Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích thị trường thủy sản hoa kỳ để định hướng cho hoạt động marketing xuất ...

Tài liệu Phân tích thị trường thủy sản hoa kỳ để định hướng cho hoạt động marketing xuất khẩu sản phẩm cá tra việt nam

.DOC
30
141
53

Mô tả:

Trong những năm gần đây, ngành xuất khẩu cá tra là một trong những ngành thế mạnh của xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Dù mới chỉ đưa vào xuất khẩu chưa tới 20 năm nhưng sản phẩm cá tra luôn được coi là mặt hàng chủ lực, mang lại giá trị xuất khẩu cao và cókhả năng cạnh tranh trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu đạt được việc xuất khẩu cá tra còn gặp rất nhiều khó khăn như: các vụ kiện bán phá giá của Hiệp hội cá da trơn Mỹ, có một lô hàng bị EU trả về do nhiễm kháng sinh hóa chất,… Một trong những nguyên nhân quan trọng của các khó khăn trên là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu rõ về các thị trường xuất khẩu, không có chương trình đầu tư sâu vào việc nghiên cứu thị trường, chưa có những chiến lược Marketing xuất khẩu bài bản. Do đó, để hoạt động xuất khẩu được phát triển tốt và hạn chế gặp những khó khăn cần phải đầu tư tìm hiểu thị trường, phân tích những nguyên nhân gây ảnh hưởng để có biện pháp hoạt động marketing thích hợp. Thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu cá tra của Việt Nam lớn thứ hai trên thế giới, đồng thời cũng là nơi mà cá tra gặp nhiều rào cản khó khăn nhất. Ngoài việc tại thị trường này cá tra Việt Nam không được mang tên “ Catfish– cá da trơn” gây khó khăn trong việc phát triển thương hiệu, nhãn mác sản phẩm và các hoạt động truyền thông, thì các chính sáchvề thuế đối với mặt hàng này cũng đang làm mất dần lợi thế cạnh tranh về giá của cá tra Việt Nam. Khó khăn hơn nữa khi mới đây Chính Phủ Mỹ xem xét áp dụng Đạo luật Nông nghiệp (Farm Bill) với mặt hàng cá tra, mà theo đó việc xuất khẩu cá tra Việt Nam sẽ bị kiểm tra nghiêm ngặt từ vùng nuôi, môi trường, cho tới khâu chế biến và xuất khẩu. Đứng trước những khó khăn nêu trên việc tiến hành nghiên cứu thị trường Mỹ lại càng trở nên cấp thiết nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam tận dụng những nhân tố thuận lợi để khắc phục khó khăn, tìm hướng đinh mới và định hướng cho hoạt động Marketing xuất khẩu trên thị trường này. Trên cơ sở những lí do trên, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phân tích thị trường thủy sản Hoa Kỳ để định hướng cho hoạt động marketing xuất khẩu sản phẩm cá tra Việt Nam” nhằm đề xuất một số giải pháp marketing thích hợp cho các doanh nghiệp Cá tra xuất khẩu sang thị trường Mỹ. 1 1. Vấn đề nghiên cứu Vấn đề nghiên cứu là thực trạng hoạt động xuất khẩu cá tra Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ và các nhân tố thị trường tác động tới hoạt động marketing xuất khẩu sản phẩm cá tra. 2. Mục tiêu nghiên cứu Phân tích tình hình xuất khẩu cá tra của Việt Nam sang thị trường Mỹ đồng thời đánh giá lợi thế cạnh tranh của sản phẩm cá tra Phân tích các nhân tố của thị trường Mỹ ảnh hưởng tới hoạt động marketing xuất khẩu. Đánh giá những nhân tố thuận lợi và khó khăn ở hiện tại và tương lai.Từ đó, đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm định hướng cho hoạt động marketing làm gia tăng giá trị và hiệu quả xuất khẩu cá tra Việt Namtrên thị trường Mỹ. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu của cá tra Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ và các nhân tố thị trường tác động tới hoạt động xuất khẩu cá tra. 4. 4.1. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập dữ liệu Dữ liệu thứ cấp: Các thông tin, dữ liệu liên quan đến thị trường Mỹ, kết quả xuất khẩu cá tra của Việt Nam trong những năm gần đây vào thị trường này và những thông tin định hướng cho những năm kế tiếp Các số liệu liên quan đên quá trình trình phân tích được thu thập chủ yếu trong báo cáo xuất nhập khẩu của tổng cục Hải Quan Việt Nam, Báo cáo xuất khẩu thủy sản do Hiệp hội xuất khẩu cá tra Việt Nam cung cấp, các tạp chí thủy sản, bản tin tuần thương mại thủy sản, bản tin VASEP news, từ nguồn internet, sách ảnh VASPE 15 năm,… đồng thời, thông qua việc ghi nhận các báo cáo tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra lớn cung cấp. 4.2. Phương pháp phân tích Phương pháp so sánh đối chiếu các chi tiết kết quả trên cơ sở đánh giá những vấn đề nêu ra nhằm xác định nguyên nhân và tìm ra giải pháp tối ưu. Phương pháp số tuyệt đối và số tương đối trong thống kê. Phương pháp đồ thị và biệu đồ phân tích mối quan hệ, mức độ biến động và sự ảnh hưởng của các nhân tố đang phân tích. 2 I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁ TRA VIỆT NAM TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 1. Mô tả sản phẩm cá tra 1.1. Tổng quan cá tra Cá tra - Shutchi catfish, Có tên khoa học : Pangasius hypophthalmus, thuộc bộ cá nheo: Siluriformes. Cá tra (theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1977) là loài cá nước ngọt, có thân dẹp, da trơn, có râu ngắn, giống cá trê nhưng không ngạnh. Trên thế giới các loài trong họ Cá tra được tìm thấy trong các vùng nước ngọt và nước lợ dọc miền nam châu Á từ Pakistan tới Borneo. Tại khu vực Đông Nam Á, cá tra sống tự nhiên tại dòng sông Mê kong chảy qua các nước Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và một số sông lớn phía nam. Cá tra có tốc độ sinh trưởng tương đối nhanh ở vùng nước ngọt hoặc hơi lợ có nồng độ muối từ 10-14%. Biên độ nhiệt phát triển của cá trong khoảng 15-39 độ C, dễ chết ở nhiệt độ thấp ≤15°C. Cá có tập tính ăn tạp thiên về động vật, có khả năng thích nghi với nhiều loại thức ăn, kể cả thức ăn bắt buộc như mùn, bã hữu cơ, động vật đáy tại ao nuôi. Trong điều kiện nuôi vỗ tốt cá tra có thể phát triển tốt và sinh sản từ 100.000 – 200.000 trứng / kỳ vào đầu tháng 4 dương lịch. Cá tra được nuôi trồng chủ yếu tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)của nước ta nơi có nhiều điều kiện nuôitrồng rất thuận lợi. Người nuôi cáđã dựa vào các đặc điểm sinh học, tập tính, điều kiện sinh trưởng, sinh sản, ,… của cá tra để tiến hành nuôi với quy mô lớn theo hình thức thâm canh mang lại giá trị kinh tế cao, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. 1.2. Nuôi trồng và sản xuất cá tra 1.2.1. Tình hình nuôi trồng hiện nay tại Việt Nam Ngành nuôi cá tra của Việt Nam liên tục phát triển, tăng nhanh cả về diện tích nuôi trồng,năng suất, chất lượng và sản lượng thu hoạch mang lại nguồn lợi kinh tế xuất khẩu cao. Bởi vậy, ngành nuôi cá tra đã trở thành ngành kinh tế trọng điểm của nhiều tỉnh tại ĐBSCL. Biểu đồ 1: Các tỉnh nuôi cá lớn tại ĐBSCL 3 Theo Tổng cục thủy sản và chi cục thủy sản các tỉnh khu vực ĐBSCL, năm 2013, diện tích nuôi cá tra 5.556 ha (bằng 93% so với năm 2012), diện tích thu hoạch là 4.168 ha (đạt 91% so với năm 2012), sản lượng 1.131 nghìn tấn (đạt 88% năm 2012), với năng suất đạt khoảng 270 tấn/ha (năm 2012 đạt 280 tấn/ha). Trong đó, diện tích nuôi chưa thu hoạch vào khoảng 1.400 ha, tương đương với sản lượng ước đạt khoảng 350 nghìn tấn. Cuối năm 2013, diện tích nuôi mới suy giảm do nhiều nguyên nhân: thời tiết lạnh, người nuôi suy kiệt về vốn, tâm lí lo ngại và những khó khăn lớn trên thị trường nhập khẩu cá tra thế giới… Cơ sở số liệu trên cho thấy, sản lượng cá có thể giảm vào năm 2014.So với cùng kỳ năm 2013, sản lượng cá tra tháng 3 đã hụt tới 30%. Nhiều chuyên gia dự báo cả năm 2014, sẽ sụt giảm 50%, tương đương còn khoảng 700.000 tấn cá so với 1,4 triệu của năm 2013. Tình hình thiếu hụt nguyên liệu cá tra của Việt Nam – nước xuất khẩu cá tra lớn nhất thế giới trở nên căng thẳng có ảnh hưởng lớn tới nguồn cung cá tra đáp ứng nhu cầu thế giới. 1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới nuôi trồng cá tra tại Việt Nam 1.2.2.1. Điều kiện tự nhiên  Thuận lợi ĐBSCL có hệ thống sông ngòi chằng chịt, hai dòng sông Tiền và sông Hậu chảy qua với chiều dài mỗi sông khoảng 220km. Lưu lượng nước dồi dào, người nuôi có thể đặt 2 -3 hàng bè nối nhau từ bờ ra lòng sông (khoảng 50m). Điều kiện thủy văn, điều kiện sinh thái và chất lượng nước của sông khá thuận lợi cho hoạt động nuôi cá tra trên các ao thâm canh ven sông, trên cồn. 4  Khó khăn Biến đổi khí hậu toàn cầu ảnh hưởng tới ĐBSCL khiến khí hậu thay đổi, thời tiết lạnh hơn làm giảm tỷ lệ sống của cá. Thiên tai với cường độ và mức độ gia tăng, khó dự đoán sảy ra làm nhiều hộ nuôi cá mất trắng sau mỗi lần bão lũ, triều cường,… Việc nuôi cá tra theo hình thức thâm canh ồ ạt không chỉ ảnh hưởng xấu tới môi trường tự nhiên mà còn là nỗi lo cho hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm cá tra xuất khẩu. Theo số liệu điều tra của khoa Thủy sản- Đại học Cần Thơ, trong 1 ao nuôi có diện tích 1ha có tới 25%lượng thức ăn bị thải loại dưới dạng dư thừa thối rữa lắng đọng dưới đáy ao. Cùng với các hóa chất vệ sinh cải tạo ao nuôi, vật tư chuyên dụng như vôi bột, chế phẩm sinh hóa học, thuốc kháng sinh, chất kích thích tăng trưởng... Các nguồn chất thải này chưa được xử lý triệt đểvà thải trực tiếp ra môi trường gây ra sự biến đổi chất lượng nước trên sông rạch.Tình hình ô nhiễm môi trường nước nuôi cá tra hiện nay đang ở mức nguy hiểm, đáng báo động. Mới đây, Mỹ đang nghiên cứu áp dụng luật nông sản với cá tra Việt Nam. Theo Luật này, việc quản lý nhập khẩu cá tra sẽ được giám sát gắt gao từ vùng nuôi, mật độ, môi trường và cả an sinh xã hội của nước xuất khẩu tương đương với nước nhập khẩu là Mỹ. Vấn đề này khiến nhà quản lí chức năng, các doanh nghiệp và hộ nuôi cá lo ngại. Nhiều giải pháp đang được nhanh chóng đẩy mạnh thực hiện để góp phần cải thiện môi trường nuôi cá và giúp cá tra vượt qua những rào cản khó khăn trên thị trường Mỹ, tạo lợi thế cạnh tranh bền vững cho thương hiệu cá tra Việt Nam so với các quốc gia khác. 1.2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội  Nguồn nhân công Tại ĐBSCL có nguồn lao động dồi dào, cần cù, chăm chỉ, giàu kinh nghiệm lâu năm trong nuôi trồng thủy hải sản là điều kiện thuận lợi lớn để phát triển nghề nuôi cá tra. Người nuôi cá nay được tiếp cận với khoa học công nghệ mới trong sản xuất làm tăng sản lượng và chất lượng cá, giảm thiểu chi phí sản xuất. Mối liên kết 4 nhà: nhà nuôi cá, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, Nhà nước quản lí ngày càng chặt chẽ giúp phát triển bền vững ngành nuôi cá tra.Nghề nuôi cá tra đã tạo công ăn việc làm cho hơn 16 ngàn lao động tại ĐBSCL giúp cải thiện vấn đề an sinh xã hội, tăng thu nhập bình quân và nâng cao đời sống người dân.  Nguồn vốn đầu tư Trước tình hình căng thẳng về nguyên liệu cá chế biến, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra phải huy động vốn từ nhiều nguồn để đầu tư sản xuất.Hai kênh huy động vốn chính của doanh nghiệp từ thị trường chứng khoán và vay ngân hàng.Tuy nhiên, cả hai kênh huy động này hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Các hộ gia đình nuôi cá tra có thể huy động vốn cá nhân hoặc vay ngân hàng. Hiện nay, vấn đề chiếm dụng vốn bằng cách hợp đồng thỏa thuận sẽ thanh toán 2030% số tiền sau khi bắt cá và thanh toán hết sau 1 tháng của các công ty thu mua, chế 5 biến thủy sản khiến nhiều hộ gia đình gặp khó khăn. Trên thực tế, sau 5-6 tháng, người dân mới nhận được tiền, nếu không may gặp các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì dân bị mất trắng. Hậu quả là người nuôi vừa cạn vốn, vừa mắc nợ ngân hàng, không thể đầu tư nuôi mới cá tra.Đứng trước tình hình đó các cơ quan chức năng cần có những biện pháp thiết thực để giải quyết vấn đề khó khăn cho người dân. 1.2.2.3. Nguồn thức ăn  Thuận lợi Tại các khu vực tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, đất đai màu mỡ, thích hợp cho canh tác các loại nông sản và là nguồn cung cấp nguyên liệu nông sản chủ yếu để chế biến thức ăn công nghiệp cho cá.Vào cuối mùa gió Tây - Nam hàng năm (sau đỉnh lũ) nước sông Cửu Long mang về nguồn lợi cá tự nhiên rất dồi dào cả về số lượng lẫn chủng loại,cùng với các loại cá tạp đánh bắt từ biển Rạch Giá được chuyển đến khu vực nuôi bè với đoạn đường ngắn và thường xuyên. Điều kiện giao thông thủy và bộ thuận tiện giúp cho việc vận chuyển nguyên vật liệu chế biến thức ăn cho cá được dễ dàng và kịp thời.  Khó khăn Hiện nay, giá bán cá thì không ổn định mà giá thức ăn thì liên tục tăng. Trong 6 tháng đầu năm 2013, giá thức ăn cho cá đã 3 lần tăng giá với mức tăng tổng cộng từ 800-1000đồng/ kg. Theo tính toán của người nuôi cá thì chi phí thức ăn thường chiếm 70-80% giá thành sản xuất,nếu tính bình quân trong 7 tháng thả nuôi, cá đạt trọng lượng ~1kg/con, người chăn nuôi phải đầu tư 23.000 – 24.000 đồng/kg. Giá thức ăn tăng cao là nguyên nhân chủ yếu làm tăng chi phí sản xuất, giá thành cá tra nguyên liệu khiến nhiều người nuôi cá phải bỏ nghề do không chịu được áp lực tăng giá. 1.2.2.4. Kĩ thuật nuôi trồng Hiện nay, cá giống cá tra đã gần như chủ động từ nguồn cá sinh sản nhân tạo, do đó có điều kiện để lựa chọn, kiểm tra và đáp ứng được yêu cầu, chất lượng cá giống. Quy trình nuôi cá tra được các doanh nghiệp và người nuôi áp dụng có hai giai đoạn: nuôi cá giống và nuôi cá thịt. Cá ươm sau 3 - 4 tháng đạt chiều dài 10 – 12cm (14 –15g/con) được chuyên sang ao nuôi thương phẩmtừ 6-8 tháng, đạt trọng lượng xấp xỉ 1kg thì có thể thu hoạch. Nuôi cá bè là hình thức nuôi công nghiệp, chủ động và có tính tập trung, cần nguồn thức ăn, nguồn con giống lớn. Trong quá trình nuôi trồng cá cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định ASC, GLOBAL G.A.P, …Phần lớn các công ty xuất khẩu cá tra đã xây dựng vùng nuôi cá nguyên liệu áp dụng quy trình khép kín, khoa học kĩ thuật vào sản xuất đảm bảo chất lượng và sản lượng cá tra chủ động chế biến. 6 1.2.3. Sản xuất và chế biến cá tra xuất khẩu Quy trình chế biến cá tra xuất khẩu thiết kế dựa trên hệ thống tiêu chuẩn HACCP, hiện đang được áp dụng tại các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra như sau: Sơ đồ 1: Quy trình chế biến cá tra xuất khẩu Tất cả các nhà máy của doanh nghiệp xuất khẩu cá tra luôn phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn chất lượng : GLOBAL GAP, HACCP, BRC, IFS, GMP, ISO 9001:2008, ISO 22000:2005, HALAL, ISO/IEC 17025:2005, ASC, BAP, VietGAP .... sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đủ điều kiện nhập khẩu vào các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU,… 7 1.3. Cá tra thành phẩm xuất khẩu 1.3.1. Phân loại Bảng 1: Danh mục sản phẩm cá tra xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam (Nguồn: VASEP) T t 1 2 Loại Thông tin Hình ảnh Cá tra Fillet Mô tả: bỏ da, bỏ xương, bỏ thịt đỏ, bỏ định hình mỡ, bỏ bụng. hoàn toàn Màu sắc: Trắng, hồng nhạt, vàng nhạt Kích cỡ (gram/miếng fillet): 120/170, 170/220, 220/up, 300/up…600gr Bao gói: IQF 1 kg/PE x 10/carton Cá tra Fillet định hình không hoàn toàn Mô tả: bỏ xương, bỏ da, còn thịt đỏ, còn mỡ, còn bụng Kích cỡ (gram/miến g fillet): 120/ 170, 170/220, 220/up, 300/up… 600gr Bao gói: IQF 1 kg/PE x 10/carton 8 3 Cá tra Fillet Mô tả: bỏ xương, bỏ da, còn thịt đỏ, còn bán định mỡ, bỏ bụng hình Kích cỡ (gram/miếng fillet): 120/170, 170/220, 220/up, 300/up…600gr Bao gói: IQF 1 kg/PE x 10/carton 4 Cá tra cắt miếng Mô tả: bỏ da, bỏ xương, bỏ thịt đỏ, bỏ mỡ, bỏ bụng Kích cỡ (gram/miếng): 30, 40 gram … Bao gói: IQF 1 kg/PE x 10/carton 5 Cá tra cắt khúc Mô tả: còn da, còn xương Kích cỡ (độ dày mỗi khúc): 2.5 – 3 cm Bao gói: IQF 1 kg/PE x 10/carton (hoặc theo yêu cầu) 6 Cá tra nguyên con Mô tả: còn da, còn xương, bỏ đầu, bỏ ruột, bỏ đuôi. Kích cỡ: 800 -1.000 gram Bao gói: IQF 5 kg/PE x 2/carton 1.3.2. Lợi ích của sản phẩm cá tra cho khách hàng Cá tra có thịt trắng, hương vị sau khi nấu rất thơm ngon, có thể được chế biến thành nhiều món ăn ưa thích. Thịt cá rất bổ dưỡng không có cholesterol, chứa nhiều các các axít béo không no thiết yếu cho cơ thể như MUFA, PUFA và Omega 3 EPA, DHA. Sản phẩm cá tra khi xuất khẩu được kiểm tra nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm, không chứa vi sinh và các kháng sinh hóa chất độc hại. Bảng 2. Thành phầần dinh dưỡng ( 170g/con) cá tra pangasius hypophthalmus. Calo 124,52 cal Calo từ chất béo 30,84 cal Tổng lượng chất béo 3,42g Chất béo bảo hòa 1,64g Na 70,6mg Protein 23,42g Do vậy, dùng cá tra thường xuyên trong bữa ăn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe như: giảm các bệnh liên quan đến tim mạch, tốt cho não, bổ mắt, ngăn ngừa ung thư, da khỏe đẹp, giảm lo âu ưu phiền, giảm đau và viêm sưng, … Những lợi ích sức khỏe cá tra mang lại khiến hàng triệu triệu người tiêu dùng ưa chuộng sánh ngang 9 hàng với những loài cá thịt trắng mà người Châu Âu và Mỹ hay ăn là cá Headock, cá Pollack, cá Tilapia. Cá tra được xếp trong 10 loại thủy sản được yêu thích nhất ở Mỹ. Đồng thời, các sản phẩm cá tra đông lạnh đa dạng trong cách thức chế biến đóng gói xuất khẩu rất thuận tiện, dễ sử dụng, an toàn cho người tiêu dùng trong chế biến các món ăn thơm ngon bổ dưỡng cho gia đình. 2. Thực trạng xuất khẩu cá tra của Việt Nam tại thị trường Mỹ Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản cá tra Việt Nam hiện đã có mặt ở 137 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Thị trường nhập khẩu chính gồm: EU, Mỹ, ASEAN, Mexico, Brazil, Trung Quốc và Hong Kong, Arập Xêut, Colombia. Mỹ là thị trường nhập khẩu cá tra Việt Nam lớn thứ 2 trên thế giới (chiếm 21%) sau thị trường EU (khoảng 24%). Giá trị xuất khẩu tại thị trường Mỹ liên tục tăng trong những năm gần đây. Khẳng định Mỹ là thị trường tiềm năng cho sản phẩm cá tra Việt Nam. 2.1. Sản lượng xuất khẩu Năm 2013, Mỹ nhập khẩu hơn 224,594 triệu pao cá tra, tăng 5% so với năm 2012. Trong đó nhập khẩu từ Việt Nam 224,515 triệu pao và từ Trung Quốc 78,8 nghìn pao. Các nhà cung cấp khác từ Indonesia, Thái Lan, Campuchia không có sản phẩm cá tra XK sang thị trường này.Việt Nam là nước đứng đầu trên thị trường Hoa Kỳ về sản lượng xuất khẩu cá tra, có lợi thế áp đảo so với các quốc gia khác, đảm bảo nguồn cung ứng ổn định. Đây là lợi thế to lớn để cá tra chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ. Biểu đồ 2: tình hình nhập khẩu cá tra Việt Nam tại các thị trường năm 2013 Bảng 3: Nhập khẩu cá tra/cá da trơn philê đông lạnh vào Mỹ( đơn vị: pao) Xuất xứ 2013 2012 Tăng, giảm (%) Việt Nam 224.515.472 213.021.682 +5,4 10 Thái Lan Trung Quốc Cămpuchia Khác Tổng 2.2. 78.872 224.594.344 118.890 576.071 106.665 32.655 213.855.963 -86,3 +5,0 Giá cả Bảng 4: Giá cá tra tại thị trường Myỹ tháng 2/ 2014 Loại Giá Cá tra philê đông lạnh các cỡ từ 3 - 5 oz đến 9 - 11 oz 1,65 – 1,75 USD/pao Cá da trơn từ Trung Quốc 2,50 – 2,60 USD/pao Cá da trơn nội địa nguyên con lột da 2,75 – 2,95 USD/pao Cá philê nội địa Mỹ 3,80 – 4,00 USD/pao Các sản phẩm giá trị gia tăng 1,65 – 4,15 USD/pao Cá bao bột 3,95 – 4,15 USD/pao cá cắt khoanh 2,75 – 2,85 USD/pao cá cắt quân cờ 1,65 – 1,75 USD/pao Giá cá tra của Việt Nam nhìn chung thấp hơn giá cá của Trung Quốc và giá cá da trơn nội địa tại Mỹ. Các nhà nhập khẩu Mỹ ưu tiên nhập khẩu cá tra xuất xứ từ Việt Nam cũng là do nguồn cung ổn định và giá cá hợp lí. Lợi thế chi phí thấp do sản xuất quy mô lớn, có nhiều điều kiện thuận lợi là cơ sở để các doanh nghiệp cá tra Việt Nam hạ giá xuất khẩu. Tuy nhiên, công cụ cạnh tranh giá cả nay đang mất dần tính hiệu quả do thuế chống bán phá giá và nhiều rào cản khác do Chính phủ Mỹ đưa ra gây khó khăn và tạo áp lực cho các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải tăng giá bán cá. 2.3. Giá trị xuất khẩu Biểu đồ3: Khối lượng và giá trị xuất khẩu cá tra vào Mỹ 1996-2012 11 (Nguồn: Cơ quan nghề cá Mỹ) Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu cá tra Việt Nam đạt 1,75 tỷ USD. Trong đó, riêng thị trường Mỹ đạt kim ngạch xuất khẩu 380 triệu USD, chiếm hơn 21%. Giá trị xuất khẩu cá tra tại thị trường Mỹ liên tục tăng trong những năm gần đây, thể hiện những dấu hiệu phát triển tốt của ngành cá tra Việt Nam trên thị trường khó tính này. 2.4. Dự báo xuất khẩu 2014 Mục tiêu năm 2014: các tỉnh ĐBSCL phấn đấu đạt sản lượng 1,2 - 1,3 triệu tấn cá tra nguyên liệu. Trong đó, xuất khẩu từ 650.000 - 680.000 tấn, đạt giá trị 1,75 tỷ USD. Các tỉnh ĐBSCL đưa khoảng 6.000 héc-ta mặt nước vào nuôi cá tra, tập trung nhiều nhất tại Đồng Tháp, An Giang, Bến Tre, TP. Cần Thơ… Để hoàn thành kế hoạch đề ra ngành cá tra phải vượt qua nhiều khó khăndo tình hình cung cầu không ổn định, chất lượng con giống giảm, giá bán cá nguyên liệu thấp hơn giá thành, giá các yếu tố đầu vào luôn tăng trong khi đầu ra bất ổn,… Hiệp hội Cá tra Việt Nam dự báogiá trị xuất khẩu sẽ tăng từ 10-15% với Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1,7 tỷ USD) nhưng sản lượng giảm trên 30% trong năm 2014. Tại Mỹ việc xem xét về Đạo luật Nông nghiệp Mỹ (Farmbill) có hiệu lực và thuế chống bán phá giá sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sản lượng nhập khẩu cá tra của Việt Nam vào thị trường lớn thứ 2 này. 3. Các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Bảng 5: Top 10 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra hàng đầu Việt Nam (VASEP thống kê dựa trên doanh thu, lợi nhuận và sản lượng xuất khẩu cá tra 2011-2012) Xếp hạng Doanh nghiệp 1 Công ty CP Vĩnh Hoàn (VINH HOAN CORP) 2 Công ty CP Hùng Vương (HUNG VUONG Corp) 3 Công ty CP XNK Thủy sản An Giang (AGIFISH) 4 Công ty CP Việt An (ANVIFISH Co) 5 Công ty CP Thủy sản NTSF 6 Công ty CP Nam Việt (Navico) 12 7 Công ty CP Đầu tư và Phát triển đa quốc gia (IDI Corp) 8 Công ty Cổ phần Chế biến và XNK Thủy sản CADOVIMEX (CADOVIMEX) 9 Công ty Cổ phần XNK Thủy sản Cửu Long (CL-FISH CORP) 10 Công ty TNHH Đại Thành (Tiền Giang) 3.1. Tình hình hoạt động Các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng nguồn thu ngoại tệ cho các tỉnh khu vực ĐBSCL. Năm 2012,cả nước có 130 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra trong đó 72 doanh nghiệp thương mại; 64 doanh nghiệp có nhà máy chế biến cá tra trực tiếp xuất khẩu trong đó có 5 tập đoàn công suất sản xuất trên 100 tấn/ngày chiếm 34% sản lượng. Trong những năm qua, các doanh nghiệp không ngừng nỗ lực nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô, phát triển vùng nuôi cá thương phẩm, đa dạng các mặt hàng và thành công xây dựng thương hiệu cá tra Việt Nam trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp hiện nay đang gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh do thiếu hụt nguồn nguyên liệu và thiếu vốn. Một số doanh nghiệp tăng cường tự đầu tư vùng nguyên liệu nhưng mới chỉ đáp ứng từ 30 đến 40% công suất nhà máy, còn lại phụ thuộc vào nguồn cá thu mua bên ngoài. Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận nguồn vốn khó khăn, thời gian vay ngắn hạn, lãi suất khá cao là gánh nặng đối với doanh nghiệp thủy sản. Tình trạng trên dẫn tới trong năm 2013 các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra lớn có lợi nhuận giảm đáng kể so với năm 2012. Các chi phí tài chính, chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp tăng rất mạnh, giá vốn hàng bán tăng do chi phí nguyên liệu đầu vào tăng liên tục, lượng hàng tồn kho rất lớn gấp 2, 3 lần so với đầu năm, trong khi lợi nhuận gộp giảm và giá cá tra xuất khẩu vẫn tương đương năm ngoái. Bảng 6:Tình hình hoạt động của một số doanh nghiệp xuất khẩu cá tra lớn năm 2013 Công ty Công ty CP Vĩnh Hoàn Công ty CP Hùng Vương Công ty CP XNK Thủy sản An Giang Công ty CP Nam Việt (Navico) Công ty Thủy sản số 4 Thủy sản Mekong Lợi nhuận 2013 ~179 tỷ đồng ~9 tỷ đồng 21 tỷ đồng 9,5 tỷ đồng ~25 tỷ đồng ~10 tỷ đồng 13 So với 2012 -23% -96% -38% -72% +70% -40% Tồn kho ~100 tỷ đồng 2.686 tỷ đồng ~850 tỷ đồng 877 tỷ đồng Thủy sản Cửu Long An Giang 6 tỷ đồng - 60% Trên cơ sở tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cá tra xuất khẩu của Việt Nam cho thấy những chuyển biến theo chiều hướng suy giảm. Chuyển biến trên do nhiều nguyên nhân trong đó phải kể tới cả những thách thức lớn trên các thị trường nhập khẩu. Đặc biệt tại thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt gặp nhiều khó khăn do các chính sách bảo hộ ngành cá da trơn nội địa của Chính Phủ. Đầu năm 2014, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp cá tra có nhiều khởi sắc do lo ngại tình hình thiếu hụt nguyên liệu các nhà nhập khẩu tăng cường dự trữ hàng. Các doanh nghiệp lớn như: Vĩnh Hoàn, Hùng Vương, Nam Việt,… đã có những đơn hàng đặt tới tận cuối năm. Những dấu hiệu khởi sắc của tình hình xuất khẩu cá tra cho thấy tuy sản lượng cá tra giảm nhưng giá trị xuất khẩu vẫn sẽ ở mức ổn định. 3.2. Khả năng cạnh tranh 3.2.1. Lợi thế cạnh tranh Xuất phát từ những điều kiện thuận lợi về tự nhiên và xã hội cho hoạt động nuôi trồng và sản xuất cá tra xuất khẩu, sản phẩm cá tra của các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh trên thế giới. Trên thị trường Mỹ sản lượng cá tra xuất khẩu xuất xứ từ Việt Nam chiếm hơn 60% thị phần. Điều này cho thấy sự chiếm lĩnh thị trường và khả năng đảm bảo nguồn cung đáp ứng nhu cầu của cá tra Việt Nam. So với các quốc gia khác, sản lượng cá tra xuất khẩu vào Mỹ của Việt Nam luôn cao hơn gấp 2,3 lần. Đồng thời, chất lượng thương phẩm cá tra xuất khẩu đạt các nhiều chứng chỉ, tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đã tạo dựng niềm tin, uy tín với người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu thủy sản Mỹ. Nhờ vậy, dù tại thị trường Hoa Kỳ, sản phẩm cá tra Việt Nam không được lấy tên “Catfish” nhưng các doanh nghiệp cá tra đã nhanh chóng xây dựng được thương hiệu nổi tiếng trên thị trường Mỹ và thế giới. Tại ĐBSCL có nguồn lao động dồi dào, giá thuê nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi phát triển nuôi cá tra với quy mô công nghiệp lớn. Tận dụng lợi thế dẫn đầu về chi phí các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra thu được nhiều lợi nhuận hơn, đây cũng là cơ sở để doanh nghiệp hạ giá bán, cạnh tranh về giá với cá da trơn tới từ các quốc gia khác. Tuy nhiên, tại thị trường Mỹ do những rào cản về thuế quan nghiêm ngắt, mức thuế chống bán phá giá cá, khiến công cụ về giá cả không còn phát huy nhiều tác dụng. Do vậy, để nâng cao lợi thế cạnh tranh trên thị trường này các doanh nghiệp Việt đang tìm hướng đi mới trong hoạt động marketing và nghiên cứu thị trường, chủ động tới các biến động thị trường có ảnh hưởng hiện tại và trong tương lai. 14 Các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam cung cấp sản phẩm sang thị trường Mỹ thông qua hình thức xuất khẩu gián tiếp, ký kết các đơn hàng với các công ty nhập khẩu thủy sản như: BORNSTEIN SEAFOODS INC, PACIFIC SEAFOODS GROUP, AMERICAN SEAFOOD IMPORTS … Các công ty này sẽ đưa sản phẩm cá tra tới người tiêu dùng trên toàn nước Mỹ qua mạng lưới hệ thống bán lẻ. Hoạt động marketing quan hệ với các nhà nhập khẩu Mỹ rất quan trọng. Đây là những bạn hàng lâu năm, gắn bó và là những khách hàng có tiềm lực, uy tín lớn trên thế giới. Cơ sở mối quan hệ lâu dài giữa 2 bên là nền tảng để doanh nghiệp Việt xây dựng uy tín trên thị trường, kí kết các hợp đồng thủy sản lên tới cả triệu đô. Từ những phân tích trên cho thấy, lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp cá tra Việt Nam xuất phát từ khả năng cung ứng sản phẩm chất lượng tốt, ổn định, đúng thời hạn hợp đồng với giá cả hợp lí, tương đối thấp hơn các đối thủ cạnh tranh. Mặt khác, thương hiệu cá tra xuất xứ từ Việt Nam nổi tiếng trên thế giới được nhiều người tiêu dùng ưu chuộng. Mối quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt và bạn hàng nhập khẩu Hoa Kỳ dựa trên cơ sở của uy tín, tiềm lực và thiện chí hợp tác cùng phát triển. Đây là những lợi thế cạnh tranh quan trọng giúp phát triển hoạt động marketing xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam và nâng cao giá trị xuất khẩu tại thị trường Mỹ. 3.2.2. Điểm yếu: Ở các doanh nghiệp cá tra Việt Nam, kĩ năng quản lí còn hạn chế dẫn tới chi phí quản lí tăng cao mà chưa mang lại hiệu quả. Nhà quản trị chưa có nhận thức coi trọng đầu tư nghiên cứu thị trường để hỗ trợ cho việc ra các quyết định Marketing. Thường chỉ các công ty, doanh nghiệp lớn mới đầu tư cho hoạt động này, nguồn thông tin thu được hoàn toàn bảo mật, không có sự liên kết, chia sẻ thông tin marketing. Do vậy, hoạt động marketing cho sản phẩm cá tra Việt Nam trên thị trường quốc tế vẫn chưa có sự thống nhất, bài bản và chuyên nghiệp. Vai trò của Hiệp hội cá tra Việt Nam được thấy rõ trong vấn đề này, khi VASEP là nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ các doanh nghiệp, đồng thời là đại diện cho tiếng nói chung của các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra trong các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, việc hoạt động của VASEP còn hạn chế nên đòi hỏi ở các doanh nghiệp sự tự lực nghiên cứu tìm hướng đi mới phù hợp cho mình. Xét trên khía cạnh ngành cá tra Việt Nam, các doanh nghiệp chưa có mối liên kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ nhau trên thị trường quốc tế mà vẫn còn đấu đá lẫn nhau. Do vậy, sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế không mạnh. Mặt khác, các doanh nghiệp tuy đã xây dựng được vùng nuôi trồng cá tra thương phẩm nhưng mới chỉ đáp ứng 30%-40% công xuất nhà máy, còn lại vẫn phụ thuộc vào hộ dân nuôi cá. Mối liên kết giữa người nuôi và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, đặc biệt tình trạng chiếm dụng vốn của người dân do một số công ty thu mua chế biến thủy hải sản đã gây mất lòng tin của người dân đối với doanh nghiệp. Chia sẻ quyền lợi một cách minh bạch và sòng phẳng mới là cơ sở để tạo dựng và duy trì mối quan hệ 15 liên kết bền chặt giữa người nuôi, doanh nghiệp chế biến và các thành phần khác trong chuỗi sản xuất cá tra. Tóm lại, điểm yếu kếm của doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam nằm ở vấn đề quản lí doanh nghiệp, chưa có sự đầu tư cho nghiên cứu thị trường, phát triển hoạt động marketing. Và chưa có sự hài hòa lợi ích giữa các bên trong mối liên kết chuỗi sản xuất cá tra nên không chặt chẽ. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trên thị trường quốc tế. Những điểm yếu trên cần nhanh chóng được khắc phục để giúp doanh nghiệp vượt qua rào cản thị trường, phát triển bền vững trong tương lai. II. PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁ TRA HOA KỲ 1. Tổng quan thị trường Mỹ Hoa Kỳ là một nước cộng hòa lập hiến liên bang gồm 50 tiểu bang và một đặc khu liên bang. Với 3,79 triệu dặm vuông (9,83 triệu km²) và 316 triệu dân (năm 2012), Mỹ là quốc gia đa dạng chủng tộc, lớn hạng ba về tổng diện tích và hạng ba về dân số trên thế giới. Thu nhập bình quân của người dân Mỹ khá cao, ít người thu nhập dưới 20.000USD/ năm và sức mua lớn. Rõ ràng đây là thị trường thủy sản tiềm năng lớn trên thế giới, với nhu cầu sử dụng các sản phẩm thủy hải sản đa dạng và phong phú. Theo số liệu của Công ty Nghiên cứu thị trường Mintel, năm 2011, tổng doanh số bán lẻ của thị trường cá và thủy sản Hoa Kỳ đạt 15,8 tỷ USD. Mức tiêu thụ thủy sản hàng năm của Mỹ khoảng 5 tỷ pound. Công ty này cũng đưa ra những nghiên cứu đáng tin cậy về đặc điểm của nhóm khách hàng mục tiêu cho sản phẩm cá tra đông lạnh là các hộ gia đình tại Mỹ. Các hộ có từ 2-4 người có xu hướng tiêu dùng nhiều cá và hải sản hơn các hộ gia đình có từ 5 người trở lên. Những hộ gia đình thu nhập thấp (Dưới 10,000 USD/năm), thường là những hộ gia đình có nhiều con, có năm thành viên trở lên chỉ tiêu thụ một khối lượng ít cá và hải sản. Do vậy, thị trường nòng cốt của sản phẩm cá tra Việt Nam là Các hộ gia đình có từ 2 đến 4 người và người độc thân; có mức thu nhập bình quân hàng năm từ 20.000USD đến 60.000USD. Hàng năm, Mỹ nhập khẩu hơn 200 triệu pound cá tra nhưng vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Cá tra nằm trong danh sách 10 loài thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất tại thị trường Mỹ trong năm 2012 do Hiệp hội Thủy sản Mỹ (NFI) công bố. Theo đó, cá tra đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng với mức tiêu thụ trung bình 0,726 pao/người. Tiêu thụ bình quân cá da trơn nuôi của Mỹ thấp hơn khoảng 0,5 pound/người ở vị trị thứ 9 năm 2012. Cơ sở trên cho thấy, nhu cầu cá tra của thị trường Hoa Kỳ khá cao, quy mô thị trường lớn giàu tiềm năng với tốc độ tăng trưởng nhanh. Sự ưa chuộng sản phẩm cá tra bổ dưỡng, giá cả hợp lí trong thói quen tiêu dùng của người dân tăng lên đang dần thay thế cá da trơn nội địa đắt đỏ. 16 2. Phân tích môi trường vĩ mô 2.1. Môi trường chính trị Hoa Kỳ hay Mỹ (tên chính thức: Hợp chúng quốc Hoa Kỳ) là nước cộng hoà liên bang thực hiện chế độ chính trị tam quyền phân lập chủ yếu do hai Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa kiểm soát. Hai Đảng có nhiều quan điểm đối lập và mong muốn trái ngược nhau. Do vậy, khó có sự thống nhất hoàn toàn giữa các đảng phái chính trị trong quốc hộ Mỹ trước những vấn đề đối nội, đối ngoại của đất nước. Năm 2013, Chính phủ Mỹ đóng cửa 16 ngày khiến nền kinh tế bị thiệt hại đến hơn 12 tỷ USD và hàng trăm nghìn người mất việc làm. Sự bất ổn định chính trị của Mỹ không chỉ ảnh hưởng đến tình hình kinh tế trong nước mà còn tác động mạnh đến hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia khác vào Mỹ. Theo Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng: Việc chính phủ Mỹ đóng cửa chưa ảnh hưởng đến các hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ. Tuy vậy, trong năm 2014, có thể sẽ có các đợt đối đầu khác giữa các đảng trong chính phủ Mỹ. Trong lĩnh vực thương mại quốc tế: các công ty Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến các vòng đàm phán thương mại đa biên và song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Họ thường xuyên vận động và gây sức ép với Quốc hội và Chính quyền liên bang để kết quả các cuộc đàm phán có lợi cho hoạt động kinh doanh của mình. Ví như: trong vấn đề thuế bán phá giá đối với cá tra Việt Nam, các nhà sản xuất cá da trơn nội địa Hoa Kỳ đã liên tục gây sức ép với Quốc hội và Chính quyền đòi áp đặt thếu bán phá giá với cá tra Việt Nam. Ngược lại, các nhà nhập khẩu và bán lẻ Hoa Kỳ lại tích cực vận động chính phủ Hoa Kỳ không áp dụng thuế chốngbbán phá giá với cá tra Việt Nam. Nhiều công ty thuộc cả hai phía đã cử đại diện vào Việt Nam và đến Washington DC để vận động trong quá trình đàm phán nhằm giành thuận lợi tối đa. Có thể thấy, trong lĩnh vực thương mại quốc tế, việc các công ty có khả năng tác động không nhỏ tới các chính sách, luật của Chính phủ Mỹ. Việc dung hòa lợi ích giữa các bên là khó khăn, nên không có sự thống nhất hoàn toàn. Đối với các vấn đề tranh chấp tại Mỹ, Các doanh nghiệp cá tra và VASEP cần tranh thủ sự đồng tình của các công ty Mỹ và sự ủng hộ quốc tế để tạo lợi thế cho mình. Nhìn chung, môi trường chính trị của Mỹ có tác động lớn tới hoạt động xuất khẩu cá tra của Việt Nam. Từng biến động chính trị nhỏ có liên quan cũng có ảnh hưởng đáng ngại. Đặc biệt, Chính phủ Mỹ với quan điểm bảo vệ người tiêu dùng Mỹ mà thực chất là bảo hộ ngành cá da trơn trong nước đã và đang gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam. Do vậy, đối với hoạt động xuất khẩu cá tra cần phải có sự theo dõi, đánh giá sát sao để hạn chế ảnh hưởng từ chính trị Mỹ đến xuất khẩu của Việt Nam. 2.2. Môi trường kinh tế 17 2.2.1. Tình hình kinh tế Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn mạnh nhất trên thế giới, tác động tới kinh tế thế giới qua những động thái thị trường và chính sách thương mại, đầu tư; chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), chính sách thuế và chi tiêu công, thị trường nhà ở, thị trường tài chính, thị trường cổ phiếu, thị trường lao động. Nền kinh tế Mỹ đang có nhiều tín hiệu tích cực, với tốc độ tăng GDP đạt 3,6% trong quý III/2013, tỷ lệ thất nghiệp 7,2%, niềm tin của người tiêu dùng và giới doanh nghiệp được cải thiện đáng kể giúp GDP của Mỹ tăng 1,7% năm 2013. Tỷ lệ lạm phát cũng đang dần ổn định. Những dấu hiệu khả quan của nền kinh tế có tác động tới tâm lí tiêu dùng của người dân Mỹ mở ra những cơ hội mới cho việc phát triển xuất khẩu thủy sản Việt Nam. 2.2.2. Tỷ giá hối đoái 1USD = 21,120 VNĐ ( ngày 24/3/2014) Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái từ đầu năm đến nay khá ổn định.Tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của doanh nghiệp xuất khẩu cá tra. Do nguyên liệu đầu vào thì chủ yếu là thu mua bằng Việt Nam Đồng, trong khi doanh thu là ngoại tệ. Nếu tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng thì doanh nghiệp sẽ có lợi trong việc chuyển đổi doanh thu sang Việt Nam đồng, kim ngạch xuất khẩu tăng và ngược lại khi tỷ giá giảm doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại. Xu hướng hiện tại là tỷ giá đang tăng và việc nới lỏng thêm biên độ giao động tỷ giá là lợi thế cho các ngành xuất khẩu nói chung và ngành cá tra nói riêng. 2.2.3. Sức mua: GDP bình quân theo đầu người là 47.084 USD (năm 2013) Mặc dù nền kinh tế Mỹ có nhiều dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng nhiều người Mỹ vẫn chưa nhận được lợi ích từ sự đi lên đó, đặc biệt là những người thất nghiệp dài hạn. Tăng trưởng tiền lương hạn chế và lãi suất vay thế chấp cao cũng ảnh hưởng đến các bộ phận dân cư khác. Do vậy, người dân có xu hướng thắt chặt trong chi tiêu. Trung bình 1 người dân Mỹ chi tiều 117 USD cho mặt hàng cá và thủy sản. Tuy vậy, đây cũng là mức chi tiêu tương đối cao cho mặt hàng này. 2.2.4. Các tổ chức kinh tế có ảnh hưởng . Mạng lưới bán buôn: Các công ty kinh doanh thủy sản hàng đầu của Hoa Kỳ nhập khẩu thủy sản từ nước ngoài sau đó cung cấp cho hệ thống mạng lưới bán lẻ. Các công ty này rất quan tâm đến hoạt động nghiên cứu thị trường, thị hiếu khách hàng, thường xuyên nắm bắt tình hình biến động của các nhà xuất khẩu thủy sản trên thế giới để đảm bảo nguồn cung cấp hàng thủy sản ổn định, đa dạng nhằm cung cấp cho các đối tượng khách hàng khác nhau trên thị trường. Mạng lưới bán lẻ:Các công ty bán lẻ độc lập, hệ thống siêu thị - đại siêu thị và các nhà hàng. Hệ thống bán lẻ rộng khắp, phát triển chiếm đến trên 50% giá trị tiêu thụ thủy sản giúp sản phẩm cá tra được phân phối rộng khắp nước Mỹ. 18 Hiện nay Hoa Kỳ đứng thứ 26 trên thế giới về lĩnh vực cảng biển thương mại với 418 cảng trong đó chiếm nhiều nhất là cảng container với 87 cảng. Hệ thống cảng biển của Mỹ phát triển với công nghệ kỹ thuật hiện đại bậc nhất trên thế giới tạo nhiều thuận lợi cho vận chuyển sản phẩm cá tra xuất khẩu từ Việt Nam qua đường biển. Ngoài ra, ngành giao thông vận tải, tín dụng, bảo hiểm,… của Mỹ cũng rất phát triển tạo điều kiện thuận lợi trong dòng chảy kênh phân phối sản phẩm cá tra trên thị trường. Hệ thống kênh phân phối hàng thủy sản Hoa Kỳ và hệ thống giao thông đường thủy, bộ được hình thành và tổ chức chặt chẽ mang tính chuyên môn hóa cao là điều kiện thuận lợi để sản phẩm cá tra tiếp cận đến đông đảo người tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế bổ trợ giúp các hoạt động thanh toán, vận chuyển, liên lạc, … giữa các quốc gia thuận tiện và dễ dàng. 2.3. Môi trường văn hóa- xã hội 2.3.1. Nhân khẩu học: Theo Số liệu công bố ngày 28/12/2012 của Cục Điều tra dân số Mỹ cho biết dân số Mỹ dự báo đến ngày 1/1/2013 là 315.091.138 người, tăng 2.272.462 người, tương đương 0,73% so với kết quả điều tra công bố hồi tháng 4/2010. Số lượng hộ gia đình ở Mỹ tăng hơn 3 lần từ 35 triệu năm 1940 lên 117 triệu năm 2010. Cùng với sự tăng trưởng về số lượng là sự chuyển đổi dần của cấu trúc hộ gia đình. Năm 1940, phần lớn (90%) số hộ gia đình có hai người trở lên, tỷ lệ này giảm xuống 66% vào năm 2010. Xu hướng thay đổi cơ cấu hộ gia đình Mỹ đang dần làm thu hẹp quy mô thị trường tiêu thụ cá và hải sản trong dài hạn. Với nền giáo dục phát triển toàn diện, trình độ dân trí cao và khắt khe trong vấn đề an toàn thực phẩm tiêu dùng. Có thể thấy trong thị trường Hoa kỳ luôn là một thị trường quy mô tiềm năng mà các doanh nghiệp hướng tới cần phải vượt qua sự khó tính của người tiêu dùng. 2.3.2. Thói quen tiêu dùng thực phẩm: Người Mỹ nói chung khá thoải mái trong chi tiêu, họ dành trung bình 81,2% thu nhập sau thuế của mình cho chi tiêu thực phẩm,nhà ở và các chi phí khác (theo ConvergEx Group, New York). Thu nhập của người dân Mỹ cao khá đồng đều tạo ra nhu cầu lớn về sản phẩm và cũng tác động tới chế độ ăn uống. Người Mỹ có chế độ ăn uống đa dạng thực phẩm trong tiêu dùng hàng ngày hơn nhiều so với hầu hết dân số của thế giới, họ thường ăn nhiều thịt và hải sản hơn. Cục Thống kê Lao động Mỹ cho biết tỷ lệ chi tiêu của các hộ gia đình Mỹ cho thịt bò vào khoảng 217USD và khoảng 117USD cho cá và hải sản khác. 19 Thống kê cũng cho biết 97% người dân Mỹ có thói quen tiêu thụ các sản phẩm hải sản tại nhà. Do vậy, các sản phẩm đóng gói tiện dụng trong chế biến gia đình với khối lượng ít được nhiều người ưu chuộng hơn. Thời gian gần đây, người dân Mỹ có xu hướng ít ăn thủy sản tại nhà hơn do thủy sản khó chế biến hơn thịt. Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi tiêu cũng khiến họ mua nhiều thịt lợn hoặc thịt gà hơn. Tuy nhiên, việc tiêu thụ thủy sản vẫn có xu hướng tăng ổn định. Người tiêu dùng Mỹ chủ yếu mua thủy sản, cá tra tại các cửa hàng, siêu thị, nơi họ tin tưởng về chất lượng và các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Mạng lưới bán lẻ phát triển mang lại sự tiện dụng cho người dân trong việc mua sắm thực phẩm. 2.3.3. Các giá trị văn hóa khác Văn hóa Mỹ phong phú và đặc sắc, do thành phần xã hội đa dạng, có nhiều cộng đồng riêng biệt có nguồn gốc nhập cư. Nét tiêu biểu của văn hóa Mỹ tìm thấy ở đa số người dân là chủ nghĩa thực dụng: coi trọng sự chính xác, cách làm việc cẩn thận, tỉ mỉ, khoa học, quý trọng thời gian. Do vậy, đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi hợp tác với các đối tác Mỹ cần chú trọng đến tác phong làm việc, yếu tố thời gian, sự chặt chẽ, chi tiết trong hợp đồng,… góp phần thúc đẩy các hoạt động đàm phán. 2.4. Môi trường công nghệ Trên thế giới Mỹ là một trong những quốc gia đi đầu về khoa học và kỹ thuật. Sau Thế chiến thứ hai, chỉ với 5% dân số thế giới, nước Mỹ gần như chiếm vị trí thứ ba trong nghiên cứu khoa học và kỹ thuật, với 40% các nghiên cứu và 35% tạp chí nghiên cứu khoa học và kỹ thuật được xuất bản. Nhiều công ty công nghệ cao hàng đầu thế giới là của Mỹ. Sự phát triển và tiến bộ trong khoa học công nghệ đã góp sức không nhỏ cho việc phát triển nuôi trồng cá da trơn tại Mỹ. Quy trình và kĩ thuật nuôi cá da trơn tại Mỹ được tiêu chuẩn hóa và chuyên môn hóa theo các tiêu chuẩn quốc tế đảm bảo chất lượng cá thành phẩm và bảo vệ môi trường bền vững. Bên cạnh đó, công nghệ tiên tiến cũng giúp bảo quản các sản phẩm đông lạnh như cá tra tốt hơn giúp sản phẩm luôn tươi ngon khi tới tay người tiêu dùng. Nhờ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan