BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG TỪ
THỰC TIỄN TỈNH THÁI BÌNH
TRỊNH XUÂN HẢO
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 8 38 01 07
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN MINH MẪN
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành một đề tài Luận văn Thạc sĩ luật học, tác giả phải tìm hiểu,
nghiên cứu nhiều tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, như sách, giáo trình, tạp
chí, internet,… đồng thời thu thập các số liệu thực tế, qua đó thống kê, phân tích
và xây dựng thành một đề tài nghiên cứu hoàn chỉnh.
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của tôi.
Tất cả các nội dung và số liệu trong đề tài này do tôi tự tìm hiểu, nghiên cứu và
xây dựng, các số liệu thu thập là đúng và trung thực. Giải pháp là do tôi rút ra từ
quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác giải phóng mặt bằng các công
trình giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thái Bình mà bản thân tôi được tiếp
xúc và kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa được sử dụng để bảo vệ một học
vị nào.
Tôi cũng xin cam kết chắc chắn rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình trước Nhà
trường và những quy định pháp luật.
Hà Nội, ngày thángnăm2019
Tác giả luận văn
Trịnh Xuân Hảo
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này cũng như hoàn thành cả quá trình học tập, rèn luyện
là nhờ sự giảng dạy, động viên và hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô trong
khoa sau Đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội cùng cơ quan, gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành của mình đến Ban giám
hiệu, Ban chủ nhiệm khoa, các thầy giáo, cô giáo đã chỉ dẫn để tôi có những
kiến thức vô cùng quý giá giúp tôi có thể trưởng thành một cách vững vàng.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Bộ môn
Luật, đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Minh Mẫn, là người trực tiếp hướng dẫn, giúp
đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn UBND tỉnh Thái Bình, các Sở, Ban, ngành của tỉnh
Thái Bình đã tạo điều kiện cho tôi tiếp cận và thu thập những thông tin cần thiết
để làm sáng tỏ mục tiêu của đề tài.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè đã động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2019
Tác giả luận văn
Trịnh Xuân Hảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG GIẢI
PHÓNG MẶT BẰNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT PHỤC VỤ CÁC
DỰ ÁN CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG.
6
1.1. Cơ sở, khái niệm, mục đích ý nghĩa về bồi thường giải phóng mặt bằng
khi Nhà nước thu hồi đất.
6
1.1.1. Cơ sở chính trị và cơ sở lý luận của bồi thường, giải phóng mặt bằng
khi Nhà nước thu hồi đất.
6
1.1.2. Các khái niệm về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu
hồi đất
12
1.1.3. Đặc điểm bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
16
1.1.4. Mục đích ý nghĩa của việc bồi thường, giải phòng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất
17
1.2. Pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
21
1.2.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh pháp luật đối với việc bồi thường,
giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
21
1.2.2. Nội dung về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi
đất và pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi
đất
23
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất
24
1.3. Kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của một số quốc gia trên thế giới về
bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất và những gợi mở
cho Việt Nam
27
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
27
1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
29
1.3.3. Kinh nghiệm của Singapore
31
1.3.4. Một số gợi mở cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
34
1.3.5. Kinh nghiệm rút ra đối với việc bồi thường, giải phóng mặt bằng khi
Nhà nước thu hồi đất phục vụ các dự án công trình giao thông
35
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, GIẢI
PHÓNG MẶT BẰNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT PHỤC VỤ DỰ
ÁN CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG TẠI TỈNH THÁI BÌNH
38
2.1. Pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất
38
2.1.1. Các quy định chung về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước
thu hồi đất
38
2.1.2. Các quy định cụ thể về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
44
2.1.3. Nội dung các quy định về bồi thường tài sản trên đất khi Nhà nước
thu hồi đất
53
2.1.4. Trình tự thủ tục thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
56
2.1.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi
Nhà nước thu hồi đất
60
2.2. Thực trạng pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu
hồi đất ở tỉnh Thái Bình
63
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình và
sự ảnh hưởng đối với công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất
63
2.2.2. Các văn bản pháp luật của tỉnh Thái Bình về bồi thường, giải phóng
mặt bằng khi thu hồi đất phục vụ các dự án công trình giao thông
66
2.2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất phục vụ các dự án công trình giao thông tại tỉnh Thái Bình
67
2.2.4. Đánh giá quá trình thi hành pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ các dự án công trình giao thông tại
tỉnh Thái Bình
73
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG, GIẢI PHÓNG
MẶT BẰNG PHỤC VỤ DỰ ÁN CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG
80
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng
khi Nhà nước thu hồi đất trong mối liên hệ với việc thực hiện các dự án
công trình giao thông và nâng cao hiệu quả thi hành
80
3.1.1. Định hướng chung
80
3.1.2. Định hướng cụ thể
80
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất phục vụ dự án công trình giao thông qua thực tiễn thi hành
81
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng
khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ dự án công trình giao thông
81
3.2.2. Giải pháp tăng hiệu quả của triển khai thực tế
85
3.2.3. Giải pháp ổn định cuộc sống người dân trong vùng giải tỏa
90
3.2.4. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức thực
hiện pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất
phục vụ dự án công trình giao thông
91
KẾT LUẬN
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
CNH - HĐH
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
2
DN
Doanh nghiệp
3
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
4
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
5
GPMB
Giải phóng mặt bằng
6
NĐ-CP
Nghị định-chính phủ
7
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Số hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp ở các mức quy mô diện
tích khác nhau.
50
Bảng 2: Mức tiền bồi thường đất của các hộ dân
71
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện tồn
tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Đó là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc
phòng. Có thể nói đất đai quyết định sự tồn tại và phát triển của loài người.
Trong quá trình phát triển của đất nước, để đạt được mục tiêu đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, nhà nước cần
phải có quỹ đất lớn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ chính trị, an ninh,
quốc phòng, lợi ích công cộng, các khu công nghiệp, khu kinh tế cao và đô thị
hóa… Vì vậy, việc thu hồi đất để phục vụ các mục đích này là tất yếu. Tuy
nhiên, điều đó sẽ có tác động không nhỏ đến lợi ích và đời sống của người bị thu
hồi đất. Chính vì vậy việc sử dụng và hưởng lợi cho các công trình, dự án vì
mục đích chung như thế nào cho hợp lý là một vấn đề nghiêm túc phải được
nhìn nhận một cách khách quan, công tâm, từ chính sách pháp luật đến việc thực
thi chính sách đó trong thực tế. Điều quan trọng nhất là phải bù đắp được phần
nào những thiệt thòi mà người bị thu hồi đất phải gánh chịu mà vẫn đảm bảo hài
hòa mối quan hệ giữa họ với nhà nước và nhà đầu tư.
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt
Nam. Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa tại đây diễn ra vô cùng nhanh
chóng và sôi động, kéo theo đó, một diện tích đất ở và đất nông nghiệp đã bị thu
hồi để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, trong đó phải kể đến việc
thu hồi đất để phục vụ các dự án công trình giao thông trên địa bàn tỉnh. Trong
bối cảnh triển khai thực hiện Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành, thời gian qua, bên cạnh những kết quả tích cực việc thực thi pháp luật bồi
thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất để phục vụ các dự án
công trình giao thông còn bộc lộ nhiều hạn chế, khiếm khuyết gây ảnh hưởng
đến người bị thu hồi, nhất là đối với địa phương đất chật, người đông và có đất
nông nghiệp chiếm đa số như ở Thái Bình.
Chính vì các lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “pháp luật về bồi
thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất đối với các dự án công
1
trình giao thông từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ Luật tại khoa luật kinh tế, Viện Đại học Mở Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất là đề
tài thu hút sự nghiên cứu của giới luật học nước ta. Thời gian qua, đã có nhiều
công trình khoa học về vấn đề này được công bố và có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu sau:
Phạm Văn Võ (2009), “chế độ pháp lý về sở hữu đối với đất đai ở Việt
Nam hiện nay”, Luận án Tiến sỹ, Thành phố Hà Nội. Tác giả đã nêu tổng quan
chế độ pháp lý về sở hữu đất đai, việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân đối với
đất đai ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra. Đồng thời, đưa ra một số vấn đề về
đổi mới chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam.
Lưu Quốc Thái (2009), “thị trường quyền sử dụng đất – Thực trạng và
hướng hoàn thiện”, Luận án Tiến sỹ Thành phố Hà Nội. Tác giả đã nêu quá
trình thực thi các quy định của Luật đất đai năm 2013, trong đó đề cập về quyền
và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế trong sử dụng đất gặp không ít khó khăn, thách
thức như trên thực tế việc tiếp cận đất đai giữa tổ chức kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế còn thiếu sự bình đẳng (đặc biệt là đối với doanh nghiệp tư nhân
vừa và nhỏ); các tổ chức kinh tế chủ yếu tiếp cận đất đai tại thị trường sơ cấp
quyền sử dụng đất thông qua việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất, còn mang
nặng tính chất xin - cho tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm,
trong khi đó các giao dịch về quyền sử dụng đất trên thị trường thứ cấp về quyền
sử dụng đất dường như còn ít phát triển do thiếu khung pháp lý hoàn chỉnh, đầy
đủ và toàn diện cho thị trường này phát triển thông suốt và lành mạnh.
Hoàng Thị Biên Thùy (2010), “pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất”, Luận văn Thạc sỹ Thành phố Hà Nội. Tác giả đã nêu những vấn đề lý
luận và lịch sử về bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất. Phân tích thực
trạng pháp luật bồi thường thiệt hại về đất khi nhà nước thu hồi đất và hướng
hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
Tiếp đó, là các công trình trên một số tạp chí cũng đã thể hiện các quan
điểm, phân tích đánh giá, kết luận về việc bồi thường, GPMB khi nhà nước thu
hồi đất như:
2
TS. Nguyễn Quang Tuyến (2009), “vấn đề lý luận xung quanh khái niệm
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học.
ThS. Nguyễn Thị Dung, “chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số
nước trong khu vực và Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản.
TS. Nguyễn Thị Nga (2010), “pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất,
bồi thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá
trình áp dụng”, Tạp chí Luật học.
TS. Nguyễn Quang Tuyến, Bài viết “vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi
thu hồi đất trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung)”, Tạp chí Luật học số
12/2008.
ThS. Đặng Đức Long, “giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà
nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất”, Tạp chí Tài
nguyên và Môi trường số 5/2009.
TS. Trần Quang Huy, “chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp
chí Luật học số 10/2010.
PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ và TS. Hoàng Xuân Nghĩa (đồng chủ biên),
“hậu giải phóng mặt bằng ở Hà Nội- vấn đề và giải pháp”, Nxb. Chính trị quốc
gia, 2009.
Các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết một số lý luận và thực tiễn
cơ bản liên quan đến Pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng ở nước ta.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi
thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất đối với các dự án công
trình giao thông từ thực tiễn tỉnh Thái Bình có vai trò đưa ra các giải pháp góp
phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi Luật Đất đai 2013 vẫn chưa được
quan tâm đúng mực. Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu, luận văn đi sâu
vào tìm hiểu pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi
đất đối với các dự án công trình giao thông từ thực tiễn tỉnh Thái Bình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và
thực tiễn của việc Nhà nước bồi thường, giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất đối
với các dự án công trình giao thông tham chiếu với thực tiễn thi hành tại tỉnh
Thái Bình, từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
lĩnh vực pháp luật này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
(1) Phân tích khái niệm, đặc điểm của thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và
hậu quả của việc thu hồi đất; phân tích khái niệm, đặc điểm mục đích ý nghĩa và
lý giải cơ sở của việc bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
ở Việt Nam.
(2) Phân tích sự cần thiết, nội dung, hình thức và nguồn của cơ chế điều
chỉnh pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất;
lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất và những gợi mở cho Việt Nam trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất.
(3) Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi
Nhà nước thu hồi đất đối với các dự án công trình giao thông đường bộ từ thực
tiễn thi hành tại tỉnh Thái Bình nhằm chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân của những hạn chế, tồn tại đó; trên cơ sở đó, luận văn đưa ra định hướng
và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường, giải
phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất đối với các dự án công trình giao
thông từ thực tiễn tỉnh Thái Bình.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luậnvề bồi thường,
giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất; pháp luật về bồi thường, giải
phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi
thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất đối với các dự án công
trình giao thông đường bộ tại tỉnh Thái Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung: pháp luật về công tác bồi thường giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ các dự án công trình giao thông đường
bộ.
- Giới hạn về không gian: địa bàn tỉnh Thái Bình.
- Giới hạn về thời gian: nghiên cứu tình hình thực tiễn một số các dự án
công trình giao thông ở Thái Bình từ năm 2015 đến năm 2018.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
4
Để đạt được mục đích đặt ra trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử
dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau đây:
(1) Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp lịch sử,
phương pháp thống kê… được sử dụng trong chương 1.
(2) Phương pháp đánh giá, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh
Luật học, phương pháp đối chiếu… được sử dụng trong chương 2.
(3) Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp
được sử dụng trong chương 3.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý luận về về bồi thường,
giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất đối với các dự án công trình giao
thông đường bộ, qua đó làm phong phú thêm lý luận về về bồi thường, giải phóng
mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất.
- Ý nghĩa thực tiễn
Những giải pháp mà luận văn đưa ra là những tài liệu tham khảo hữu ích
cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong việc
nâng cao hiệu quả về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất
đối với các dự án công trình giao thông đường bộ nói riêng và về bồi thường,
giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất nói chung.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là tài liệu tham khảo hữu ích trong
các cơ sở đào tạo Luật
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Lời nói đầu và kết luận, luận văn có kết cấu 3 chương với
các nội dung cụ thể sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường giải phóng mặt bằng khi
Nhà nước thu hồi đất phục vụ các dự án công trình giao thông.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi
nhà nước thu hồi đất phục vụ dự án công trình giao thông tại tỉnh Thái Bình
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả công tác giải phóng mặt bằng phục vụ dự án công trình giao thông
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG GIẢI PHÓNG MẶT
BẰNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT PHỤC VỤ CÁC DỰ ÁN CÔNG
TRÌNH GIAO THÔNG
1.1. Cơ sở, khái niệm, mục đích ý nghĩa về bồi thƣờng giải phóng mặt
bằng khi nhà nƣớc thu hồi đất
1.1.1. Cơ sở chính trị và cơ sở lý luận của bồi thường, giải phóng mặt bằng
khi nhà nước thu hồi đất
1.1.1.1. Cơ sở chính trị của bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu
hồi đất
Nhận thức tầm sâu sắc vị trí và tầm quan trọng của đất đai ở nước ta, ngay
từ khi mới thành lập, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề đất đai. Trong luận
cương chính trị năm 1930, Đảng ta đã xác định rõ: coi “thổ địa cách mạng”
(Cách mạng ruộng đất) cùng với cách mạng tư sản dân quyền là một trong hai
mục tiêu chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam, với các nhiệm vụ cụ
thể là: “đánh đổ đế quốc chur nghĩa, phong kiến, địa chủ, làm cho người cày có
ruộng”. Quan điểm này được thực hiện một cách nhất quán khi cách mạng Việt
Nam bước sang giai đoạn phát triển kinh tế, kiến thiết đất nước. Ngày
13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100/CT-TƯ về “Cải tiến
công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong
hợp tác xã nông nghiệp” với nội dung quan trọng là tổ chức tốt việc giao diện
tích ruộng đất cho đội sản xuất, cho nhóm người lao động; khi diện tích giao
khoán cho người lao động được phân bố hợp lý thì có thể ổn định trong vài năm
để xã viên yên tâm thâm canh trên diện tích đó. Chính sách này đã đưa người lao
động gắn bó chặt chẽ với đất đai và bước đầu động viên nông dân hăng hái lao
động, sản xuất; đồng thời là “bước đầu quá trình xác lập địa vị làm chủ ruộng
đất thực sự của người lao động” .
Tiếp đó, Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội toàn quốc lần
thứ VI của Đảng năm 1986 khởi xướng đã làm thay đổi căn bản về nội dung
chính sách, pháp luật đất đai: Đất đai được giao cho hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài. Ngày 05/4/1988 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, trong đó khẳng định hộ gia
đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông nghiệp và giao khoán ruộng đất
6
ổn định, lâu dài cho hộ nông dân. Tiến trình đổi mới tư duy này được tiếp tục
ghi nhận trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 và
các Hội nghị Trung ương tiếp theo (đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần thứ 2
(khóa II, tháng 12/1991) và Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoa VII, tháng
6/1992) đã khẳng định thực hiện nhất quán chủ trương: “ruộng đất được giao
cho nông dân sử dụng lâu dài; Nhà nước quy định bằng pháp luật việc thừa kế,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX và các Hội
nghị Trung ương lần thứ chín (khóa IX) đã khẳng định quan điểm của Đảng về
duy trì, củng cố chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đi đôi với việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất; trong đó chú trọng thực hiện việc bồi
thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt, Nghị quyết số
26-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai nói chung
và các quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng nói riêng; Hội nghị lần thứ
sáu Ban chấp hành Trung ương khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 19-NQ/TW
ngày 06/11/2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời
kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; trong đó đưa ra nhiều
định hướng quan trọng trong thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng; cụ
thể:
- Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất hằng năm đã
được xét duyệt. Quy định rõ ràng và cụ thể hơn các trường hợp Nhà nước thực
hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội. Đối
với các dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền
sử dụng đất với nhà đầu tư để thực hiện dự án.
- Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thuộc trách nhiệm của
UBND các cấp và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Kiện toàn, nâng cao
năng lực của tổ chức có chức năng phát triển quỹ đất để bảo đảm thực thi nhiệm
vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất.
7
- Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo
đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định của pháp luật.
Người sử dụng đất được bồi thường theo mục đích đất đang sử dụng hợp pháp.
Tổ chức thực hiện có hiệu quả phương thức đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức
lại sản xuất và bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có đất bị thu hồi.
Nghiên cứu phương thức chi trả tiền bồi thường hỗ trợ để bảo đảm ổn định đời
sống lâu dài cho người có đất bị thu hồi.
- Hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động các nguồn vốn xây dựng các
khu dân cư có hạ tầng kĩ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để bố trí chỗ ở mới cho
người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa. Khu dân cư được xây
dựng phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền…
- Những quan điểm, đường lối trên đây của Đảng Cộng sản Việt Nam là
sự định hướng về chính trị để Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành thể chế hóa thành các quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi
Nhà nước thu hồi đất.
1.1.1.2. Cơ sở lý luận của bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu
hồi đất
Cơ sở lý luận của việc bồi thường
Thứ nhất, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa
trên cơ sở quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Hiến
Pháp 1946 đã ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản: “Quyền sở
hữu về tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12). Quyền này tiếp
tục được khẳng định trong bản Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền sở
hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở , tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản
xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
hợp pháp và quyền thừa kế của công dân” (Điều 58). Hơn nữa, Hiến pháp năm
1992 còn long trọng tuyên bố: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị
quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh và vì
lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của
cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường…”. (Điều 23);
Như vậy, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ chức đã
được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
8
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì toàn bội tài
sản hợp pháp găn liền với đất bị thu hồi của người đang sử dụng đất đều phải
được bồi thường theo giá thị trường. Đối với trường hợp người sử dụng đất bị
thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở, Nhà nước phải thực hiện chính sách tái định
cư cho các đối tượng này;
Thứ hai, xét về bản chất Nhà nước ta là Nhà nước do nhân dân lao động
thiết lập lên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân; phục vụ
và chăm lo cho lợi ích, sự phồn vinh của người dân. Do đó, thì khi Nhà nước thu
hồi đất của người dân để sử dụng vào bất kể mục đích gì mà làm phương hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ
phải bồi thường nhằm ổn định cuộc sống cho người sử dụng đất.
Thứ ba, xét về phương diện lý luận, thiệt hại về lợi ích của người sử dụng
đất là hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra.
Hơn nữa, trong điều kiện Nhà nước và pháp quyền, mọi chủ thể trong xã hội bao
gồm Nhà nước, công dân, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội…đều
bình đẳng với nhau trước pháp luật. Nước ta đang từng bước xây dựng một xã
hội dân sự văn minh và hiện đại nơi mà ở đó quyền lợi hợp pháp của mọi thành
viên trong xã hội phải được luật pháp tôn trọng và bảo vệ. Với cách tiếp cận như
vậy, khi Nhà nước thu hồi đất ở mà làm thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của người
sử dụng đất thì Nhà nước không những có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mà
còn phải thực hiện tái định cư cho họ.
Thứ tư, Nhà nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hướng tới
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Điều
này chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước biết tôn trọng và bảo hộ những
quyền lợi chính đáng của người dân.
Thứ năm, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và mở rộng các quyền năng cho người sử
dụng đất. Như vậy, "kể từ đây quyền sử dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất
đai được chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở
thành một loại quyền về tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất" hay nói
cách khác, “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
9
thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất”
[11].Có nghĩa đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng
đất.Như vậy, một khi pháp luật đã thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại
quyền về tài sản của người sử dụng đất, thì khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước
phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho người sử dụng đất.
Cơ sở lý luận của việc giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng là một quá trình tổ chức thực hiện các công việc liên
quan đến di dời nhà cửa, cây cối các công trình xây dựng và một bộ phận dân cư
trên phần đất nhất định được quy hoạch cho việc cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng
một công trình mới trên đó. (Nghị định 197/2004/NĐ-CP).
Quá trình giải phóng mặt bằng được tính từ khi bắt đầu hình thành Hội
đồng giải phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao cho chủ đầu tư mới.
Đây là một quá trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau giữa các dự án
và liên quan trực tiếp đến các bên tham gia và của toàn xã hội.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, “Giải phóng mặt bằng” là một trong
những công việc quan trọng phải làm trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Sự cần thiết triển khai xây dựng nhiều công trình cơ sở hạ tầng,
nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, theo đó các cơ sở văn
hoá giáo dục, thể dục thể thao cũng đuợc phát triển, tốc độ đô thị hoá cũng diễn
ra nhanh chóng.
Công tác giải phóng mặt bằng mang tính quyết định tiến độ của các dự
án, là khâu đầu tiên thực hiện dự án. Có thể nói: “Giải phóng mặt bằng nhanh
là một nửa dự án”. Việc làm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của
Nhà nước, của chủ đầu tư, mà còn ảnh hưởng đến đời sống vật chất cũng như
tinh thần của người bị thu hồi đất, cụ thể:
Đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng:
Ở mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội có một sự phát triển thích
ứng của hạ tầng kinh tế xã hội. Với tư cách là phương tiện vật chất kỹ thuật, hạ
tầng kinh tế xã hội lại trở thành lực lượng sản xuất quyết định đến sự phát triển
của nền kinh tế xã hội mà trong đó giải phóng mặt bằng là điều kiện tiên quyết
để dự án có được triển khai hay không.
- Về mặt tiến độ hoàn thành của dự án
10
+ Tiến độ thực hiện các dự án phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau
như: Tài chính, lao động, công nghệ, điều kiện tự nhiên, tập quán của người
dân trong diện bị giải toả… Nhưng nhìn chung, nó phụ thuộc nhiều vào thời
gian tiến hành giải phóng mặt bằng.
+ Giải phóng mặt bằng thực hiện đúng tiến độ đề ra sẽ tiết kiệm được
thời gian và việc thực hiên dự án có hiệu quả. Ngược lại giải phóng mặt bằng
kéo dài gây ảnh hưởng đến tiến độ thi công các công trình cũng như chi phí
cho dự án, có khi gây ra thiệt hại không nhỏ trong đầu tư xây dựng. Chẳng hạn
một dự án dự kiến hoàn thành đến hết mùa khô nhưng do giảiphóng mặt bằng
chậm, kéo dài nên việc xây dựng phải tiến hành vào mùa mưa gây khó khăn
cho việc thi công cũng như tập trung vốn, lao động, công nghệ cho
dự án này và ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án khác.
- Về mặt kinh tế của dự án: Giải phóng mặt bằng thực hiện tốt
giảm tối đa chi phí cho việc giải toả đền bù, có điều kiện tập trung vốn
đầu tư cho các công trình khác. giải phóng mặt bằng kéo dài dẫn đến chi phí
bồi thường lớn, không kịp hoàn thành tiến độ dự án dẫn đến sự quay vòng vốn
chậm gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, các nhà đầu tư trong nước có
nguồn vốn hạn hẹp thì việc quay vòng vốn là rất cần thiết để đảm bảo tận dụng
cơ hội đấu thầu của các công trình khác.
Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Nếu công tác giải phóng mặt bằng không được thực hiện tốt sẽ xảy ra
hiện tượng “treo” công trình làm cho chất lượng công trình bị giảm, các mục
tiêu ban đầu không thực hiện được, từ đó gây lãng phí rất lớn cho ngân sách
Nhà nước. Mặt khác, khi giải quyết không thoả đáng quyền, lợi ích hợp pháp
của người có đất bị thu hồi sẽ dễ dàng nỗ ra những khiếu kiện, đặc
biệt là những khiếu kiện tập thể, làm cho tình hình chính trị - xã hội mất
ổn định.
Sau một thời gian dài thực hiện Luật đất đai 1993 đã thấy những thiếu
sót, những khó khăn về phạm vi bồi thường, nên đến Luật đất đai 2003 và cùng
với đó Chính phủ ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 đã
khắc phục được những thiếu sót, khó khăn trên.
Hiện nay cùng với Nghị định 197/2004/NĐ-CP, Nghị định 181/2004/NĐCP, Nghị định 84/2007/NĐ-CP là sự ra đời của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
ngày 13/08/2009 của Chính phủ, trong đó công tác bồi thường giải phóng mặt
bằng đã có nhiều thay đổi khi UBND cấp tỉnh có dự án được thoả thuận với
11
người dân về mức bồi thường. Qua đó kéo gần thêm khoảng cách giữa chủ đầu
tư với người có đất bị thu hồi, hạn chế những “dự án treo” trên giấy mà nguyên
nhân chủ yếu là việc bồi thường giải phóng mặt bằng gặp khó khăn.
1.1.2. Các khái niệm về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu
hồi đất
1.1.2.1. Khái niệm thu hồi đất và các tác động của thu hồi đất
Trước đây, Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 đã cập nhật
vấn đề thu hồi đất nhưng chưa định nghĩa rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ liệt kê
các trường hợp bị thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và Điều 26 Luật
Đất đai năm 1993).
Khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời, thuật ngữ thu hồi đất đã được giải
thích tại khoản 5 Điều 4 “thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính
để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã,
phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này”. Dù đã được điều chỉnh về
nội hàm của khái niệm thu hồi đất, song cách giải thích này chưa thật sự chính
xác bởi nó dẫn đến cách hiểu rằng người sử dụng đất bị thu hồi chỉ là tổ chức
hay UBND xã, phường, thị trấn, trong khi theo quy định pháp luật, người sử
dụng đất bị thu hồi còn có thể là hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, hơn nữa đây
mới là chủ thể phổ biến bị thu hồi đất.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 đã quy
định “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp
thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tếxã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi phải công khai, minh bạch và
được bồi thường theo quy định của pháp luật”. Như vậy, việc thu hồi đất và bồi
thường của Nhà nước đã được ghi nhận trong Hiếp pháp là đạo luật gốc, trên cơ
sở đó, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định tại khoản 11 Điều 4 “Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được
Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi
phạm pháp luật về đất đai”.
Từ những nghiên cứu trên, có thể hiểu một cách khái quát về thu hồi đất:
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất và quyền
sử dụng đất đàn có người sử dụng, trong những trường hợp nhất định theo quy
định của pháp luật đất đai.
12
- Xem thêm -