Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn tỉnh lạng sơn...

Tài liệu Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn tỉnh lạng sơn

.DOC
89
9
50

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG MINH CHÂU PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG MINH CHÂU PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật kinh tế - Học viện Khoa học xã hội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật kinh tế xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Dương Minh Châu MỤC LỤC MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC................................................6 1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc...................................................6 1.2. Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc.......................................................12 1.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc...........................................................13 1.4. Các yếu tố tác động việc thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc....28 Chương 2 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN………………………………………………………………………………..30 2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc........................................................30 2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc....................................................30 2.1.2. Về các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc......................................................................31 2.1.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc..........................................................................................43 2.1.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc................................................................................................................................................45 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn. . 49 2.2.1. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.....................................................................................................................................................49 2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc………………………………………………………………………………...59 2.2.3. Nguyên nhân của tình trạng chậm đóng, nợ đọng và không tham gia bảo hiểm xã hội.................................................................................................................................................61 2.2.4. Thực tiễn công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn...........................................65 Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN .........................70 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc......................70 3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.......................................................74 KẾT LUẬN..............................................................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................81 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ ASXH An sinh xã hội BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế BHTN Bảo hiểm thất nghiệp ILO Tổ chức Lao động quốc tế HĐLĐ Hợp đồng lao động NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động TNLĐ, BNN Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp DN Doanh nghiệp SXKD Sản xuất kinh doanh DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016 - 2019 ............................................................................................................... 52 Bảng 2.2. Số lao động tham gia BHXH bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016 – 2019:………………. ................................................................................................. 53 Bảng 2.3. Kết quả thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức sau sinh, TNLĐ - BNN giai đoạn 2016 - 2019 ........................................................................ 54 Bảng 2.4. Kết quả thực hiện hưu trí giai đoạn 2016 – 2019 .................................... 55 Bảng 2.5. Kết quả thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2016 – 2019 ................................ 56 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên thế giới, để hệ thống An sinh xã hội của mỗi quốc gia được xây dựng một cách hoàn hảo thì bảo hiểm xã hội đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm và ngày càng trở thành một công cụ hữu hiệu, một khâu không thể thiếu, một bộ phận hợp thành hệ thống An sinh xã hội. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội nên luôn xác định chính sách bảo hiểm xã hội là chính sách quan trọng, có tính nhân văn sâu sắc, nhằm đảm bảo tốt hơn đời sống người lao động, góp phần tích cực vào việc ổn định, an toàn xã hội và sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và đồng thời thiết lập hành lang pháp lý của Bảo hiểm xã hội một các chặt chẽ. Tại cuộc họp Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 6 năm 2006 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007, với chính sự phê duyệt quan trọng đó đã đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật bảo hiểm xã hội ở nước ta trong việc điều chỉnh các mối quan hệ bảo hiểm xã hội giữa NLĐ với NSDLĐ đồng thời mở rộng hơn nữa các loại hình bảo hiểm xã hội và phạm vi tham gia cũng như thụ hưởng bảo hiểm xã hội để NLĐ có thể hưởng những chính sách tốt nhất, đồng thời tăng cường vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý về bảo hiểm xã hội. Sau nhiều năm thực hiện triển khai Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội kèm theo, hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội đã đi vào cuộc sống, từng bước mở rộng đối tượng tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ và NSDLĐ, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu an sinh xã hội của Nhà nước. Tuy nhiên, do nước ta vẫn còn là một trong những nước đang phát triển nên trong quá trình thực hiện, các chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội vẫn có không ít các điểm bất hợp lý thể hiện trong bản thân nội dung quy định của chính sách, chế độ và việc tổ chức thực thi các quy định này trong các chế độ của bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định. Hạn chế trong chính sách tác động mạnh đến quyền lợi của NLĐ từ đó làm mất sự công bằng giữa các đối tượng được thụ hưởng. Chế tài xử phạt các vi phạm 1 hành chính trong lĩnh vực BHXH vẫn chưa đủ mạnh, mang tính răn đe cao nên mức tuân thủ còn thấp. Tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn phổ biến nhất vào thời điểm xảy ra dịch bệnh như hiện nay gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của NLĐ và những đối tượng thụ hưởng khác. Lạng Sơn là một tỉnh đang phát triển về mặt nông nghiệp, văn hóa, y tế, giáo dục và thương mại. Tỉnh Lạng Sơn có thế mạnh thu hút đầu tư về công nghiệp, du lịch, dịch vụ và giáo dục đặc biệt là thu hút đầu tư từ nước ngoài do tiếp giáp với nước Trung Quốc. Công tác BHXH trong thời gian qua đang được quan tâm và ưu tiên đặc biệt. Vai trò của pháp luật về BHXH trong đó có hoạt động thu, chi, đảm bảo chính sách cho đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng trưởng tốt. Tuy nhiên đối với tình hình xã hội đang đổi mới, BHXH vẫn chưa khai thác hết tiềm năng và thế mạnh, tuy đối tượng phát triển ngày một tăng nhưng nhiều vấn đề phát sinh. Qua những bất cập đã được đề cập trên đòi hỏi cần phải đánh giá một cách đầy đủ hơn về chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội, từ đó chỉ ra những quy định phù hợp với thời điểm hiện tại, những vướng mắc còn tồn tại cần được nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung để có thể đáp ứng các yêu cầu thực tế xã hội. Vì lý do đó, tôi xin chọn đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng ở nước ta hướng sự quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề an sinh xã hội nói chung, pháp luật bảo hiểm xã hội nói riêng. Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và từng chế độ nói riêng, điển hình như: - Nguyễn Thị Hồng Nhung: Nghiên cứu “Pháp luật về BHXH từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên". Luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật Hiến Pháp và luật hành chính, Học viện chính trị quốc gia, năm 2017. Luận văn chỉ ra rằng việc triển khai thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách thực sự có hiệu quả vẫn còn là một vấn đề phức tạp, khó khăn, luôn đòi hỏi sự tìm tòi, nghiên cứu về lý luận, sáng tạo trong thực tiễn thực hiện tại mỗi địa phương. 2 - Nguyễn Thị Hương: Nghiên cứu "Pháp luật về BHXH bắt buộc qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng trị". Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học luật Đại học Huế, năm 2018. Luận văn đã phân tích được những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội bắt buộc, đánh giá dược thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại địa phương và luận văn cũng đã đưa ra những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc đồng thời nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Hà Thị Hiền (2018), "Chế độ hưu trí theo Luật BHXH năm 2014 ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Học viện KH - XH. - Hoàng Hồng Giang (2015) đã thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ: "Một số biện pháp tăng cường quản lý công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH thành phố Hải Phòng". - Luận văn của Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội. - Luận văn của Nguyễn Thị La Giang (2015), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn ở Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội. - Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Trường Giang (2013), Hoàn thiện cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, Học viện khoa học xã hội. - Đề tài khoa học cấp Bộ (2013): Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội, Chủ nhiệm Tiến sĩ Dương Xuân Triệu, cấp Bộ LĐ-TBXH. - Bài viết Lê Quang Thắng (2018), Bình luận tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo BLHS năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 9/2018. - Bài viết của tác giả Phan Tiến Anh (2016) , Nhận diện một số thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội và biện pháp phòng ngừa. Tạp chí kiểm sát số 6 Các bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên đã góp phần tạo ra các cơ sở lý luận và chỉ ra được những vấn đề thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc, 3 tuy nhiên các công trình này còn tản mạn, hoặc nếu viết về pháp luật BHXH chưa làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật BHXH bắt buộc tại một địa phương cụ thể. Do vậy, luận văn tập trung nghiên cứu và làm sáng rõ thêm những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng để từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc. 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng như thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên những nội dung chủ yếu sau: - Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lĩnh vực này. - Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trong giới hạn nghiên cứu của đề tài. Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc, thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay. Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại địa bàn tỉnh Lạng Sơn trên cơ sở các văn bản pháp luật như: Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản pháp luật khác điều chỉnh về bảo hiểm xã hội bắt buộc. 4 Về mặt thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay từ năm 2016-2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội bắt buộc và quan điểm của Tổ chức Lao Động Quốc tế (ILO) về bảo hiểm xã hội bắt buộc qua một số Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực của đề tài như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê…cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Luận văn góp hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội bắt buộc như khái niệm, đặc điểm, vai trò, sự điều chỉnh của pháp luật đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại Lạng Sơn. Luận văn đã đề xuất ra giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Lạng Sơn. Những giải pháp này có tính chất tham khảo cho các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố cục 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC 1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc Bảo hiểm xã hội có thể được coi là một sự hỗ trợ chắc chắn đối với bất kì mọi người, bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển là một quá trình thích ứng và xử lý những vấn đề liên quan đến nhu cầu con người. BHXH đã xuất hiện từ rất lâu đời xuất phát từ thế kỷ XIII ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển, BHXH ban đầu xuất hiện chỉ mang tính chất xơ khai với phạm vi khá nhỏ hẹp. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau, như năm 1473 tại Anh đã thành lập hội "bằng hữu" để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp. Hệ thống BHXH lần đầu tiên trên thế giới được hình thành vào giữa thế kỉ XIX là công trình của Chính phủ Đức dưới thời Thủ tướng Bismarck. Năm 1893 Thụy Sĩ lập quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự nguyện với cơ chế ba bên (Nhà nước - giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số trường hợp họ gặp rủi ro. Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng ra các nước giành độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribe. Đến đầu thế kỷ XX có nhiều nước công nghiệp châu Âu đã ban hành Luật bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự nguyện được nhà nước trợ cấp. Theo ILO: "BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó với khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con". Tác phẩm: "Một số vấn đề về chính sách đảm bảo xã hội ở nước ta hiện nay”: 6 "BHXH chính là một quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của NSDLĐ và NLĐ dưới sự điều tiết của nhà nước, nhằm đảm bảo một phần thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của NLĐ và gia đình gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập lao động". Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà NLĐ và người sử dụng lao động phải tham gia “Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà NLĐ và NSDLĐ phải tham gia”. Bảo hiểm xã hội có thể đảm bảo chắc chắn, ổn định và bền vững khi có sự tổ chức của Nhà nước với những quy định mang tính bắt buộc để có thể hình thành nên một quỹ tiền tệ tập chung ở một phạm vi vô cùng lớn và đây cũng chính là cơ sở cho việc hình thành nên hình thức bảo hiểm xã hội ở phạm vi lớn đồng thời hình thành hình thức bảo hiểm xã hội bắt buộc. 1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội bắt buộc Dựa trên các quy định theo công ước ILO và các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc của các đã ban hành, ta có thể bảo hiểm xã hội bắt buộc mang những đặc điểm cơ bản dưới đây: Thứ nhất, việc tham gia loại hình bảo hiểm xã hội này mang tính chất bắt buộc Việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không phụ thuộc vào ý chí của NLĐ đồng ý tham gia hay do NSDLĐ quyết định NLĐ có được tham gia hay không mà loại hình bảo hiểm này mang tính chất bắt buộc, NLĐ và NSDLĐ buộc phải thực hiện nghiêm túc bởi, mục đích chủ yếu của BHXH là đảm bảo nguồn thu nhập cho NLĐ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống lúc giảm hoặc mất nguồn thu nhập. BHXH bắt buộc là sự bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi NLĐ bị suy giảm hay mất khả năng lao động dẫn đến bị suy giảm hay mất thu nhập. BHXH buộc sẽ bù đắp thu nhập cho NLĐ khi NLĐ đang tham gia vào quan hệ lao động hoặc kể cả khi chấm dứt quan hệ lao động hay khi NLĐ chết. 7 BHXH bắt buộc luôn chứa đựng vai trò đan xen cả về kinh tế và xã hội. Vai trò của pháp luật là xác lập được hình thức pháp luật nhất định và đảm bảo thực hiện bởi các cơ chế pháp luật thích hợp nhằm kết hợp hài hòa nội dung kinh tế và xã hội trong BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên trong quan hệ BHXH. Vậy nên việc tham gia BHXH không chỉ bắt buộc với NLĐ hay NSDLĐ mà bắt buộc đối với cả Nhà nước Thứ hai, pháp luật ban hành quy định cụ thể về mức đóng và phương thức đóng loại hình bảo hiểm xã hội Nếu trong trường hợp NLĐ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì người tham gia được lựa chọn phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội thì NLĐ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được ấn định cụ thể vô cùng chi tiết. Mức đóng của BHXH bắt buộc không chỉ NLĐ phải đóng toàn bộ mức mà phải có sự đóng góp của NSDLĐ. Mức đóng và phương thức đóng của NLĐ cần được quy định chi tiết để NLĐ có thể tự thấy được mức đóng hàng tháng, phương thức đóng của bản thân và quan trọng nhất là dựa vào đó có thể nhận biết căn cứ được hưởng chế độ theo quy định đồng thời qua Luật còn nêu một số trường hợp NLĐ không đủ cơ sở để tham gia BHXH bắt buộc, điều kiện tính hưởng các chế độ,… Thứ ba, những người tham gia loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc này sẽ được hưởng nhiều chế độ hơn loại hình bảo hiểm xã hội khác Đối với người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, họ sẽ được hưởng các chế độ theo các quy định như sau: ốm đau; thai sản; hưu trí; tử tuất; các bệnh về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,... Đặc biệt là đối với chế độ thai sản cho NLĐ, hiện BHXH tự nguyện chưa có chế độ thai sản, điều này sẽ gây bất lợi vô cùng lớn cho NLĐ nữ khi trong quá trình mang thai và sinh con phát sinh rất nhiều việc như khám thai, sinh nở và quá trình nuôi con trong vòng 4 - 6 tháng đầu chưa kể có thể gặp những việc không may trong quá trình mang thai như phải phẫu thuật,... thời gian này lao động nữ không thế lao động để có thể tạo ra thu nhập. Ở trong những trường hợp cụ thể khác, với các chế độ cụ thể mà pháp luật đặt ra cho họ thì NLĐ sẽ được những điều kiện nhất định Nhà nước phải đáp ứng. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc: 8 Khi tiến hành tổ chức và thực hiện chính sách BHXH, các quốc gia đều lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia mình, đồng thời cũng nhận thức thống nhất các quan điểm cơ bản về BHXH. Đó là những nguyên lý, những quy định được đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động của BHXH, BHXH bắt buộc là một trong các loại hình bảo hiểm, lại chủ yếu hàng mục đích xã hội, BHXH vừa phải thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt động bảo hiểm, vừa phải thực hiện các nguyên tắc mang tính xã hội của mình. Cụ thể, BHXH bắt buộc được thực hiện theo các nguyên tắc sau: Thứ nhất, mức hưởng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH. BHXH bắt buộc là loại bảo hiểm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội. Tính kinh tế của BHXH bắt buộc thể hiện ở chức năng tổ chức phân phối thu nhập, đảm bảo đời sống của cá nhân cũng như của gia đình NLĐ. Để thực hiện việc phân phối đó một cách hiệu quả, BHXH bắt buộc trong quá trình triển khai phải có sự kết hợp hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ và sự tương xứng tương đối giữa mức đóng và mức hưởng. Tuy nhiên, ngoài ra BHXH bắt buộc còn mang tính xã hội, trong đó nổi trội là sự chia sẻ những rủi ro xã hội, lấy số đông bù số ít. Mức hưởng của BHXH bắt buộc cần đảm bảo sự