Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở việt nam hiện nay

.DOC
99
3
119

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI TRẦN VĂN ĐÔNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI TRẦN VĂN ĐÔNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành : Luật Kinh tế Mã số : 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Hồ Ngọc Hiển Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác. Các số liệu, thông tin, tài liệu tham khảo trong luận văn có xuất xứ rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Tác giả luận văn Trần Văn Đông iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU..............................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN.............................................9 1.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân 9 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp tư nhân.........9 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân 18 1.2. Nội dung của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân.................23 1.2.1. Thành lập doanh nghiệp tư nhân...........................................23 1.2.2. Những giới hạn đối với chủ doanh nghiệp tư nhân...............23 1.2.3. Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân............................24 1.2.4. Quản lý doanh nghiệp tư nhân..............................................25 1.2.5. Cho thuê, bán, chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân.................25 1.2.6. Chế độ thuế, kế toán đối với doanh nghiệp tư nhân..............26 Kết luận chương 1...............................................................................28 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................30 2.1. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay.................................................................................30 2.1.1. Quy định của pháp luật về thành lập doanh nghiệp tư nhân.......................................................................................30 1.2.2. Quy định của pháp luật về những giới hạn đối với chủ doanh nghiệp tư nhân............................................................34 2.1.3. Quy định của pháp luật về vốn của doanh nghiệp tư nhân.......................................................................................36 iv 2.1.4. Quy định của pháp luật về quản lý doanh nghiệp tư nhân.......................................................................................37 2.1.5. Quy định của pháp luật về cho thuê, bán, chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân...................................................................... 41 2.1.6. Quy định của pháp luật về chế độ thuế, kế toán đối với doanh nghiệp tư nhân............................................................46 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay........................................................................50 2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân và nguyên nhân............................................50 2.2.2. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân và nguyên nhân........................................................56 Kết luận chương 2...............................................................................65 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 3.1. PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM................67 Phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam...................................67 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam........................................73 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam...............................................................................73 3.2.1. Giải pháp thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam.......................................................................................81 Kết luận chương 3...............................................................................85 KẾT LUẬN........................................................................................86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................88 v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự DNTN: Doanh nghiệp tư nhân LDN: Luật doanh nghiệp KTTN: Kinh tế tư nhân XHCN: Xã hội chủ nghĩa vi DANH MỤC BẢNG Bảng 1. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh theo loại hình doanh nghiệp Bảng 2. 53 Đóng góp của doanh nghiệp tư nhân trong tổng kim ngạch xuất khẩu vii 54 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là loại hình doanh nghiệp dân doanh, được hình thành từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện đổi mới kinh tế, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhằm phát huy mọi tiềm năng của các cá nhân trong xã hội. Doanh nghiệp tư nhân ra đời và phát triển là minh chứng cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền tự do kinh doanh - một quyền kinh tế quan trọng của mọi người. Chủ trương Đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân (KTTN) là trọng tâm, tạo ra động lực to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nước ta (trong đó có DNTN). Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Nghị quyết đã nêu rõ quan điểm của Đảng về phát triển DNTN: “... có các cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập DNTN; thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp nhà nước và DNTN...[2]. Thể chế hóa đường lối của Đảng về quan tâm tạo cơ hội cho DNTN phát triển, Quốc hội Việt Nam khoá VIII đã thông qua đạo luật quan trọng là Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển DNTN, là cột mốc quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990: Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành lập DNTN (Điều 1); Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của DNTN, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của DNTN với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh 1 doanh. Trong khuôn khổ pháp luật, chủ DNTN có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh (Điều 3). Đến năm 1999, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 được hợp nhất với Luật Công ty năm 1990, đổi tên thành Luật Doanh nghiệp, được sửa đổi, bổ sung trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020. Từ cơ sở chính trị, pháp lý nêu trên, các DNTN ở Việt Nam ngày càng được quan tâm tạo cơ hội để phát triển. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2017, Việt Nam có khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó có trên 500 nghìn DNTN [32]. Thực tiễn từ năm 2005 cho đến nay, trên cơ sở sự hình thành khung pháp lý nhằm công nhận và bảo đảm sự tồn tại của các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN, DNTN đã và đang khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế. Theo dự báo, KTTN Việt Nam trong đó có DNTN trong nước dự kiến sẽ đạt mức đóng góp cho GDP Việt Nam mỗi năm đạt 50% vào năm 2020 hay 55% vào năm 2025 và 60% đến 65% vào năm 2030 [34]. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp năm 2019, Việt Nam có khoảng 17.000 DNTN quy mô lớn và 21.000 DNTN quy mô vừa [35]. Tuy nhiên, hiện nay các DNTN của Việt Nam chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Trên thực tế, những năm qua, DNTN vẫn gặp nhiều rào cản gia nhập thị trường, khó tiếp cận vốn ngân hàng và gặp nhiều khó khăn liên quan đến các thủ tục thuế và hải quan và những thách thức về quản trị doanh nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực, chi phí lương và bảo hiểm ngày càng cao, chi phí logistics lớn... Do đó, DNTN đóng góp cho GDP chỉ chiếm hơn 10% trong tỷ lệ đóng góp cho GDP của khối kinh tế tư nhân. 2 Hạn chế này một phần là do các DNTN chưa có kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, chưa có khung chính sách thật rõ ràng và ổn định từ phía Nhà nước nhằm đưa ra các biện pháp hữu hiệu tạo điều kiện cho các DNTN phát huy hết khả năng cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Dù đã có nhiều thành tựu, nhưng những nỗ lực cải cách thể chế cho đến nay vẫn đang loay hoay ở việc cởi trói, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, chứ chưa tạo được nhiều điều kiện thuận lợi để hỗ trợ khu vực tư nhân trong đó có DNTN phát triển. Hệ thống luật pháp về doanh nghiệp nói chung trong đó có DNTN và môi trường kinh doanh như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật về Môi trường, Luật Đầu tư công,… còn có nhiều điểm bất hợp lý, thiếu nhất quán và chồng chéo. Từ đó cho thấy cần phải nghiên cứu thấu đáo vấn đề pháp luật về DNTN ở Việt Nam hiện nay để đánh giá khách quan, khoa học những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp phát huy ưu điểm, hạn chế của pháp luật về DNTN, tạo môi trường pháp luật thuận lợi cho DNTN phát triển để đóng góp tích cực cho sự vận hành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay”để nghiên cứu trong phạm vi luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Pháp luật về doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng không phải là một nội dung mới mẻ ở Việt nam. Hiện nay, đã có khá nhiều đề tài cũng như các bài nghiên cứu pháp lý, các bài báo bàn về vấn đề này ở góc độ vĩ mô hoặc nghiên cứu chuyên sâu về từng loại hình doanh nghiệp như công ty cổ phần, công ty TNHH 2 thành viên, doanh nghiệp tư nhân…Theo đó, các nhà nghiên cứu tiếp cận địa vị pháp lý của doanh nghiệp ở khá nhiều góc độ như nội dung về chế độ pháp lý về thành lập, giải thể và phá sản doanh nghiệp; Một số giải 3 pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập; Quy chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay… Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến pháp luật về DNTN trên các bình diện khác nhau. Điển hình là một số công trình nghiên cứu khoa học sau đây: - Bài viết “Vài bình luận về pháp luật về doanh nghiệp tư nhân” của TS Ngô Huy Cương đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Luật học số 26 năm 2010. Từ thực trạng pháp luật còn thiếu những giải pháp để giải quyết những tranh chấp có liên quan và có nhiều bất cập trong việc điều tiết các mối quan hệ của DNTN, tác giả đã tập trung phân tích bản chất pháp lý của DNTN từ đó chỉ ra bất cập của pháp luật về DNTN; - Luận văn Thạc sĩ Luật học về “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân” của tác giả Ngô Thị Hường, bảo vệ năm 2011 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội triển khai trên cơ sở những vấn đề cơ bản về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân, từ đó phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân và kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân. - Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế về “Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Yến năm 2013, tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu các quy định pháp lý về địa vị pháp lý của DNTN trên cơ sở sử dụng và xem xét các quy định của Luật doanh nghiệp (LDN) 2005, Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan từ đó nhận định về thực trạng phát triển của DNTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. - Luận văn thạc sĩ Luật Kinh tế về “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở 4 Việt Nam” của Phùng Đức Dũng năm 2018, tại Viện Đại học Mở Hà Nội đã làm rõ các vấn đề lý luận về DNTN, phân tích, đánh giá tổng quan thực trạng pháp luật hiện hành về DNTN, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về DNTN ở Việt Nam. - Luận án Tiến sĩ Luật học về “Thủ tục pháp luật về đầu tư đối với doanh nghiệp tư nhân ở nước ta trong điều kiện Việt Nam trở thành nên kinh tế thị trường đầy đủ” của Trương Công Đắc năm 2016, tại Học viện Khoa học xã hội đã đi sâu phân tích những vấn đề lý luận về thủ tục pháp luật về đầu tư đối với DNTN trong nền kinh tế thị trường, phân tích thực trạng tủ tục pháp luật về đầu tư đối với DNTN tại Việt Nam, đề xuất những giải pháp hoàn thiện về quy định và thủ tục pháp luật đối với đầu tư của DNTN; … Tuy nhiên, các nghiên cứu mới tập trung làm rõ địa vị pháp lý của DNTN và các quy định pháp luật về DNTN; một số công trình chỉ tìm hiểu về một DNTN ở một địa phương cụ thể, một hoạt động cụ thể của DNTN hoặc nghiên cứu DNTN dưới góc độ một đơn vị kinh doanh thuộc thành phần KTTN. Do đó, tính đến thời điểm này, chưa có công trình nghiên cứu nào tiếp cận dưới góc độ Luật Kinh tế để nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay”. Cho nên đây là đề tài mới, học viên có thể kế thừa phát triển các kết quả nghiên cứu đã được công bố trong quá trình nghiên cứu luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật về DNTN ở nước ta hiện nay, từ đó đề ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về DNTN. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Một là, làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về DNTN: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của pháp luật về DNTN. Hai là, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về DNTN, chỉ ra ưu điểm, 5 hạn chế, nguyên nhân của ưu điểm hạn chế của pháp luật về DNTN ở Việt Nam hiện nay. Ba là, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về DNTN tạo cơ sở cho DNTN phát triển. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Pháp luật và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật về DNTN từ góc độ ngành Luật Kinh tế, tập trung nghiên cứu khái quát các qui định pháp luật về DNTN trong Luật doanh nghiệp năm 2014, sửa đổi năm 2020 và các văn bản pháp luật có liên quan hiện hành. Phạm vi không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật về DNTN ở Việt Nam. - Phạm vi thời gian: Tập trung nghiên cứu, đánh giá tình hình phát triển, đóng góp của DNTN đối với nền kinh tế Việt Nam từ các số liệu được cập nhật từ tháng 7 năm 2015 (LDN năm 2014 có hiệu lực) đến hết tháng 6 năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Trong Luận văn tác giả kết hợp tổng thể nhiều phương pháp nghiên cứu. Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn là những phương pháp cơ bản của khoa học pháp lý bao gồm phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, lịch sử, hệ thống, logic, diễn giải. Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong tất cả 03 chương của luận văn để luận giải các nội dung liên quan đến chủ đề luận văn; phân tích các qui định pháp lý được lý giải, dẫn chiếu trong các văn bản pháp luật, tổng hợp các qui định pháp luật về DNTN để có cái nhìn toàn diện hơn về địa vị pháp lý 6 của DNTN ở Việt Nam hiện nay; đặc biệt là trong đánh giá, tổng hợp, sử dụng các tài liệu, số liệu trong các công trình nghiên cứu đã công bố, số liệu trong các báo cáo tổng kết của các cơ quan có thẩm quyền có liên quan đến đề tài luận văn. Phương pháp lịch sử được sử dụng trong chương 1 và chương 2 để tìm hiểu khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về DNTN, đánh giá thực pháp luật về DNTN và thực hiện pháp luật về DNTN bối cảnh cụ thể về điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của Việt Nam. - Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các qui định trong LDN 2014 với LDN tư nhân 2005, Luật công ty 1990, đối chiếu các quy định trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung năm 2019 và các văn bản pháp luật khác về/liên quan đến doanh nghiệp. Ngoài ra, luận văn còn thực hiện đối chiếu, tổng kết với thực trạng áp dụng các qui định pháp luật trên thực tế nhằm rút ra những nhận xét về ưu điểm, hạn chế của pháp luật hiện hành làm cơ sở đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về DNTN. - Phương pháp thống kê được sử dụng trong phần mở đầu và chương 2 của luận văn nhằm tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực trạng pháp luật về DNTN và thực hiện pháp luật về DNTN ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét quá trình hình thành, phát triển một cách khách quan pháp luật về DNTN. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn: Kết quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về pháp luật về DNTN; làm rõ thêm vị trí, vai trò, tầm quan trọng của pháp luật về DNTN là cơ sở pháp lý để DNTN phát triển trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam. Những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của kết quả hạn chế của pháp luật và thực hiện pháp luật về DNTN ở Việt Nam hiện nay được 7 chỉ ra trong luận văn góp thêm luận cứ khoa học cho việc xác định những rào cản đối với sự phát triển của DNTN ở Việt Nam, từ đó có thể xác định đúng các phương hướng, giải pháp phát huy kết quả và khắc phục hạn chế của pháp luật và thực hiện pháp luật về DNTN. Các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về DNTN ở Việt Nam được luận giải trong luận văn có tính khả thi có thể tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề xuất chính sách pháp luật xóa bỏ rào cản để DNTN phát triển ngày càng tốt hơn. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các tác giả quan tâm nghiên cứu về chủ đề pháp luật và thực hiện pháp luật về DNTN ở Việt Nam; là tài liệu tham khảo các học viên trong quá trình nghiên cứu, học tập có liên quan đến pháp luật về DNTN tại cơ sở đào tạo của Học viện Khoa học xã hội và các cơ sở đào tạo khác. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp luật về doanh nghiệp tư nhân Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp tư nhân 1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp tư nhân Ở Việt Nam, sự tồn tại và phát triển của khu vực KTTN trong đó có DNTN mới được pháp luật chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được thông qua. Cũng từ đó, thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” được sử dụng và biết đến ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cho đến nay, trong thực tế vẫn có những trường hợp hiểu nhầm về nội hàm của khái niệm này. Phổ biến nhất là tình trạng sử dụng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” để chỉ một (hoặc các) doanh nghiệp “thuộc thành phần KTTN”. Và như vậy, những người nhầm lẫn đã dùng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” như là một đối trọng để phân biệt với “Doanh nghiệp Nhà nước” - doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Dùng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” như là cách gọi vắn tắt của “Doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN” là không chính xác. Chúng ta nên sử dụng một thuật ngữ khác phù hợp hơn để chỉ những doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN, đó là “Doanh nghiệp dân doanh”, vì thực ra, từ qui định ở Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990: “DNTN là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”; cho đến quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005 DNTN luôn được coi là một trong những hình thức đặc trưng về tổ chức kinh doanh mà cá nhân muốn đầu tư có thể lựa chọn. Về bản chất, DNTN được pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam qui định tương tự như Doanh nghiệp cá nhân 9 (Sole Proprietorship) ở các nước khác [21]. Và như vậy, DNTN chỉ là một loại hình doanh nghiệp đặc thù thuộc thành phần KTTN. Theo Khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp năm 2005 “DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Đây là một khái niệm ngắn gọn giúp chúng ta phân biệt DNTN với các hình thức tổ chức kinh doanh khác. Các yếu tố cơ bản tạo nên khái niệm này và cũng là những đặc điểm quan trọng nhất, đó là “loại hình”, “chủ sở hữu” và “chế độ trách nhiệm”. Đến Luật Doanh nghiệp năm 2014, tại Điều 183, Luật Doanh nghiệp năm 2020 tiếp tục tái khẳng định quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005: “DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Từ phân tích trên, cho thấy khái niệm DNTN được thừa nhận, ghi nhận trong pháp luật Việt Nam là: DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. 1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân Thứ nhất, Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ: Doanh nghiệp tư nhân không xuất hiện sự góp vốn giống như ở các công ty nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của DN cũng chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân duy nhất. Về quan hệ sở hữu vốn trong DNTN: Nguồn vốn ban đầu của DNTN xuất phát từ tài sản của chủ doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư, chỉ phải khai báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng kí. Vì vậy, không có giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của DNTN và phần còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là không thể tách bạch tài sản của chủ DNTN và tài sản của chính DNTN đó. 10 Thứ hai, về quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý trong DNTN: Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy cá nhân có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của DNTN. Chủ DNTN là người đại diện theo pháp luật của DNTN. Thứ ba, về phân phối lợi nhuận trong DNTN: Vấn đề phân chia lợi nhuận không đặt ra đối với DNTN bởi DNTN chỉ có một chủ sở hữu và toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp sẽ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên điều đó cũng có nghĩa là cá nhân duy nhất đó sẽ có nghĩa vụ chịu mọi rủi ro trong kinh doanh. Thứ tư, DNTN không có tư cách pháp nhân: Một pháp nhân phải có tài sản riêng, tức phải có sự tách bạch giữa tài sản của pháp nhân đó với những người tạo ra pháp nhân. DNTN không có sự độc lập về tài sản vì tài sản của DNTN không độc lập trong quan hệ với tài sản của chủ DNTN. Căn cứ theo Điều 74 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ 04 điều kiện sau đây: Một là, được thành lập hợp pháp; Hai là, phải có cơ quan điều hành; Ba là, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác; Bốn là, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của pháp nhân và nhân danh mình tham gia vào các quan hệ một các độc lập. Đối với trường hợp DNTN: Căn cứu về điều kiện “được thành lập theo quy định của pháp luật”: DNTN được cá nhân thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp. Căn cứ về điều kiện cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của DNTN được thực hiện theo quy định của Điều 185 Luật doanh nghiệp năm 2014: Chủ DNTN có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Căn cứ về tính độc lập của tài sản và trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ: Theo quy định tại Điều 81 Bộ luật dân sự 2015, tài sản của pháp nhân bao gồm vốn góp của chủ sở hữu, sáng lập viên, thành viên của pháp nhân và tài sản khác mà pháp nhân được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này, 11 luật khác có liên quan. Tuy nhiên, theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014: Vốn đầu tư của chủ DNTN do chủ DNTN tự đăng ký. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ DNTN không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ DNTN có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. chủ DNTN phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, ở tiêu chí này, tài sản của DNTN và chủ DNTN không có tính độc lập rõ ràng do không có ranh giới. Chủ DNTN có thể tăng hoặc giảm số vốn đầu tư bất cứ lúc nào. Đồng nghĩa vốn đầu tư của DNTN cũng có thể được chủ DNTN sử dụng như tài sản cá nhân. Về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ, chủ DNTN phải chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của DNTN bằng toàn bộ tài sản của mình chứ không dừng lại ở số vốn đăng ký đầu tư của chủ DNTN . Căn cứ về điều kiện “Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”: Trong quan hệ tố tụng, DNTN không được nhân danh mình để tham gia với tư cách độc lập mà tư cách tham gia là của chủ DNTN. Cụ thể, khoản 3 Điều 185 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định: chủ DNTN là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến DNTN . Như vậy, từ việc xét các điều kiện của pháp nhân được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015, có thể kết luận: DNTN không có tư cách pháp nhân vì: Tài sản của DNTN không có tính độc lập với cá nhân chủ sở hữu DNTN; chủ DNTN tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp chứ không phải DNTN. Thứ năm, chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động: Do tính chất độc lập về tài sản không có nên chủ DNTN - người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro 12 của Doanh nghiệp sẽ phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn. Chủ DNTN không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng kí mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng kí không đủ. Có thể khái quát đặc điểm của DNTN được thể hiện trong 04 nguyên tắc hoạt động của DNTN là “bốn tự” gồm: i) Tự bỏ vốn; ii) Tự tổ chứ; iii) Tự chủ trong kinh doanh; iv) Tự bù lỗ. Đây là cơ chế gắn kết hoạt động (lợi ích) với năng lực hoạt động của người lao động, một cơ chế hoạt động tối ưu hướng tới kết quả cao trong hoạt động của DNTN mà các loại hình doanh nghiệp khác không có. Từ đặc điểm của DNTN cho thấy DNTN có những nét tương đồng và những nét khác biệt với Hộ kinh doanh và Công ty TNHH một thành viên. Một là, so sánh giữa DNTN với Hộ kinh doanh: Theo quy định của pháp luật thì giữa mô hình Hộ kinh doanh và DNTN có những đặc điểm giống nhau như sau: i) Cả hai hình thức này đều là do cá nhân làm chủ, đều tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của đơn vị mình bằng toàn bộ tài sản của mình. Chủ thể thành lập phải là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật; ii) Pháp luật quy định cả hai đều không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa hộ kinh doanh và DNTN: Về chủ thể thành lập của DNTN và hộ kinh doanh có những điểm khác biệt sau đây: Đối với DNTN chỉ duy nhất do một cá nhân thành lập và cá nhân đó phải chịu mọi trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của chính mình. Trong khi đó, đối với Hộ kinh doanh, do tính chất của Hộ kinh doanh có thể do một cá nhân thành lập hoặc có thể là một nhóm, một hộ gia đình cùng thành lập. Cho nên, việc chịu trách nhiệm đối với Hộ kinh doanh cũng sẽ mang tính chất là trên cơ sở toàn bộ tài sản của cá nhân, của nhóm hoặc của hộ gia đình. Như vậy, mặc dù cùng tính chất là chịu trách nhiệm vô hạn của người thành lập đối với DNTN 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan