BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠI HỌC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG,
GIẢI QUYẾT ĐÌNH CÔNG TỪ THỰC TIỄN
TẠI BẮC NINH
CÁP MAI NGỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS. ĐÀO THỊ HẰNG
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi, có sự
hỗ trợ từ Giáo viên hướng dẫn là PGS.TS Đào Thị Hằng. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong
phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu
tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày
tháng năm 2019
Tác giả luận văn
Cáp Mai Ngọc
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn
quý báu của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
PGS.TS. Đào Thị Hằng- người cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu Luận văn.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám hiệu,
toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong bộ môn Luật Kinh tế - Khoa Sau đại học của trường
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn ở cạnh
động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu của
mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận
văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn
Cáp Mai Ngọc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ ĐÌNH CÔNG, GIẢI QUYẾT ĐÌNH
CÔNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐÌNH CÔNG,
GIẢI QUYẾT ĐÌNH CÔNG. .....................................................................................7
1.1. Một số vấn đề lý luận về đình công .....................................................................7
1.1.1. Khái niệm đình công .........................................................................................7
1.1.2. Các dấu hiệu cơ bản của đình công ..................................................................9
1.1.3. Phân loại đình công ........................................................................................12
1.2.Một số vấn đề lý luậngiải quyết đình công .........................................................13
1.2.1. Khái niệm về giải quyết đình công ..................................................................13
1.2.2.Ý nghĩa của việc giải quyết đình công .............................................................15
1.3. Quy định pháp luật Việt Nam về đình công và giải quyết đình công. ...............17
1.3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đình công ............................19
1.3.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết đình công............33
Kết luận chương 1 .....................................................................................................43
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG VÀ GIẢI
QUYẾT ĐÌNH CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .................................44
2.1. Khái quát tình hình kinh tế-xã hội tại tỉnh Bắc Ninh .........................................44
2.2. Thực tiễn thực hiện quy định về đình công và giải quyết đình công tại tỉnh Bắc
Ninh ...........................................................................................................................47
2.2.1.
Thực trạng đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.......................................47
2.2.2. Thực trạng giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .........................55
2.3. Đánh giá chung về thực tiễn thực hiện pháp luật về đình công và giải quyết đình
công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ................................................................................60
2.3.1. Những kết quả đã đạt được .............................................................................60
2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân .........................................................60
Kết luận chương 2 .....................................................................................................63
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰMHOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG, GIẢI QUYẾT
ĐÌNH CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH.................................................64
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về đình công và giải quyết đình công.................64
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đình công và giải quyết đình công
...................................................................................................................................65
3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đình công ............................65
3.2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết đình công .....................71
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đình công, giải
quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh..............................................................73
3.3.1. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đình công trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh.............................................................................................................73
3.3.2. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết đình công trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...............................................................................................75
3.3.3. Kiến nghị nhằm giảm thiểu đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. ...............76
Kết luận chương 3 .....................................................................................................80
KẾT LUẬN ...............................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................82
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Phối hợp giải quyết bước đầu các cuộc đình công thuộc phạm vi giải
quyếtcủa Ban quản lý khu công nghiệp ....................................................................57
Sơ đồ 2.2: Phối hợp giải quyết bước đầu các cuộc đình công thuộc phạm vi giải quyết
của Ủy ban nhân dân cấp huyện/thị xã/thành phố trực thuộc tỉnh ............................58
Sơ đồ 2.3: Phối hợp giải quyết bước đầu các cuộc đình côngthuộc phạm vi có thể giải
quyết của Tổ công tác giải quyết đình công cấp tỉnh: ...............................................58
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Giải nghĩa
BLLĐ
Bộ luật Lao động
BLTTDS
Bộ Luật Tố tụng Dân sự
ILO
Tổ chức Lao động quốc tế
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đình công là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, một mặt là biểu hiện của
quyền dân chủ, bảo vệ quyền hợp pháp và lợi ích chính đáng của người lao động, một
mặt lại là hiện tượng ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế xã hội và đôi khi cả chính
trị. Năm 1982, Việt Nam đã tham gia Công ước về các quyền kinh tế xã hội và văn
hóa của Liên hợp quốc, trong đó có quy định về quyền đình công của NLĐ: “Các
quốc gia tham gia công ước này cam kết bảo đảm (…) quyền đình công miễn là quy
định này được tiến hành phù hợp với pháp luật”, theo đó pháp luật Việt Nam đã thừa
nhận quyền đình công và cụ thể hóa tại BLLĐ qua các thời kỳ.
Bản chất của đình công là đe dọa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại về mặt kinh tế
đối với NSDLĐ nhằm thỏa mãn các yêu sách. Chính vì vậy khi pháp luật nghiêng về
hướng bảo vệ nền kinh tế và sự ổn định xã hội hơn thì quyền đình công sẽ bị thu hẹp
lại. Điều đó không hạn chế được đình công mà ngược lại càng khiến hiện tượng đình
công xảy ra phức tạp, không đúng trình tự thủ tục, khiến cơ quan nhà nước cũng như
NSDLĐ không kịp có phương hướng giải quyết.
Theo Báo cáo quan hệ lao động năm 2017 của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội [1], từ năm 1995 đến 31/12/2016, cả nước có gần 6000 cuộc đình công, 100%
các cuộc đình công đều diễn ra không đúng trình tự thủ tục, các cuộc đình công xảy
ra bất ngờ, không báo trước khiến NSDLĐ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết đình công không chủ động trong công tác giải quyết để giảm thiểu thiệt hại.
Giải quyết đình công thông qua hoạt động Tòa án nhân dân xét tính hợp pháp của
cuộc đình công không là giải pháp khả thi, vì chỉ có một vài trường hợp được đưa ra
Tòa án để giải quyết trên thực tế do thủ tục phức tạp và mất nhiều thời gian. Để giải
quyết đình công không đúng trình tự thủ tục, nhiều địa phương đã thành lập tổ công
tác giải quyết đình công không theo trình tự thủ tục, tuy nhiên chưa phù hợp với điều
1
222 BLLĐ 2012, việc giải quyết chỉ mang tính chất tình thế, không mang lại giá trị
lâu dài.
Những hiện tượng này một phần là do ý thức pháp luật của NLĐ chưa cao,
nhưng phần lớn là do quy định của pháp luật đình công và giải quyết đình công chưa
phù hợp với tình hình thực tế, gián tiếp thu hẹp quyền đình công của NLĐ. Cần có
những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật đình công và giải quyết đình công,
để giảm thiểu đình công không theo trình tự thủ tục, đình công bất hợp pháp và hoạt
động giải quyết đình công phát huy được vai trò đảm bảo cân bằng giữa lợi ích về
kinh tế xã hội và lợi ích của NLĐ và quan trọng là duy trì được mối quan hệ lao động
hài hòa, ổn định sau đình công.
Bắc Ninh là một tỉnh tập trung nhiều khu công nghiệp với số lượng doanh
nghiệp và NLĐ lớn. Tính đến cuối năm 2018 Bắc Ninh có 11.925 doanh nghiệp với
429.473 người lao động), lực lượng lao động lớn tập trung ở các doanh nghiệp FDI
(chiếm 65%), đa số là lao động ngoại tỉnh (chiếm 71 %), chủ yếu là lao động phổ
thông, làm những công việc giản đơn (chiếm 76 %), có ý thức kỷ luật cũng như pháp
luật chưa cao [17].Do đó, tình hình quan hệ lao động trên địa bàn tỉnh tiềm ẩn nhiều
nguy cơ, biểu hiện là đình công diễn ra rất phức tạp, tần suất xảy ra đình công khó
xác định và dự báo, tất cả các cuộc đình công đều không diễn ra theo trình tự thủ tục
gây ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp; công tác giải quyết đình
công không theo trình tự thủ tục chưa được thống nhất và còn nhiều tồn tại.Thực
trạng này đã ảnh hưởng phần nào đến an sinh xã hội, an ninh, trật tự cũng như thu hút
đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, trong thời điểm hiện nay, khi cả nước nói chung, Bắc Ninh nói
riêng vẫn đang tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và tham gia các Hiệp định thương mại thế hệ mới ngày càng sâu rộng, đòi hỏi phải
đổi mới hoàn thiện pháp luật lao động đáp ứng tiêu chuẩn lao động quốc tế, đặc biệt
là Công ước của Tổ chức lao động quốc tế về tự do hiệp hội và thương lượng tập thể;
do đó, Chính phủ đã xây dựng Dự thảo Bộ luật lao động (sửa đổi), trong đó có nội
2
dung rất mới quy định về quyền thành lập, tham gia tổ chức đại diện của người lao
động, quy định này dự báo sẽ có tác động không nhỏ tới tình hình quan hệ nói chung
và việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực quan hệ lao động nói riêng; ngoài ra,cả nước
cũng như Bắc Ninh đang bắt đầu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc này
sẽ ảnh hưởng đến quá trình tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh.
Tình hình kinh tế, xã hội và đặc điểm về doanh nghiệp, lao động của Bắc Ninh
nêu trên dự báo sẽ có tác động đến quan hệ lao động vốn đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ
bất ổn trên địa bàn tỉnh. Một khi quan hệ lao động không được ổn định, cộng thêm
sự ra đời của tổ chức đại diện người lao động (ngoài hệ thống công đoàn) thì tình
hình đình công có nguy cơ càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát, thậm chí đình
công sẽ trở thành công cụ cho những mục đích chính trị; ảnh hưởng không những đến
việc thu hút đầu tư mà còn cả trật tự chính trị xã hội.
Từ những thực tiễn trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về đình công,
giải quyết đình công từ thực tiễn tại Bắc Ninh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sỹ với mong muốn đóng góp một số ý kiến trong quá trình hoàn thiện pháp luật
về đình công, giải quyết đình công và việc thực hiện pháp luật đình công, giải quyết
đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, qua đó góp phần phát triển quan hệ lao động
hài hòa, ổn định phát triển trên địa bàn tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Với thực trạng đình công tại Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
đình công và giải quyết đình công với nhiều quy mô như như: Luận án tiến sỹ của
Tiến sỹ Đỗ Ngân Bình về “Pháp luật về đình công và giải quyết đình công ở Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” năm 2005; Luận văn thạc
sỹ luật học của Thạc sỹ Đinh Văn Sơn “Đình công và giải quyết đình công theo pháp
luật Việt Nam hiện hành” năm 2002; Luận văn thạc sỹ luật học của Thạc sỹ Hà Thị
Hoa Phượng năm 2013 “Đình công và giải quyết đình công theo Bộ luật Lao động
năm 2012”.
3
Vấn đề đình công và giải quyết đình công cũng được đề cập trong một số bài
tạp chí như: “Pháp luật đình công và giải quyết đình công nhìn từ góc độ thực tiễn”
- Tiến sỹ Đào Thị Hằng, đăng trên Tạp chí luật học số 5/2004; “Những bất cập của
pháp luật về giải quyết đình công ở Việt Nam hiện nay và môt số kiến nghị” - Thạc
sỹ Đỗ Ngân Bình, tạp chí Luật học số 3/2004.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu chỉ có thể đánh giá quy định của pháp
luật dựa trên lập luận phân tích là chủ yếu, chưa dựa trên thực tiễn bởi khi đó BLLĐ
2012 vừa có hiệu lực, quá trình thực thi chưa bộc lộ nhiều bất cập. Hiện nay, Quốc
hội đã xây dựng Dự thảo Bộ luật lao động (sửa đổi), chưa có công trình nào đánh giá
và đưa ra ý kiến về những nội dung liên quan đến đình công, giải quyết đình công mà
Dự thảo đề ra. Bên cạnh đó, Bắc Ninh hiện đang là một tỉnh có nền kinh tế phát triển
nhanh chóng, có nhiều nguy cơ tiềm ẩn về quan hệ lao động cũng như đình công. Vì
vậy, việc nghiên cứu những tồn tại của pháp luật đình công và giải quyết đình công
dựa trên thực tiễn thi hành nói chung, đánh giá những quy định của Dự thảo Bộ luật
lao động (sửa đổi), và đánh giá tình hình thi hành pháp luật đình công, giải quyết đình
công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là một đề tài có tính thực tế cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật đình công và giải quyết đình công; đánh giá một số quy định về đình công,
giải quyết đình công tại Dự thảo Bộ luật lao động (sửa đổi) trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về đình công và giải quyết đình công; đánh giá
thực trạng thi hành pháp luật đình công và giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh, từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần đảm bảo thi hành pháp luật đình công
và giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh; qua đó góp phần phát triển quan hệ lao động
hài hòa, ổn định và tiến bộ.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận
và thực tiễn thi hành đình công và giải quyết đình công, thực trạng thi hành pháp luật
đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu pháp luật về đình công và giải
quyết đình công trong Bộ luật lao động 2012, có hiệu lực từ ngày 01/5/2013. Đối với
thực trạng đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, nghiên cứu chủ yếu từ năm 2015
đến nay. Nghiên cứu về các cuộc đình công trước năm 2015 chỉ chủ yếu thông qua
số liệu, chưa có điều kiện nghiên cứu về nội dung, tính chất các cuộc đình công trước
năm 2015, do không có đầy đủ tài liệu nghiên cứu.
+ Về không gian nghiên cứu: Đối với chương 2, phạm vi nghiên cứu thực tiễn
thi hành pháp luật đình công và giải quyết đình công được giới hạn trong địa bàn tỉnh
Bắc Ninh.
+ Về nội dung nghiên cứu: Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, đề tài tập
trung nghiên cứu các quy định về đình công và giải quyết đình công trên phương diện
pháp lý. Từ thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cùng những quy định pháp
luật về đình công và giải quyết đình công theo pháp luật hiện hành cũng như Dự thảo
Bộ luật lao động (sửa đổi), chỉ ra những tồn tại và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật và việc quản lý nhà nước về quan hệ lao động, đình công trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở nắm vững quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó luôn khẳng định quyền đình công là
quyền của NLĐ. Luận văn vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của triết học
5
Mác - Lênin, của lý luận nhà nước và pháp luật làm cơ sở nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến đình công và giải quyết đình công.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp mô tả, diễn giải để làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến đình
công và giải quyết đình công; Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch,
so sánh pháp luật để phân tích những quy định của pháp luật lao động hiện hành so
với những quy định trước đây, pháp luật lao động Việt Nam so với pháp luật lao động
quốc tế; Phương pháp tổng hợp, phân tích, điển hình hóa được sử dụng để nêu bật
thực trạng thực thi pháp luật về đình công và giải quyết đình công, từ đó đưa ra kiến
nghị giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật.
6. Kết quả mới của luận văn
Đóng góp mới của luận văn là tác giả đã có những đánh giá, phân tích quy định
về pháp luật đình công, giải quyết đình công dựa trên thực tiễn thi hành, phân tích
các quy định trong Dự thảo lần 5 BLLĐ (sửa đổi) và đưa ra được những giải pháp
phù hợp với thực tế cũng như các yêu cầu của quốc tế về lao động trong thời kỳ hội
nhập; đồng thời nêu được thực trạng đình công, giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh, có những giải pháp không chỉ để giải quyết đình công mà còn có những
giải pháp phòng ngừa và chủ động nắm bắt được đình công qua đó góp phần xây
dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trên địa bàn tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đình công, giải quyết đình công và quy định
pháp luật Việt Nam hiện hành về đình công, giải quyết đình công
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về đình công, giải quyết đình công trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về đình công, giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
6
Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ ĐÌNH CÔNG, GIẢI QUYẾT
ĐÌNH CÔNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ ĐÌNH CÔNG, GIẢI QUYẾT ĐÌNH CÔNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về đình công
1.1.1. Khái niệm đình công
Đình công là một vấn đề phức tạp, vừa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, vì theo những nguyên lý cơ bản của triết học thì đấu tranh là động lực để phát
triển, một mặt lại có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế do hậu quả tiêu cực của
nó mang lại; đình công là hiện tượng tất yếu khách quan và cũng diễn ra do ý chí chủ
quan của NLĐ. Để có thể hiểu rõ về bản chất của vấn đề này, cần xem xét đình công
dưới ba góc độ: xã hội, kinh tế, pháp lý.
Dưới góc độ xã hội, đình công là một hiện tượng có tính “đám đông”, vì đình
công là sự ngừng việc được thực hiện bởi tập thể NLĐ, mang tính liên kết cao giữa
các cá nhân nhằm đến một mục đích chung là đe dọa gây thiệt hại kinh tế và đòi
quyền lợi. Đám đông có những tính chất sau: thứ nhất, đám đông có tính bốc đồng,
dễ thay đổi và dễ bị kích động; thứ hai, đám đông có tính dễ bị ám thị và cả tin; thứ
ba, đám đông có tính thái quá và phiến diện của tình cảm; thứ tư, đám đông có sự độc
đoán, bảo thủ và bất khoan dung; thứ năm, đạo đức của đám đông có thể thấp hơn và
cao hơn đạo đức của cá nhân tạo nên đám đông đó [23, tr.47-48].
Với những tính chất này đình công là hiện tượng có khả năng gây mất ổn định
đối với trật tự xã hội đối với các cuộc đình công có quy mô lớn, có sự tham gia đông
đảo của NLĐ, “hiệu ứng đám đông” kết hợp với những thành phần quá khích sẽ khiến
cuộc đình công phát triển theo chiều hướng xấu, có thể xuất hiện hiện tượng phá hoại
tài sản của NSDLĐ, hoặc gây ra thương tích. Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác, đình
công là một biểu hiện của việc đảm bảo quyền dân chủ trong lao động, bên yếu thế
được thực hiện quyền để bảo vệ lợi ích của mình.
7
Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh của NLĐ nhằm bảo vệ
các quyền và lợi ích kinh tế. Trong thị trường lao động, quan hệ lao động là một mối
quan hệ không tương xứng giữa một bên là người có tiền và có nhiều quyền quyết
định với một bên là những người chỉ có sức lao động, không có tiền và cũng không
có hoặc có rất ít quyền quyết định. Vì ở phía yếu thế trong quan hệ lao động, nên khi
không giải quyết được tranh chấp, NLĐ thường liên kết với nhau, cùng ngừng việc,
tạo thành sức mạnh tập thể để đấu tranh với NSDLĐ. Việc tập thể NLĐ ngừng việc
sẽ gây thiệt hại hoặc đe dọa dây thiệt hại đến lợi ích kinh tế của NSDLĐ, nên mục
đích chính của NLĐ khi ngừng việc là tạo sức ép kinh tế đối với NSDLĐ nhằm đạt
được những yêu sách trong quan hệ lao động mà họ đề ra. Ngoài ra, tồn tại một số
cuộc đình công không xảy ra trong quan hệ lao động, đó là những cuộc đình công
chính trị, nhằm gây sức ép với Nhà nước khi pháp luật hoặc chính sách đưa ra có ảnh
hưởng đến quyền lợi của NLĐ, hoặc đình công hưởng ứng, gây sức ép đối với
NSDLĐ ở một đơn vị khác để hưởng ứng cho những NLĐ đang đình công tại đó.
Dưới góc độ pháp lý, đình công là quyền của người lao động được pháp luật
quốc tế thừa nhận tại Điều 8 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội văn hóa
của Liên hợp quốc ngày 16/02/1996.Tuy ILO không có quy định trực tiếp về đình
công, nhưng coi quyền đình công là biểu hiện của quyền tự do liên kết, quyền tổ chức
và thương lượng tập thể của NLĐ (được đề cập trong Công ước số 87 năm 1948 và
Công ước số 98 năm 1949).
Pháp luật nhiều nước trên thế giới đã ghi nhận quyền đình công tại hiến pháp
hay luật chuyên ngành. Luật Lao động Campuchia định nghĩa “một cuộc đình công
là việc ngừng làm việc phối hợp bởi một nhóm người lao động diễn ra trong phạm vi
một doanh nghiệp hoặc một cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ từ người sử dụng
lao động như một điều kiện để họ làm việc”. Luật về giải quyết tranh chấp lao động
tập thể của Ba Lan coi “Đình công là sự ngừng việc tập thể của người lao động nhằm
mục đích giải quyết tranh chấp liên quan đến lợi ích nêu tại điều 1” [20, tr.98]. BLLĐ
2001 của Nga quy định đình công “là việc tập thể lao động tự nguyện từ chối tạm
thời đối với việc thực hiện trách nhiệm lao động của mình (một phần hoặc toàn bộ)
8
nhằm mục đích giải quyết tranh chấp lao động tập thể” [18, tr.61]. Đình công diễn
biến trên thực tế rất đa dạng, mỗi quốc gia lại có những nhận định riêng về đình công.
Định nghĩa chung nhất về đình công, là định nghĩa bao quát được hầu hết các trường
hợp đình công diễn ra trên thực tiễn, không bị những quan điểm chính trị về đình
công ảnh hưởng.
Từ những yêu cầu nói trên, tác giả xin đưa ra định nghĩa ngắn gọn về đình công
như sau: Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của tập thể
lao động nhằm gây áp lực buộc bên sử dụng lao động hoặc chủ thể khác phải thỏa
mãn các yêu sách về quyền và lợi ích mà họ quan tâm.
1.1.2. Các dấu hiệu cơ bản của đình công
Thứ nhất, đình công biểu hiện bằng sự ngừng việc tạm thời của NLĐ.
Đây được coi là dấu hiệu đầu tiên và là thuộc tính cơ bản của đình công. Đình
công trước tiên là sự ngừng việc của NLĐ. Trong điều kiện bình thường, người lao
động có nghĩa vụ phải làm việc theo thoả thuận với NSDLĐ. NLĐ nghỉ việc không
được sự đồng ý của NSDLĐ mà không có lý do chính đáng có thể bị xử lý kỷ luật lao
động. Tuy nhiên trong trường hợp xảy ra bất đồng giữa tập thể lao động với người sử
dụng lao động hay một chủ thể khác, tập thể lao động có thể ngừng việc nhằm gây áp
lực buộc chủ thể kia phải chấp nhận các yêu sách. Sự ngừng việc này có nhiều dạng,
nhiều mức độ khác nhau, có thể là ngừng việc một cách triệt để, tức là không thực
hiện các công việc theo các quy định và thỏa thuận hợp pháp của các bên, cũng có
thể là sự nghỉ việc lẻ tẻ, làm việc cầm chừng, không sử dụng hết công suất máy móc,
thời gian làm việc, không thực hiện một phần công việc theo thỏa thuận (hay còn gọi
là lãn công). Đa số các nước trên thế giới chỉ công nhận sự ngừng việc triệt để là một
biểu hiện của đình công, đối với các quốc gia này,hành vi lãn côngcó thể bị xử lý kỷ
luật lao động. Một số ít các quốc gia như Mỹ, Na Uy, Malayxia, Nga lại công nhận
việc ngừng việc không triệt để cũng là một biểu hiện của đình công.
Biểu hiện ngừng việc của NLĐ tham gia đình công chỉ có tính chất tạm thời,
tức là chỉ tạm ngừng quan hệ lao động. Trong ý thức của NLĐ, sự ngừng việc này
chỉ là trong một khoảng thời gian nhất định chứ họ không dự định nghỉ việc lâu dài,
9
không bỏ việc và không đi làm cho người khác. Theo ILO “những người tham gia
đình công vẫn cho rằng họ là những NLĐ của doanh nghiệp có quyền được trở lại
làm việc khi vụ tranh chấp được giải quyết”. Theo đó, ngừng việc chỉ là cách phản
ứng, không phải là mục đích mà họ mong muốn đạt được. Do đó, trong thời gian đình
công, quan hệ lao động vẫn tồn tại và NLĐ vẫn tiếp tục làm việc sau đình công.
Thứ hai, đình công có tính tập thể.
Đình công là quyền của mỗi cá nhân NLĐ nhưng thực hiện đình công bao giờ
cũng là hành vi mang tính tập thể. Sự tham gia của tập thể lao động vừa là một trong
các biểu hiện bên ngoài của đình công, vừa là một dấu hiệu không thể thiếu của đình
công. Tính tập thể của một cuộc đình công phải thỏa mãn hai điều kiện: một là cuộc
đình công phải do một số lượng lớn NLĐ tham gia; hai làphải có sự liên kết giữa
những NLĐ ngừng việc, cùng ngừng việc vì mục tiêu chung.Hành vi ngừng việc nếu
không thỏa mãn cả hai dấu hiệu này thì không được coi là đình công.
Về dấu hiệu thứ nhất, đây là dấu hiệu mang tính định lượng củacuộc đình công.
Số lượng lớn có nghĩa là đa số hoặc toàn bộ NLĐ tham gia đình công. Phạm vi có thể
là trong một bộ phận của doanh nghiệp hoặc một doanh nghiệp hoặc một số doanh
nghiệp hoặc một ngành hoặc một vùng. Một số quốc gia trên thế giới có quy định rõ
về số lượng người tham gia đình công so với tổng số lao động. Tuy nhiên dấu hiệu
này chưa đủ bao quát lên tất cả các trường hợp đình công trên thực tiễn, bởi pháp luật
nước Cộng hòa Pháp thừa nhận kể cả sự ngừng việc của một cá nhân NLĐ vì mục
đích mang tính tập thể thì cũng được coi là đình công [9, tr.23-24]. Như vậy, để nhận
diện một cuộc đình công, cần xem xét tiếp đến dấu hiệu thứ hai của tính tập thể.
Trong hai dấu hiệu nói trên, dấu hiệu thứ hai được coi là phản ánh rõ nét hơn
thuộc tính tập thể của một cuộc đình công. Thứ nhất, giữa những người lao động phải
có sự liên kết để đi tới đình công, biểu hiện của sự liên kết là tính tổ chức. Tính tổ
chức của cuộc đình công được hiểu là có người lãnh đạo đình công, đình công có yêu
sách rõ ràng và đã được chuẩn bị trước. Thành phần lãnh đạo đình công có thể là tổ
chức đại diện của những người lao động như công đoàn hay nghiệp đoàn, có thể chỉ
là một người hay một nhóm người được tập thể lao động bầu ra tại thời điểm chuẩn
10
bị đình công. Tư cách lãnh đạo của những người này có được pháp luật thừa nhận
hay không phụ thuộc vào quan điểm của từng Nhà nước.Thứ hai, NLĐ phải cùng
ngừng việc vì mục tiêu chung, nghĩa là những yêu sách đưa ra đối với NSDLĐ mang
lại lợi ích cho toàn bộ NLĐ tham gia đình công.
Như vậy, nếu chỉ có một vài, một số NLĐ hoặc một nhóm nhỏ ngừng việc mà
mỗi người vì những lý do khác nhau và không liên quan đến nhau thì chỉ là sự ngừng
việc của những cá nhân. Thông thường, nếu cá nhân tự ý ngừng việc nhằm gây sức
ép với NSDLĐ sẽ bị coi là vi phạm kỷ luật lao động và có thể phải chịu các hình thức
kỷ luật.
Thứ ba, đình công phải xuất phát từ sự tự định đoạt của NLĐ.
Đây là dấu hiệu về mặt ý chí của những NLĐ, thể hiện ở việc họ tự mình quyết
định ngừng việc, tham gia đình công trong khi vẫn có đầy đủ những điều kiện để làm
việc. Đình công là hành vi của tập thể nhưng lại là quyền của từng cá nhân, hành vi
của tập thể tồn tại trên cơ sở đảm bảo quyền của cá nhân, tức là mỗi cá nhân NLĐ
phải được thực hiện quyền tự định đoạt trong việc tham gia đình công. Quyền tự định
đoạt còn thể hiện ở việc cá nhân được lựa chọn một hành vi trong nhiều hành vi, tức
là NLĐ lựa chọn việc tham gia đình công khi vẫn có thể tiếp tục làm việc, không do
yếu tố khách quan mà NLĐ buộc phải ngừng việc.
Nếu hành động ngừng việc của NLĐ không xuất phát từ ý chí chủ quan của
NLĐ thì sẽ không được coi là đình công, ví dụ như trường hợp tập thể lao động phải
ngừng việc do bị người khác bắt buộc, cưỡng ép; ngừng việc do nguyên nhân bất khả
kháng như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa…hay ngừng việc do
lỗi của NSDLĐ hoặc do lỗi của NLĐ mà bản thân họ không muốn điều đó xảy ra.
Thứ tư, mục đích của đình công là nhằm đạt được yêu sách của những người
tham gia đình công.
Mục đích của những người lao động khi ngừng việc là nhằm gây thiệt hại hoặc
đe doạ gây thiệt hại với người sử dụng lao động để đạt được những yêu sách nhất
định. Trong quan hệ lao động với người sử dụng lao động, lợi ích của họ có thể bị chi
phối bởi ý chí chủ quan của người sử dụng lao động, hoặc chịu ảnh hưởng của các
11
yếu tố khách quan trong nền kinh tế như sự mất cân đối về cung cầu lao động, nạn
lạm phát hay thất nghiệp gia tăng... Trong quan hệ với Nhà nước, do bản chất khác
nhau của các Nhà nước, lợi ích của Nhà nước sẽ chi phối và ảnh hưởng đến lợi ích cá
nhân của người lao động theo hướng mở rộng hay thu hẹp các quyền lợi của người
lao động. Khi Nhà nước và NSDLĐ có các biện pháp phù hợp nhằm điều hoà, hạn
chế những mâu thuẫn về lợi ích trong quan hệ với người lao động, khi người lao động
cho rằng không còn biện pháp ôn hoà nào có thể bảo vệ quyền lợi của chính mình, họ
sẽ phản ứng bằng cách ngừng việc tập thể nhằm gây sức ép với Nhà nước hoặc chủ
sử dụng lao động- đó chính là hiện tượng đình công
1.1.3. Phân loại đình công
Tuy đều có những đặc điểm chung nói trên, nhưng đình công trên thực tế diễn
ra rất đa dạng với nhiều loại hình và tính chất khác nhau, vì vậy phân loại đình công
là một vấn đề có ý nhĩa trong lý luận và thực tiễn.
Có các cách phân loại đình công như sau:
Căn cứ vào phạm vi đình công, đình công bao gồm: đình công doanh nghiệp,
đình công bộ phận, đình công ngành hoặc liên ngành, tổng đình công.
Đình công doanh nghiệp là đình công do tập thể lao động trong phạm vi một
doanh nghiệp tiến hành. Đình công bộ phận là đình công do tập thể lao động trong
phạm vi một bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp tiến hành. Đình công ngành hoặc liên
ngành là những cuộc đình công của người lao động trong phạm vi một ngành hoặc
liên ngành trong phạm vi toàn quốc tiến hành. Tổng đình công là cuộc đình công do
giới lao động tiến hành trên phạm vi toàn quốc. Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ
công nhận đình công trong phạm vi doanh nghiệp là hợp pháp.
Căn cứ vào tính hợp pháp của cuộc đình công, đình công bao gồm: đình công
hợp pháp và đình công bất hợp pháp.
Đình công hợp pháp là đình công đảm bảo được đầy đủ các điều kiện do pháp
luật quy định về mục đích đình công, đối tượng được phép đình công, thời điểm có
12
quyền đình công, thủ tục chuẩn bị đình công, quyền lãnh đạo đình công và phương
thức đình công. Đình công bất hợp pháp là đình công không tuân theo các điều kiện
trên.
Căn cứ vào mục đích của đình công, đình công được chia làm hai loại là đình
công kinh tế và đình công chính trị.
Đình công kinh tế là đình công được tập thể lao động tổ chức vì quyền và lợi
ích về kinh tế liên quan trực tiếp đến nghề nghiệp của họ không được đảm bảo. Đình
công chính trị là việc tập thể người lao động ngừng việc để phản đối những chính
sách thuần túy về chính trị, những chính sách đối nội, đối ngoại của đất nước mà
không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích nghề nghiệp của họ. Đối với đình
công kinh tế, NSDLĐ sẽ là chủ thể bị hướng tới. Đối với đình công chính trị, tập thể
lao động sẽ đưa ra yêu sách với Nhà nước.
1.2.Một số vấn đề lý luậngiải quyết đình công
1.2.1. Khái niệm về giải quyết đình công
Trên thực tế, chưa có một định nghĩa nào về giải quyết đình công. Để giải quyết
đình công cần có hoạt động xem xét, phân tích, đánh giá và đưa ra kết luận trên cơ sở
các quy định của pháp luật. Hoạt động này không phải chủ thể nào cũng thực hiện
được, mà chỉ có thể là những cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Hiện nay tồn tại hai quan điểm về việc giải quyết đình công.
- Quan điểm theo nghĩa rộng: Giải quyết đình công được hiểu là tất cả các hoạt
động được tiến hành nhằm dàn xếp những bất ổn do đình công gây ra, hướng tới mục
đích chấm dứt đình công và tiếp tục quan hệ lao động. Sự dàn xếp này có thể do các
bên thương lượng hoặc có sự can thiệp của một chủ thể nào đó đóng vai trò trung
gian hòa giải hay ra phán quyết về tính hợp pháp của cuộc đình công [9, tr.27]. Theo
quan niệm này, giải quyết đình công bao gồm các hoạt động cụ thể sau:
Hoạt động xét tính hợp pháp của cuộc đình công.
13
- Xem thêm -