LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động của các doanh
nghiệp trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân phải có những bước chuyển đổi
mạnh mẽ.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang bước vào xu thế toàn cầu hoá và cạnh tranh
gay gắt. Nhiều doanh nghiệp nước ta còn nhiều bỡ ngỡ với. Để có thể đứng vững và
phát triển lâu dài là nhiệm vụ được quan tâm hàng đầu của đất nước ta nói chung và
tất cả các doanh nghiệp nói riêng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát
triển trong cơ chế thị trường khắc nghiệt hiện nay thì phải xây dựng có hiệu quả. Do
vậy đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh phải có chiến lược
kinh doanh phát triển điều kiện của mình. Đó là sử dụng hiệu quả nguồn lực của
mình để nâng cao năng suất, chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất kinh doanh,
hạ giá thành, nâng cao uy tín…nhằm tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Các doanh
nghiệp phải kinh doanh có lợi nhuận và đạt lợi nhuận ngày càng cao càng tốt. Để
làm được điều đó các nhà quản lý phải có các công cụ để quản lý tốt doanh nghiệp
của mình mà trong đó phương pháp thống kê và tư duy thống kê là công cụ và tố
chất không thể thiếu, đối với các nhà quản lý và các nhà điều hành doanh nghiệp.
Chúng hỗ trợ cải tiến sản xuất kinh doanh. Trong những phương pháp thống kê đó
thì thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh là một công cụ quan trọng để các nhà
quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc nghiên cứu tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp không những cho biết việc sản xuất kinh doanh đạt được ở
trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các nhân tố để từ đó
đưa ra biện pháp thích hợp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế
đã phát triển, các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh
ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Điểu đó, đòi hỏi việc thu thập và xử lý thông
tin ngày càng nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Có như vậy mới đáp ứng được
việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đồng
thời, việc đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng
cần phải được tăng cường và đổi mới một cách phù hợp. Có như vậy mới phản ánh
được những hoạt động sản xuất kinh doanh vốn rất phức tạp, đa dạng và năng động
ở các doanh nghiệp một cách đầy đủ, chính xác và toàn diện.Thông tin thống kê có
vai trò hết sức quan trọng đối với việc quản lý doanh nghiệp và đánh giá tổng hợp
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc quyết định sự ra
đời, phát triển hay phá sản của một doanh nghiệp cần phải có những thông tin thống
kê đầy đủ, chính xác và khoa học.
Là một doanh nghiệp tư nhân, cũng như tất cả các doanh nghiệp khác, từ khi
thành lập công ty đã phải trải qua nhiều bước thăng trầm. Để tìm hiểu kỹ hơn về tình
hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua em xin trình bày đề tài:
“ Phân tích Thống kê tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
thương mại và dịch vụ vận tải Phú Sơn”.
Kết cấu của bài gồm có:
- Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH
- Chương 2 : HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VẬN TẢI.
- Chương 3 :
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2000-2006.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT
KINH
DOANH
1.1. Những vấn đề chung về hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.1. Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.1.1. Hoạt động sản xuất
Hoạt động sản xuất là dùng các yếu tố đầu vào kết hợp với nguồn lực sản xuất và
các yếu tố tác dụng bên ngoài khác để tạo ra sản phẩm.
Đặc điểm của hoạt động sản xuất:
- Là hoạt động có mục đích cụ thể. Có thể thực hiện được và có thể làm thay
thế được.
- Hoạt động sản xuất ở đây gồm hoạt động sản xuất ra những sản phẩm vật
chất và những sản phẩm dịch vụ. Để thoả mãn nhu cầu chung của toàn xã hội nói
chung và từng cá nhân nói riêng.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có rất nhiều những sản phẩm đang được tiêu dùng
trên thị trường nhưng lại không được tính vào sản phẩm của hoạt động sản xuất. Sở
dĩ là vì những loại sản phẩm trên thuộc sản phẩm bất hợp pháp, các hoạt động dịch
vụ tự sản tự tiêu.
* Hiểu rõ được hoạt động sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng, như:
-
Giúp ta phân định được hoạt động nào là hoạt động sản xuất và hoạt độngnào
là hoạt động nào là hoạt động phi sản xuất;
-
Xác định được chi phi nào thì được tính vào chi phí sản xuất và chi phí nào
được tính vào chi phí tiêu dùng trung gian, chi phí nào tính vào chi phí tiêu dùng
cuối cùng; - Xác định được kết quả sản xuất sẽ gồm những loại kết quả nào.
1.1.1.2. Hoạt động kinh doanh
Hoạt động kinh doanh là những việc mà lao động đang tham gia để hoàn thành
nhằm thoả mãn nhu cầu của các đối tượng tiêu dung không tự làm được hoặc không
đủ điều kiện tự làm được. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với hoạt động tự
túc, tự phục vụ và hoạt động phi kinh doanh ở chỗ động cơ của hoạt động kinh
doanh hay dịch vụ trong kinh doanh phải để tiêu dung mục đích. Động cơ của sản
xuất tự túc hoặc tự phục vụ phi kinh doanh là nhằm thoả mãn nhu cầu của chính
người sản xuất hoặc cộng đồng.
Tự sản xuất tự phục vụ phi kinh doanh tuy có bỏ vốn và lao động vào hoạt động,
nhưng không hạch toán chi phí sản xuất hoặc chi phí dịch vụ không tính lỗ lãi.
Trong hoạt động kinh doanh đều có phải tính chi phí cho hoạt động, giá trị kết quả
thu lại của hoạt động sau khi hoàn thành cũng phải hạch toán lỗ lãi.
Sản phẩm của hoạt động kinh doanh dù là sản phẩm vật chất hay sản phẩm tinh
thần, có thể cân đong đo đếm được hay không thì đều là hang hoá trao đổi trên thị
trường. Người sản xuất luôn có trách nhiệm với hàng hoá làm ra. Còn sản phẩm tự
túc phi kinh doanh thì chỉ thoả mãn chính cho người làm ra các sản phẩm đó để tự
tiêu dùng thưởng thức.
Vậy hoạt động sản xuất kinh doanh là những hoạt động sử dụng kết hợp các yếu
tố đầu vào tạo ra sản phẩm và cung cấp cho các đối tượng sản xuất và tiêu dùng
trong và ngoài nước nhằm mang lại thu nhập cho tập thể lao động và doanh nghiệp,
là hoạt động có mục đích nhằm tạo ra sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ để
thoả mãn mọi nhu cầu của cá nhân và toàn thể xã hội. Kết quả thu được ở đây là
những hàng hoá cá nhân và hàng hoá công cộng.
1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.2.1. Ý nghĩa của HĐSXKD
Sự ra đời và phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh đã kéo theo sự phát
triển nhanh chóng của thế giới loài người. Hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra các
sản phẩm hữu ích do lao động công nghiệp được biểu hiện dưới hai hình thái là sản
phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ. Những sản phẩm đó sau khi làm xong được
chuyển sang khâu tiêu thụ, trở thành hàng hoá.
Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn thúc đẩy sản xuất, mở rộng tiêu dùng tạo
điều kiện cho tích luỹ vốn phát triển sản xuất, phát triển kinh tế khoa học xã hội. Mở
rộng giao lưu, trao đổi hàng hoá tạo ra phân công lao động xã hội. Tạo ra các cơ cấu
cân bằng kinh tế xã hội. Hoạt động tự túc phi kinh doanh luôn tự thoả mãn các nhu
cầu bản than người sản xuất, sản xuất kém phát triển, không có thị trường trao đổi,
không cần các thông tin kinh tế, khoa học kỹ thuật, tôn sung kinh nghiệm.
Hoạt động sản xuất kinh doanh không thể thiếu được trong cuộc sống. Vì nếu
thiếu nó thì cuộc sống con người không thể tiếp tục tồn tại và phát triển được. Với
nguồn lực có hạn, thế giới tự nhiên không thể nào đủ nuôi sống cả nhân loại cùng sự
tăng lên nhanh chóng và không ngừng cả về số lượng và cả về nhu cầu. Ngày nay
hoạt động sản xuất kinh doanh đã gắn bó chặt chẽ với cuộc sống con người, có thể
nói là mọi hoạt động sinh hoạt của con người hiện nay đều cần có những sản phẩm
được tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh
đã trở thành nhu cầu tất yếu và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cuộc sống con
người.
Hoạt động sản xuất kinh doanh rất quan trọng và có tác dụng rất to lớn đối với
nền kinh tế quốc dân của quốc gia, đặc biệt thúc đẩy quá trình phát triển và hội nhập
giữa các vùng, miền, khu vực, quốc gia. Hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội : sinh hoạt, sản xuất, giải trí … nó phản ánh trình
độ phát triển của một đất nước. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật kèm theo đó
là nhu cầu của con người ngày một tăng va sự công lao động đã vượt ra ngoài biên
giới quốc gia thì hoạt động sản xuất kinh doanh là sự cần thiết và đòi hỏi khách quan
không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
1.1.2.2. Vai trò của HĐSXKD
Hoạt động sản xuất kinh doanh có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống cũng
như trong xã hội. Hoạt động sản xuất kinh doanh có những vai trò chính sau đây:
-
Thứ nhất, hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm tiêu dùng cho xã
hội, thoả mãn nhu cầu của xã hội.
-
Thứ hai, giúp nâng cao mức sống dân cư thông qua việc thoả mãn ngày càng
tốt hơn nhu cầu của dân cư.
-
Thứ ba, thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản
xuất, thúc đẩy nhu cầu, đảm bảo người tiêu dùng được sử dụng những hàng hoá tốt,
văn minh, hiện đại.
-
Thứ tư, thực hiện dự trữ các yếu tố sản xuất (vật tư, kỹ thuật) và hàng hoá tiêu
dùng, đảm bảo cho doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng giảm được dự trữ lớn
ở nơi sản xuất và dự trữ cá nhân. Dự trữ hàng hoá trong khâu lưu thông tăng, đảm
bảo linh hoạt và lưu chuyển nhanh, tránh ứ đọng nhiều ở khâu dự trữ.
-
Thứ năm, hoạt động kinh doanh đảm bảo điều hoà cung-cầu, làm đắt lên ở
những nơi có nguồn hàng rẻ, nhiều, phong phú và làm rẻ đi hàng hoá ở nơi đắt, ít,
nghèo nàn. Trong nền kinh tế, hoạt động kinh doanh thúc đẩy việc sử dụng nguồn
lực và phân bổ nguồn lực một cách hợp lý.
-
Thứ sáu, nhờ áp dụng ngày càng nhiều các dịch vụ trong hoạt động kinh
doanh hàng hoá, sẽ đảm bảo vật tư, kỹ thuật ngày càng kịp thời, thuận tiện và văn
minh cho các các doanh nghiệp sản xuất, tiêu dùng, đảm bảo ngày càng nhiều hàng
hoá tốt, hiện đại văn minh với dịch vụ thuận lợi cho tiêu dùng, giải phóng con người
ra khỏi những công việc không tên trong gia đình, doanh nghiệp, cơ quan vừa nặng
nề, phiền phức và mất nhiều thời gian
1.1.3. Các hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.3.1. Căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh
Căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh hoạt động sản xuất kinh doanh được chia
thành:
-
Hoạt động kinh doanh sản xuất vật chất: như các hoạt động trong ngành công
nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp …
-
Hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phục vụ các nhu cầu dân sinh như:
hoạt động thương nghiệp, hoạt động kinh doanh vận tải hành khách, hoạt động y tế,
du lịch … Dịch vụ phục vụ nhu cầu dân trí như: hoạt động giáo dục, văn hoá, nghệ
thuật …
Cách phân loại này giúp chia kinh doanh thành các ngành, các thông tin thu được
từ các ngành cho phép nghiên cứu cơ cấu tổng sản phẩm quốc gia, tổng thu nhập
quốc dân, nghiên cứu xu thế phát triển chung và của từng ngành.
1.1.3.2. Căn cứ vào đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh
doanh
Căn cứ vào đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh ta có :
-
Hoạt động sản xuất kinh doanh chuyên nghiệp: là hoạt động kinh doanh về
một ngành hàng, nhóm hàng cụ thể dựa trên cơ sở chuyên môn hoá của phân công
xã lao động xã hội. - Hoạt động sản xuất kinh doanh tổng hợp là những hoạt động tổ
chức kinh doanh đa dạng sản phẩm, đồng thời khép kín tất cả các khâu hoạt động
trong kinh doanh đến tiêu thụ sản phẩm.
-
Hoạt động sản xuất kinh doanh không chuyên là những hoạt động được tổ
chức kết hợp để sản xuất kinh doanh những mặt hàng hay dịch vụ khi có điều kiện
hoạt động.
Mỗi hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh đều có những mặt lợi và mặt hạn
chế.
1.1.3.3. Theo hình thức sở hữu vốn kinh doanh
Theo hình thức sở hữu vốn kinh doanh hoạt động sản xuất kinh doanh được chia
thành:
-
Hoạt động sản xuất do nhà nước hay chính quyền địa phương cấp vốn. Ở
nước ta, hoạt động này được tổ chức ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Và được coi là lực lượng chủ đạo của nền kinh tế. Hiện nay thì các loại hình
hoạt động sản xuất kinh doanh đang trong được dần được chuyển hoá do nhà nước
ta đang tiến hành cổ phần hoá dần các công ty nhà nước.
-
Hoạt động sản xuất kinh doanh hỗn hợp do nhà nước và tư nhân cùng góp
vốn, dựa trên cơ sở hai bên cũng có lợi, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Loại
hoạt động sản xuất kinh doanh này khác hoạt động sản xuất kinh doanh theo kiểu
công tư hợp danh trước đây.
-
Hoạt động sản xuất kinh doanh kiểu tư nhân, do cá nhân tự bỏ vốn kinh
doanh. Hoạt động này xuất hiện do nhu cầu đa dạng và cụ thể của tiêu dùng xã hội,
đồng thời có thể huy động mọi nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra ta còn phân hoạt động sản xuất theo nhiều cách khác nữa chẳng hạn:
phân theo quy mô của hoạt động sản xuất kinh doanh (căn cứ vào quy mô vốn kinh
doanh), theo trình độ trang bị kỹ thuật (căn cứ vào vốn kỹ thuật công nghệ) …
1.2. Một số đặc điểm chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại và
dịch vụ vận tải
1.2.1. Hoạt động kinh doanh thương mại
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh thương mại
Kinh doanh thương mại là dùng tiền của công sức vào việc mua bán hàng hoá
nhằm mục đích kiếm lợi. Muốn kinh doanh thương mại trước hết phải có vốn kinh
doanh, thứ hai phải thực hiện hành vi buôn bán (thực hiện vai trò mua hàng nhưng
không phải để dùng mà là để ván cho người khác), thứ ba là dùng vốn vào hoạt động
kinh doanh đòi hỏi sau mỗi chu kỳ phải bảo toàn vốn và có lãi, có như vậy mới có
thể mở rộng và phát triển kinh doanh. Ngược lại sẽ bị thua lỗ và dẫn tới phá sản.
1.2.1.2. Mục đích của hoạt động kinh doanh thương mại
-
Về Lợi nhuận: lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên,
cũng là nguồn động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng
và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn vậy cần phải chiếm được khách
hàng, bán được nhiều hàng hoá và dịch vụ, bán nhanh và giảm các khoản chi phí có
thể và không cần thiết., phải kinh doanh loại hàng phù hợp với nhu cầu, được khách
hàng chấp nhận. Mức độ đạt được và kỳ vọng về lợi nhuận phụ thuộc vào loại hàng
hoá và chất lượng của chúng, khối lượng và giá cả của hàng hoá bán được, chi phí
kinh doanh và tốc độ tăng giảm chi phí kinh doanh.
-
Về Thế lực: thế lực là một mục tiêu trong kinh doanh thương mại. Ngày càng
có nhiều người cung ứng hàng hoá cạnh tranh trên thị trường, đòi hỏi người kinh
doanh thương mại phải thu hút ngày càng nhiều khách hàng tương lai, không ngừng
tăng doanh số bán hàng và dịch vụ, không ngừng mở rộng, phát triển mở rộng thị
trường, phát triển thị phần của mình trên thị trường. Từ chỗ chen chân đến chiếm
lĩnh và dần dần làm chủ thị trường. Thế lực phụ thuộc vào nguồn lực, tài năng của
doanh nghiệp và phụ thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước trong từng giai đoạn.
-
Về mục tiêu an toàn. Trong thị trường cạnh tranh đầy biến động, có nhiều
loại rủi ro. Trong hoạt động kinh doanh vấn đề bảo toàn vốn và phát triển vốn để
kinh doanh liên tục đòi hỏi phải đặt ra mục tiêu an toàn. Cần đa dạng hoá hoạt động
kinh doanh: “trứng không bỏ hết trong một giỏ”. Phải có chi phí bảo hiểm, nhưng
việc cân nhắc lợi hại, tầm nhìn xa trông rộng và bản lĩnh người ra quyết định luôn
phải quán triệt mục tiêu an toàn để tránh rủi ro, thiệt hại cho kinh doanh.
1.2.1.3. Vai trò và tác dụng của hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại
-
Kinh doanh thương mại là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong kinh
doanh hàng hoá, có vị trí trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, là tiền đề để sản
xuất, là hậu cần của sản xuất, là khâu không thể thiếu được trong quá trình tái sản
xuất xã hội, là một dạng của hoạt động đầu tư, để thực hiện dịch vụ lưu thông hàng
hoá trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi.
-
Kinh doanh thương mại có tác dụng nhiều mặt đối với lĩnh vực sản xuất vật
chất và lĩnh vực tiêu dùng xã hội, cung ứng vật tư, hàng hoá cần thiết một cách đầy
đủ, kịp thời, đồng bộ về chất lượng một cách thuận lợi với quy mô ngày càng mở
rộng.
1.2.2. Hoạt động kinh doanh dịch vụ
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh dịch vụ
Kinh doanh dịch vụ là hoạt động cung ứng lao vụ, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh
hoạt và đời sống cho dân cư cũng như những nhu cầu của sản xuất, kinh doanh toàn
xã hội.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ rất đa dạng, bao gồm các hoạt động kinh doanh
bưu điện, vận tải, du lịch, may đo, sửa chữa, dịch vụ khoa học kỹ thuật, dịch vụ tư
vấn, dịch vụ công cộng, vui chơi, giải trí, chụp ảnh, cho thuê, cắt tóc, giặt là …
1.2.2.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ
-
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thì hoạt động kinh doanh là
chính, còn đối với các tổ chức kinh tế khác có hoạt động chính là sản xuất, kinh
doanh mua bán hàng hoá… thì hoạt động dịch vụ chỉ mang tính phụ trợ, bổ sung
cho hoạt động kinh doanh chính. Sản phẩm của hoạt động kinh doanh dịch vụ tuyệt
đại bộ phận là không mang hình thái vật chất, quá trình sản xuất, tiêu thụ và phục vụ
thường gắn liền nhau, không thể tách rời. Do đó, khó có thể phân biệt một cách rõ
ràng chi phí từng khâu sản xuất và tiêu thụ. Tuỳ theo từng hoạt động dịch vụ đặc thù
để có thể xác định nội dung chi phí phù hợp cấu thành nên giá thành sản phẩm. Có
những loại hình dịch vụ, để hoàn thành được một sản phẩm phải bỏ ra nhiều loại chi
phí khác nhau để quảng cáo như quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng, in
ấn giấy mời, apphíc … nhưng đôi khi vẫn không hoàn thành được số sản phẩm như
mong muốn, còn kết quả nếu có thì liên quan đến rất nhiều ngành được hưởng.
-
Có những hoạt động mang tính chất kỹ thuật, hàng lượng chi phí về chất xám
trong sản phẩm chiếm tỷ trọng cao, còn các chi phí về nguyên vật liệu và chi phí
khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Sản phẩm dịch vụ hoàn thành không nhập kho
thành phẩm, hàng hoá mà được tính là tiêu thụ ngay, do đó đối với những lao vụ,
dịch vụ đã hoàn thành nhưng chưa ghi doanh thu thì chi phí cho những lao vụ, dịch
vụ đó vẫn coi là chi phí của sản phẩm chưa hoàn thành. Tuy nhiên, các hoạt động
dịch vụ thường không tính được chi phí sản phẩm dở dang. Bởi vậy, giá thành sản
phẩm dịch vụ là thể hiện bằng tiền hao phí lao động sống cần thiết và lao động vật
hoá tạo ra sản phẩm dịch vụ đã tiêu thụ (tức sản phẩm đã hoàn thành cho khách
hàng và thu được tiền hoặc được quyền thu tiền).
-
Trong quá trình kinh doanh dịch vụ, các doanh nghiệp sử dụng người lao
động, tư liệu lao động và kỹ thuật cùng với một số vật liệu, nhiên liệu thích hợp ứng
với từng loại hoạt động dịch vụ để tạo ra sản phẩm dịch vụ phục vụ khách hàng. Do
đó, chi phí dịch vụ được phân chia thành chi phí trực tiếp và chi phí chung. Tuỳ theo
từng loại hình hoạt động dịch vụ, nội dung chi phí trực tiếp và chi phí chung sẽ khác
nhau. Đại bộ phận những vật liệu sử dụng trong kinh doanh dịch vụ là vật liệu phụ,
phụ tùng thay thế, nhiên liệu …
-
Với những doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại hoạt động dịch vụ phải xác
định rõ đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Những chi
phí liên quan trực tiếp đến hoạt động nào thì hạch toán trực tiếp cho hoạt động đó,
những chi phí liên quan đến nhiều hoạt động phải tập hợp riêng để cuối kỳ phân bổ
cho từng hoạt động theo tiêu chuẩn.
1.2.2.3. Các loại hình hoạt động kinh doanh dịch vụ
-
Căn cứ vào tính chất của các hoạt động dịch vụ, người ta chia thành 2 loại
hình dịch vụ:
-
Dịch vụ có tính chất sản xuất như dịch vụ vận tải, may đo, sửa chữa …
-
Dịch vụ không có tính chất sản xuất như dịch vụ hướng dẫn du lịch, dịch vụ
giặt là, dịch vụ chụp ảnh, dịch vụ bưu điện…
1.2.3. Hoạt động kinh doanh vận tải
1.2.3.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh vận tải
Vận tải là một ngành sản xuất ra sản phẩm dịch vụ, bao gồm các hoạt động vận
tải hành khách và hàng hoá bằng các loại phương tiện khác nhau như: đường sắt,
đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không … và bao gồm cả các hoạt động phụ như
bốc dỡ hàng hoá, hoạt động kho bãi, cho thuê phương tiện vận tải kèm người điều
khiển.
Kinh doanh vận tải là ngành sản xuất vật chất đặc biệt, sản phẩm vận tải là quá
trình di chuyển hàng hoá, hành khách từ nơi này đến nơi khác và được đo bằng các
chỉ tiêu: tấn.km. hàng hoá vận chuyển và người.km. hành khách. Chỉ tiêu chung của
ngành vận tải là tấn.km tính đổi.
1.2.3.2. Đặc điểm kinh doanh vận tải
Kinh doanh vận tải là một loại hình kinh doanh đặc biệt, khác với các hoạt động
kinh doanh khác, và có những đặc điểm riêng. Hoạt động kinh doanh vận tải có
những đặc điểm cơ bản sau:
-
Thứ nhất, doanh nghiệp vận tải phải quản lý quá trình hoạt động theo nhiều
khâu khác nhau như giao dịch, hợp đồng vận chuyển hàng hoá hoặc vận chuyển
hành khách, thanh toán các hợp đồng, lập kế hoạch điều vận và kiểm tra tình hình
thực hiện kế hoạch vận chuyển.
-
Thứ hai, kế hoạch tác nghiệp cần phải cụ thể hoá cho từng ngày, tuần, định kỳ
ngắn…, lái xe và phương tiện làm việc chủ yếu ở bên ngoài doanh nghiệp. Do đó,
quá trình quản lý phải rất cụ thể, phải xây dựng được chế độ vật chất rõ ràng, vận
dụng cơ chế khoán hợp lý.
-
Thứ ba, phương tiện vận tải là tài sản cố định chủ yếu và quan trọng không
thể thiếu được trong quá trình thực hiện dịch vụ vận tải. Các phương tiện này bao
gồm nhiều loại có tính năng, tác dụng, hiệu suất và mức tiêu hao nhiên liệu, năng
lượng khác nhau. Điều này có ảnh hưởng lớn đến chi phí và doanh thu dịch vụ.
Việc khai thác vận chuyển phụ thuộc khá lớn vào cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu,
phà và điều kiện địa lý, khí hậu …
1.2.4. Các chức năng cơ bản của hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ vận
tải
Hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ vận tải có những chức năng cơ bản
sau: - Thứ nhất là hoạt động này thực hiện lưu thông sản phẩm xã hội, cụ thể là lưu
thông hàng hoá từ nguồn hàng tới nơi tiêu thụ. Hoạt động này do vận tải hàng hoá
đảm nhiệm. - Thứ hai là tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Đây là quá
trình chuyển dịch sản phẩm (đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng).
-
Thứ ba là thực hiện dự trữ hàng hoá. Trong quá trình vận chuyển hàng hoá
cần có những điểm chờ, bởi vì quá trình vận chuyển hàng hoá không thể được vận
chuyển liên tục mà cần có một nơi để lưu trữ chờ kế hoạch vận chuyển sắp tới, lúc
này vận tải thực hiện chức năng dự trữ hàng hoá trong khâu lưu thông.
-
Thứ tư là nâng cao hiệu quả của kinh doanh bằng cách thoả mãn kịp thời và
thuận lợi các nhu cầu hàng hoá cho sản xuất tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất và
tiêu dùng luôn cần có những luồng hàng từ nơi khác đến, và vận tải là ngành không
thể thiếu được trong việc đáp ứng nhu cầu này của nhà sản xuất cũng như dân cư.
-
Thứ năm, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng xã hội phát triển, thúc đẩy tiến bộ
khoa học kỹ thuật công nghệ trong sản xuất với giá cả thích hợp. Vận tải giúp cho
sự lưu thông hàng hoá được dễ dàng và thuận lợi, tạo ra sự giao lưu và trao đổi lẫn
nhau giữa các vùng, qua đó vận tải thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật.
-
Thứ sáu, phát triển hoạt động dịch vụ khách hàng kịp thời, thuận lợi, văn
minh. Cùng với việc hỗ trợ quá trình giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các vùng thì
vận tải cũng phát triển được hoạt động dịch vụ khách hàng theo kịp sự phát triển của
xã hội.
-
Thứ bảy, hoạt động này làm giảm chi phí kinh doanh, bảo toàn phát triển vốn
kinh doanh. Vận tải giúp lưu thông hàng hoá, đưa hàng hoá từ nơi có nhiều, giá rẻ
đến nơi có ít, giá đắt hơn. Qua đó vận tải giúp giảm chi phí kinh doanh bảo toàn vốn
kinh doanh.
1.3. Tổng quan về công công ty
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển
1.3.1.1. Quá trình thành lập
Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ Vận tải Phú Sơn tiền thân là công ty
TNHH Vận tải Phú Sơn được thành lập từ năm 1998.
Công Ty được Sở Kế hoạch và đầu tư TP Hà Nội cấp phép thành lập từ tháng 6
năm 1998 theo quyết định số 0102007279 QĐ/SKHĐT-Hà Nội, có tên giao dịch là
“PHU SON TRANSPORT AND TRADING COMPANY LIMITTED”, tên viết tắt
là : “PHU SON
.,LTD”, với nhiệm vụ chính là vận chuyển hàng hoá, máy móc, thiết bị sản xuất,
nguyên vật liệu, đại lý mua bán nguyên vật liệu. Văn phòng giao dịch tại 192
Nguyễn Khang - Cầu Giấy – Hà Nội, bãi xe và kho tại xã Hoàng Liệt – Thanh Trì –
Hoàng Mai – Hà Nội. Chi nhánh tại thành phố thành phố Hồ Chí Minh : 51/13/Tân
Kỳ, Tân Quý, Phường 16 quận Tân Bình thành phố thành phố Hồ Chí Minh,ngoài ra
còn các chi nhánh khác : Trạm đại diện tại thành phố Đà Nẵng, trạm đại diện tại
thành phố Vinh, trạm đại diện tại cửa khẩu Tân Thanh- Lạng Sơn..
1.3.1.2. Quá trình phát triển
Từ những năm đầu thành lập, công ty đã phát triển rất nhanh, doanh thu tăng
nhanh qua các năm và ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường.
Nhờ chính sách mở cửa của nhà nước qua những năm qua đã tạo cơ hội cho việc
phát triển kinh tế trong lĩnh vực vận tải hành khách ngày càng được mở rộng. Nhờ
Vận tải phát triển với tốc độ khá nhanh, trong giai đoạn 2000-2002, lĩnh vực này
phát triển với tốc độ cao, đạt 30-40%/năm. Trong năm 2004 do biến động của thị
trường quốc tế và trong nước, do yêu cầu phát triển của doanh nghiệp công công ty
đã quyết định tăng hợp nhất với công ty vận tải An Dương để thành lập lên công ty
TNHH 2 thành viên trở nên vẫn lấy tên là Phú Sơn, đổi loại hình công ty thành công
ty TNHH có từ hai thành viên trở nên. Nhờ có chính sách quản lý đúng đắn mà sau
đó công ty đã dần phát triển nhanh chóng.
Để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm đáp ứng được các
nhu cầu khác nhau của thị trường và nâng cao vị thế cạnh tranh cảu công công ty,
công ty đã thực hiện ký kết hàng loạt các hợp đồng hợp tác thương mại với các
doanh nghiệp khác như là các hợp đồng liên doanh với các công ty Phương Anh,
công ty Phương Á, công ty vận tải Bắc Việt…., cùng nhau khai thác chia xẻ doanh
thu, chi phí, lợi nhuận… Với các chính sách đúng đắn công ty đã tiếp tục duy trì và
củng cố các quan hệ hợp tác liên doanh, liên kết đã có sự thay đổi lịch trình vận tải
cho phù hợp với kế hoạch khai thác và mục tiêu phát triển, khả năng của doanh
nghiệp và quyền lợi của mỗi bên.
Khởi đầu là một doanh nghiệp cỡ nhỏ với nguồn nhân lực chỉ có 30 người, Công
ty đã từng bước phát triển và không ngừng lớn mạnh. Là một doanh nghiệp còn non
trẻ, nhưng trong quá trình tồn tại và phát triển công ty đã tự mình đứng vững và phát
triển khá ổn định với ngành nghề kinh doanh chính là vận tải, đại lý vận tải và kho
bãi, một ngành kinh doanh đòi hỏi có sự đầu tư khá lớn và chịu rủi ro cao. Những
năm gần đây do tình hình kinh tế thị trường và nhu cầu phát triển của ngành vận tải
và xu hướng thương mại trong và ngoài nước. Chính vì vậy quy mô hoạt động của
công ty ngày càng được mở rộng, nguồn vốn được đưa vào đầu tư cũng mở rộng
hơn, lợi nhuận đã có chiều hướng tăng.
Trải qua gần một thập niên tồn tại và phát triển, công ty đã trưởng thành về mọi
mặt. Từ vị thế còn hạn chế, đến nay công ty đã có thị trường rộng lớn trải dài khắp
các vùng miền trong nước, mạng lưới vận tải không ngừng được mở rộng. Công ty
được đánh giá là một trong những công ty có nguồn nhân lực trẻ, tài năng và giàu
nhiệt huyết, có hệ thống trang thiết bị máy móc hiện đại.
1.3.2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty
Công ty có các chức năng và nhiệm vụ chính sau đây :
1.3.2.1. Chức năng
-
Kinh doanh vận tải hàng hoá bằng ô tô. Đây là chức năng nhiệm vụ chính của
công ty ngay từ ngày đầu thành lập.
-
Đại lý vận tải hàng hoá bằng các phương tiện đường sắt, đường bộ, đường
thuỷ. Đây là lĩnh vực hoạt động kinh doanh mà Công Ty đã có nhiều năm kinh
nghiệm và là hoạt động mang lại uy tín cao của Công Ty trên thương trường trong
nhiều năm qua. Công ty tổ chức công tác này dưới nhiều hình thức phong phú.
1.3.2.2. Nhiệm vụ
+ Vận chuyển từ kho tới kho, giao nhận hàng ;
+ Vận chuyển, trung chuyển từ kho tới các địa điểm trung chuyển (ga, cảng) hoặc
từ các địa điểm trung chuyển tới kho giao hàng ;
+ Đại lý sửa chữa, trùng tu xe ;
+ Đại lý vận tải giao nhận toàn phần từ kho tới kho với sự kết hợp nhiều hình
thức vận chuyển khác nhau ;
+ Đại lý vận tải và giao nhận từng phần ;
+ Đại lý giao nhận tới các đầu trung chuyển ;
+ Đại lý vận tải bằng ô tô ;
+ Kinh doanh thương nghiệp và một số mặt hàng khác.
1.3.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty
1.3.3.1. Đặc điểm về vị trí
Từ khi thành lập Công Ty ngày càng phát huy vai trò của mình, thể hiện ưu thế
trong hoạt động vận tải và giao nhận cho các đơn vị trong nước và ngoài nước. Công
Ty đã mở thêm nhiều hình thức đại lý mới, với vai trò đại lý mới này Công Ty đã
đem lại nhiều công ăn việc làm cho người lao động và tăng lợi nhuận cho Công Ty.
Với gần một thập niên xây dựng và trưởng thành, công ty đã đạt được những
thành tựu đáng kể sau:
-
Là doanh nghiệp còn non trẻ, nhưng đã nhanh chóng lớn mạnh, tạo ra một thị
trường tiêu thụ đa dạng, rộng lớn trải dài khắp đất nước.
-
Doanh số hoạt động kinh doanh công ty luôn không ngừng tăng và có xu
hướng ngày càng phát triển.
-
Công ty có vị trí đáng kể trên thị trường và có lượng khách hàng thường
xuyên khá lớn.
1.3.3.2. Đặc điểm về mặt hàng kinh doanh
Công ty tổ chức sản xuất kinh doanh theo chiến lược đa dạng hoá lĩnh vực kinh
doanh với mục đích tạo đủ công việc làm cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong
công ty, trong đó kinh doanh vận tải ô tô và đại lý vận tải là hai mặt hoạt động chính
của công ty
* Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh
Công Ty hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực:
-
Vận tải hàng hoá bằng ô tô.
-
Đại lý vận tải hàng hoá bằng các phương tiện đường bộ, đường
sắt, đường thuỷ, container.
-
Kinh doanh thương nghiệp bán buôn, bán lẻ vật tư, sản phẩm
nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm.
Với đặc thù kinh doanh Công Ty có địa bàn hoạt động rộng trên phạm vi cả
nước.
1.3.3.3. Đặc điểm về loại hình kinh doanh
* Về sản xuất kinh doanh vận tải ô tô:
-
Với đặc thù của vận tải ô tô là phân tán, rộng khắp nên việc quản lý
phương tiện hoạt động theo phương thức tập trung tỏ ra kém hiệu quả, bộ
phận quản lý không theo dõi được hoạt động của nhiều phương tiện, tình
trạng nợ khoán phát sinh.
-
Ý thức bảo quản, khai thác phương tiện của nhiều lái xe kém, dẫn đến
tình trạng phương tiện bị khai thác triệt để, nhưng không được đầu tư đúng
mức, nhiều xe bị xuống cấp nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn đến tài sản của
công ty.
Nhận thức được các vấn đề nêu trên, từ năm 2000 Công Ty đã tổ chức lại hoạt
động vận tải ô tô dưới nhiều hình thức khác nhau:
-
Khoán doanh thu đối với những lái xe thực hiện tốt phương án giao
khoán phương tiện.
-
Khoán tận thu đối với các phương tiện xuống cấp, cũ.
Chuyển nhượng phương tiện cho lái xe cùng khai thác theo hình thức
góp vốn.
-
Sửa chữa, đầu tư mới phương tiện để tổ chức đội xe điều động, quản lý
tập trung, khai thác vận chuyển tuyến đường ngắn, đường trung theo các hợp
đồng của công ty và hỗ trợ cho sản xuất đại lý vận tải. Hiện nay công ty có
đội xe điều động ở hai đầu Bắc, Nam với tổng số 120 đầu xe các loại.
Tuy nhiên hiện nay trong hoạt động vận tải ô tô vận còn bộc lộ một số khó khăn
yếu kém sau đây:
-
Việc quản lý phương tiện còn chưa chặt chẽ, thiếu khả năng nhanh,
nhạy.
-
Việc khai thác phương tiện kém hiệu quả do chưa khai thác được các
nguồn hàng vận chuyển hai chiều.
-
Các chi phí quản lý và các chi phí khác còn cao.
-
Năng lực phương tiện còn hạn chế trong việc tổ chức thực hiện các hợp
đồng vận tải và đại lý vận tải.
* Về sản xuất đại lý vận tải
Công Ty tổ chức hoạt động sản xuất đại lý vận tải dưới ba hình thức chính là “đại
lý vận tải ô tô” và “đại lý vận tải và giao nhận toàn phần từ kho tới kho”, "Dịch vụ
xe du
lịch".
* Về kinh doanh tổng hợp
Công Ty đã tích cực tổ chức kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau như:
khai thác kho bãi hiện có, sản xuất tư liệu tiêu dùng, đóng kệ, giá để hàng, . . . Tuy
nhiên trong công tác kinh doanh tổng hợp công ty chưa xây dựng được bộ máy hoạt
động phù hợp, nhạy bén với thị trường nên chủ yếu mới chỉ làm vận tải hàng hoá là
chính.
* Về kinh doanh xuất nhập khẩu
Trong lĩnh vực này đến năm 2004 công ty mới thành lập nhưng do chưa có kinh
nghiệm, quan hệ còn nhiều hạn chế trong kinh doanh nên kế hoạch và hiệu quả kinh
doanh thấp. Công ty đã cố gắng tìm thị trường nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
1.3.3.4. Đặc điểm về vốn
Phú Sơn là một công ty tư nhân nên nguồn vốn của công ty được hình thành chủ
yếu từ nguồn vốn tự có, do các thành viên trong công ty đóng góp và tích luỹ từ hoạt
động sản xuất kinh doanh và nguồn vốn vay ngân hàng. Ban đầu nguồn vốn công ty
không lớn, song qua nhiều năm hoạt động lượng vốn của công ty đã dần tăng lên,
đến giờ công ty đã có một nguồn vốn tương đối mạnh phong phú và đa dạng về
nguồn hình thành.
Vì Công ty TNHH thương mại và dịch vụ vận tải Phú Sơn là công ty dịch vụ, nó
làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá, không giống như những công ty sản xuất sản
phẩm hàng hoá khác, máy móc thiết bị của công ty chủ yếu là: thiết bị giao dịch
(máy tính, máy điện thoại) và phương tiện vận tải (ôtô, máy cẩu). Cũng giống như
nhiều doanh nghiệp vận tải khác thì vốn sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu là
vốn cố định. Tuy chỉ là một doanh nghiệp tư nhân nhưng cho đến nay nguồn vốn sản
xuất kinh doanh của công ty đã khá lớn và liên lục phát triển. Cụ thể là vốn sản xuất
kinh doanh năm 2004 là 59 tỷ đồng, năm 2005 là 64 tỷ đồng, và đến năm 2006 thì
con số đó đã tăng lên là 75 tỷ đồng.
1.3.3.5. Đặc điểm về lao động
Cơ cấu lao động của công ty ảnh hưởng trực tiếp tới kế hoạch kinh doanh của
công ty. Lao động trong công ty có thể chia thành hai bộ phận: Các cán bộ làm công
tác quản lý và các nhân viên trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do đặc điểm, tính chất của ngành vận tải nên số lượng lao động nữ chủ yếu vào
nhân viên nghiệp vụ, còn nhân viên phục vụ và lái xe toàn là nam.
Như ta đã biết lao động luôn chiếm vị trí rất quan trọng đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, lao động được coi là chìa khoá cho sự phát
triển và tăng trưởng kinh tế xã hội, là điều kiện quan trọng để thúc đẩy sản xuất phát
triển, nhận thức được điều này, ngay từ đầu ban lãnh đạo của công ty đã đặc biệt coi
trọng đến vấn đề quan tâm và phát triển nguồn nhân lực của công ty cả về số lượng
cũng như chất lượng.
Lao động của công ty hiện nay có tổng cộng là 550 người. Có sơ đồ phân bổ lao
động
của
công
ty
như
sau:
Bảng 1.1: BẢNG PHÂN BỔ LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY
Chỉ tiêu
Số người
1. Lao động gián tiếp:
93
- Cán bộ quản lý:
33
- Nhân viên nghiệp vụ:
45
- Nhân viên phục vụ:
15
2. Lao động trực tiếp:
457
- Nhân viên giao nhận, thủ kho:
27
- Lái, phụ xe:
400
- Nhân viên bán hàng, tiếp thị:
15
- Công nhân sản xuất phụ:
25
3. Lao động bổ xung:
--
Tổng cộng
550
Nguồn: phòng kế hoạch
1.3.3.6. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu chất lượng dịch vụ vận tải
- Với đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ chuyên môn, năng lực và giàu kinh
nghiệm đã lãnh đạo công ty vững bước đi lên. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh
tế thị trường đầy biến động nghiệt ngã, từng bước đưa công ty hoà nhập với sự phát
triển chung của cả nước Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Vận tải Phú sơn đã
luôn cố gắng hết mình để thoả mãn được nhu cầu không ngừng tăng lên của khách
hàng, công ty đã đặt ra một số nhữn chỉ tiêu cụ thể để phấn đấu đạt được điều đó.
Một trong số đó là chỉ tiêu đo lường chất lượng của dịch vụ vận tải, đây là chỉ tiêu
có tính quyết định lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Để đo lường chất lượng dịch vụ vận tải cung cấp công ty đã sử dụng một số chỉ
tiêu đó là:
+ Độ an toàn;
+ Thời gian vận chuyển;
+ Chi phí.
* Sự an toàn
Vì công ty làm nhiệm vụ giao nhận giống như nhiều công ty vận tải khác do vậy
tiêu thức an toàn được các bên quan tâm và thực hiện một cách rất nghiêm túc. Từ
ban lãnh đạo đến toàn bộ nhân viên nhất là các nhân viên trực tiếp tham gia vận
chuyển hàng hoá thì an toàn luôn là trách nhiệm và nghĩa vụ mà họ phải hoàn thành.
- Đối với con người
An toàn ở đây chính là an toàn cho người lao động trực tiếp, an toàn cho người
áp tải trực tiếp các chuyến hàng an toàn cho những người dân bình thường khác. Vì
vận tải là một công việc hết sức khó khăn, nõ liên quan trực tiếp không chỉ đến
những người trực tiếp tham gia vận chuyển mà còn liên quan đến những người dân
bình thường. Đối với con người công ty đặt các chỉ tiêu 100% các chuyến hàng
không xảy ra tai nạn.
- Đối với hàng hoá
Công việc giao nhận và vận chuyển hàng hoá tức là thay mặt cho chủ hàng làm
công tác vận chuyển hàng hoá đảm bảo từ kho tới kho. Do vậy chỉ tiêu về an toàn
hàng hoá còn được công ty quan tâm rất sâu sắc.
Đối với những hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ thì chỉ tiêu đưa ra hàng hoá
phải đầy đủ 100% về số lượng và chất lượng khi trao trả chủ hàng trong đó cũng trừ
những trường hợp hàng hoá cho phép hao hụt tự nhiên theo những quy định cụ thể.
Đối với những hàng hoá dễ vỡ thì 100% hàng hoá phải được đóng gói lại để đảm
bảo hàng hoá trong khi vận chuyển.
* Thời gian
Trong vận tải mặc dù có những sai số nhất định về thời gian giao hàng. Tuy
nhiên chi phí về đến chậm trong giao nhận là rất lớn. Chính vì vậy không có những
chỉ tiêu định hướng chính xác về tỷ lệ chuyến hàng cho phép đến không đúng giờ là
bao nhiêu nhưng ban lãnh đạo công ty luôn quán triệt nhân viên của công ty mình
thực hiện đúng nguyến tắc “đúng giờ có nghĩa là giảm chi phí”.
* Chi phí
- Xem thêm -