hợp lý giữa mức đóng góp và mức hưởng thụ và căn cứ vào sự cống hiến của NLĐ như mức đóng góp, thời gian đóng góp cho các quỹ bảo hiểm xã hội... để dựa vào đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng sao cho phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của NLĐ. Sự tương xứng giữa mức đóng và mức hưởng của BHXH bắt buộc chỉ mang tính chất tương đối bởi không phải NLĐ cứ đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội bao nhiêu thì sẽ nhận được bấy nhiều chế độ bảo hiểm xã hội. Mặc dù mức hưởng phải căn cứ trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH nhưng vẫn mang tính chất chia sẻ, hỗ trợ giữa những người tham gia bảo hiểm. Điều này được thể hiện ngay từ việc đóng góp của họ vào quỹ BHXH. Để được hưởng các chế độ BHXH bắt buộc thì đối tượng thụ hưởng phải đáp ứng các điều kiện luật định. Hơn nữa, trong số đông những người tham gia đóng góp (NSDLĐ, NLĐ và Nhà 9 nước) thì chỉ có NLĐ mới là đối tượng được hưởng trợ cấp. Vì thế số trợ cấp mà họ nhận được thưởng lớn hơn rất nhiều số tiền mà họ đã đóng góp. Và việc chi trả các chế độ BHXH bắt buộc được tiến hành trên cơ sở lấy kết quả của số đông người tham gia để bù cho số ít người được hưởng. Ngoài ra, đây cũng là cách mà cộng đồng giúp đỡ những đối tượng gặp rủi ro mà nếu không có sự chia sẻ, tương trợ cộng đồng thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Thứ hai, mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của NLĐ. Đối tượng của BHXH bắt buộc là phần thu nhập của NLĐ trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Cho nên mức đóng BHXH bắt buộc phải căn cứ vào mức thu nhập được bảo hiểm thì mới đảm bảo nguyên tắc mức hưởng của BHXH bắt buộc phải tính trên cơ sở mức đóng. Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc một mức thu nhập bằng tiền nào đó do Nhà nước quy định. Mức thu nhập này là công cụ để Nhà nước giám sát, kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản lý vĩ mô đối với BHXH bắt buộc và quản lý lao động trong nền kinh tế quốc dân. Yêu cầu trong việc lựa chọn mức thu nhập được bảo hiểm được Nhà nước quán triệt là phải dựa trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực tế của đại đa số NLĐ... để đảm bảo cho mức thu nhập này luôn thăng bằng tương đối, đảm bảo đời sống cho NLĐ tham gia bảo hiểm và gia đình họ. Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền công, tiền lương của NLĐ. Nguyên tắc này là phù hợp với xu hướng chung hiện nay, đảm bảo được sự cân bằng giữa mức đóng BHXH với mức thu nhập của NLĐ. Hơn nữa, nó cũng đảm bảo sự ổn định cho quỹ BHXH trước sự biến động của giá cả thị trường. Bên cạnh đó, cùng với nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc này sẽ tạo nên sự bình đẳng tương đối giữa những người tham gia BHXH trong việc thụ hưởng quyền lợi khi mức đóng góp của mỗi người là không giống nhau, bởi vì mức hưởng thì tính trên cơ sở mức đóng BHXH và mức đóng BHXH thì lại được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của NLĐ, từ đó tạo ra sự cân xứng trong việc đóng góp và thụ hưởng. Thứ ba, NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã 10 đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì không được tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH . Theo quy định của pháp luật về hình thức thi BHXH gồm có BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Mặc dù số lượng người tham gia mỗi loại BHXH không giống nhau nhưng đều về phương diện pháp lý, việc tham gia BHXH bắt buộc hay BHXH tự nguyện đều tạo nên các quyền lợi về BHXH có giá trị như nhau. Xét trên thực tế, có rất nhiều trường hợp NLĐ có thể có những thời gian tham gia BHXH theo các loại hình khác nhau. Từ đó đặt ra yêu cầu giải quyết quyền lợi cho họ sao cho hợp lý nhất. Đây là quy định được Luật BHXH nâng lên thành nguyên tắc cơ bản, nhảm đảm bảo quyền lợi của NLĐ và tính liên thông trong quan hệ bảo hiểm xã hội, hạn chế tình trạng thực tế có rất nhiều NLĐ bị"cắt xén"quyền lợi khi rơi vào trường hợp như trên. Thứ tư, việc thực hiện BHXH bắt buộc phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đám kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH bắt buộc Người tham gia BHXH bắt buộc là NSDLĐ, NLĐ và nhà nước. Trong đó, NSDLĐ là người có nghĩa vụ phải đóng góp bảo hiểm cho NLĐ nhưng họ lại không đồng thời là người thụ hưởng. Cho nên, đối tượng chủ thể này thường ít khi mặn mà với việc thực hiện trách nhiệm của mình. Để khuyến khích NSDLĐ thực hiện nghĩa vụ trên, trình tự thủ tục đóng góp cũng như thực hiện BHXH bắt buộc phải giảm thiểu sự phiền hà, phức tạp đến mức tối đa. Những trường hợp được hưởng các chế độ BHXH bắt buộc là những trường hợp xảy ra rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập của NLĐ. Trong tình huống đó, họ và gia đình rất cần đến khoản tiền BHXH bắt buộc một cách kịp thời, nhanh chóng để giải quyết khó khăn, ổn định cuộc sống. Chính vì vậy, việc thực hiện BHXH phải đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, kịp thời, đặc biệt là thủ tục hành chính để có thể đảm bảo giải quyết một cách nhanh chóng, đầy đủ quyền lợi, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của người tham gia BHXH. Có thể thấy rằng, mỗi nguyên tắc BHXH bắt buộc có một nội dung riêng, phản ánh những quy luật khách quan khác nhau của chính sách BHXH. Tuy vậy giữa chúng luôn tồn tại mối quan hệ tác động qua lại với nhau, tạo thành một hệ thống thống 11 nhất, việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc khác. Cho nên trong hoạt động BHXH bắt buộc cần phải kết hợp thực hiện các nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý, tổ chức thực hiện các chính sách BHXH bắt buộc. 1.2. Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc Từ hai trường phái phái Bismarck hoặc theo trường phái Beveridge hoặc là trường phái hỗn hợp khác cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, ta thấy về bản chất vẫn có sự khác nhau với những cơ chế khác nhau, cho dù BHXH là một bộ phận quan trọng của ASXH. Định hình được hướng đi cho một mô hình, một hệ thống BHXH phụ thuộc nhiều vào ý chí của nhà nước và của thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Với cách tiếp cận nêu trên, quay trở lại với mục tiêu của nước ta là BHXH toàn dân, cần phải làm rất rõ khái niệm toàn dân. Trên thế giới có khái niệm là BHXH phổ cập. Phổ cập khác với toàn dân ở chỗ bảo hiểm phổ cập là bảo hiểm cho mọi NLĐ đều có thể tham gia và hưởng thụ ở mức tối thiểu theo luật định. Tuy nhiên BHXH bắt buộc không chỉ có vai trò đối với NLĐ mà còn có vai trò đối với các quan hệ lao động bao phủ lên đó. Thứ nhất, đối với người lao động BHXH bắt buộc được hình thành và phát triển chủ yếu là nhằm đảm bảo chính sách cho NLĐ và người thân của họ khi gặp phải những khó khăn, làm giảm hoặc mất một phần thu nhập. Đối với NLĐ là người được hưởng lợi chủ yếu do mục đích của bảo hiểm xã hội là đảm bảo nguồn thu nhập cho NLĐ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập mà còn thể hiện trách nhiệm của NLĐ đối với xã hội. Khi tham gia BHXH bắt buộc, việc chi dùng cá nhân của NLĐ được nâng cao hiệu quả cho họ tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ, đều đặn hàng tháng để chi dùng khi già cả, mất sức lao động,... Đây không chỉ là nguồn hỗ trợ về vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, giúp họ ổn định về mặt tâm lý, ổn định chính sách cho bản thân và gia đình khi gặp bất trắc. Không chỉ đối với riêng NLĐ mà còn hỗ trợ cuộc sống thân nhân NLĐ khi NLĐ không may qua đời. Thứ hai, đối với người sử dụng lao động 12 Cũng giống mục đích của BHXH bắt buộc đối với NLĐ đó là BHXH bắt buộc thay NSDLĐ chi trả thu nhập hoặc một phần thu nhập cho NLĐ khi gặp khó khăn làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập dẫn đến việc ảnh hưởng chất lượng lao động. Ngoài ra còn tăng cường hiệu quả mối quan hệ bền chắc giữa các thành viên trong quan hệ lao động và tạo điều kiện để NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ trong suốt cuộc đời NLĐ cho những đóng góp của họ với doanh nghiệp. Thứ ba, đối với Nhà nước Bảo hiểm xã hội bắt buộc luôn chứa đựng vai trò đan xen cả về kinh tế và xã hội. Vai trò của pháp luật là xác lập được hình thức pháp luật nhất định và đảm bảo thực hiện bởi các cơ chế pháp luật thích hợp nhằm kết hợp hài hòa nội dung kinh tế và xã hội trong Bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên trong quan hệ bảo hiểm xã hội. BHXH vốn là một trong bốn trụ cột của hệ thống An sinh xã hội của Nhà nước hiện nay và nhìn vào hệ thống BHXH bắt buộc của quốc gia có thể biết được trình độ phát triển của quốc gia đó. Qua các nội dung trên ta thấy vai trò của BHXH bắt buộc là rất lớn và là một khâu không thể thiếu trong việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” góp phần vào ổn định và phát triển kinh tế đất nước. 1.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy định khác nhau về BHXH bắt buộc. Song nhìn chung về nội dung pháp luật BHXH bắt buộc của hầu hết các quốc gia thường quy định về các nội dung như đối tượng tham gia, quỹ BHXH bắt buộc và các chế độ BHXH bắt buộc, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết các vấn đề về BHXH bắt buộc. 1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Theo đánh giá của ILO, thì bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng nhất của bảo đảm xã hội. Bởi vì, BHXH có đối tượng áp dụng chiếm tỷ lệ cao và sự "che chắn" của BHXH là ổn định, vững chắc. Ở các nước theo báo cáo của tổ chức lao động quốc tế, lực lượng lao động thường chiếm từ 55% đến 70% dân số. Điều đó cho thấy đối tượng trực tiếp của BHXH bắt buộc là NLĐ nói chung. Nhưng trên thực tế, do điều 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan