người lao động có nghĩa vụ thực hiện các cam kết của mình và được
hưởng các quyền lợi. Khi có hợp đồng lao động quan hệ lao động mới thực sự
được thiết lập, được các bên công nhận và được pháp luật bảo vệ và phù hợp
với xu hướng phát triển chung của các nước có nền kinh tế thị trường. Theo
quy chế tuyển dụng “chỉ tiêu biên chế”, “tổng quỹ lương” đều do cấp trên
khống chế “ Điều này hoàn toàn bó tay, bó chân các giám đốc xí nghiệp, thủ
trưởng cơ quan trong việc tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân lực” [30, tr. 47].
Đối với chế độ hợp đồng lao động, người lao động được tự do đi tìm
việc làm phù hợp với điều kiện của bản thân và người sử dụng lao động được
tự do tuyển dụng nhân lực có phẩm chất, trình độ, năng lực phù hợp với yêu
cầu công việc.
Mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động được điều
chỉnh chủ yếu thông qua hợp đồng lao động. Chế độ ký kết hợp đồng lao
11
động được áp dụng rộng rãi trong mọi thành phần kinh tế. Hình thức pháp lý
chủ yếu phát sinh quan hệ lao động ngày nay chính là hợp đồng lao động.
Theo số liệu thống kê của Bộ lao động thương binh và xã hội năm 2011 “số
lao động giao kết hợp đồng lao động đạt khoảng 96,6%, trong đó công ty nhà
nước đạt khoảng 99,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng
96,2%, các doanh nghiệp còn lại đạt khoảng 93, 9%” [1, tr. 9]. “Tỷ lệ ký kết
hợp đồng lao động không xác định thời hạn khoảng 36,6%, xác định thời hạn
từ 12 tháng đến 36 tháng khoảng 46,8%, còn lại là hợp đồng lao động mùa vụ
chiếm khoảng 16,6%” [8, tr. 12].
Thứ hai, hợp đồng lao động là hình thức pháp lý đáp ứng được nguyên tắc
tự do “ khế ước” của nền kinh tế thị trường, trong đó có thị trường sức lao động.
“Hợp đồng lao động luôn có tính chất của một khế ước do vậy việc thể
hiện ý chí và lý trí là điều căn bản của lao động” [33, tr. 126]. Các quan hệ
hợp đồng mang tính tự do, tự nguyện và bình đẳng. Trong đó các bên có
quyền tự nguyện thỏa thuận với nhau về các quyền và nghĩa vụ của mình.
Hợp đồng lao động là hình thức pháp lý linh hoạt phù hợp với cơ chế thị
trường, trong đó người lao động có quyền lựa chọn công việc, người sử dụng
lao động có quyền lựa chọn người làm việc cho mình. Quan hệ lao động được
xác lập họ thông qua công cụ pháp lý – đó chính là hợp đồng lao động. Hợp
đồng lao động có nhiều loại khác nhau, tương ứng với tính chất của công việc
(Điều 22 Bộ luật lao động 2012). Pháp luật về hợp đồng lao động còn cho
phép người lao động có thể giao kết với nhiều người sử dụng lao động, nhưng
phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết (Điều 21 Bộ luật lao
động 2012), hình thức của hợp đồng có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng
(Điều 16 Bộ luật lao động 2012). Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có
yêu cầu thay đổi nội dung thì cũng được pháp luật cho phép… phương thức
tuyển dụng lao động thông qua hợp đồng lao động đã thể hiện được tinh thần
12
- Xem thêm -