Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích nội dung, những ưu, nhược điểm và thực tiễn áp dụng một biện pháp hòa ...

Tài liệu Phân tích nội dung, những ưu, nhược điểm và thực tiễn áp dụng một biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế

.PDF
12
87
130

Mô tả:

MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 3 NỘI DUNG 3 1. Tranh chấp quốc tế và hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. 3 1.1. Tranh chấp quốc tế. 3 1.2. Các phương pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp quốc tế. 4 2. Đàm phán trực tiếp-biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. 5 2.1. Nội dung của biện pháp đàm phán trực tiếp. 6 2.2. Ưu điểm và hạn chế của biện pháp đàm phán trực tiếp. 7 2.3. Thực tiễn áp dụng biện pháp đàm phán trực tiếp. 8 KẾT LUẬN 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11 1 Đề bài: Phân tích nội dung, những ưu, nhược điểm và thực tiễn áp dụng một biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. BẢNG TỪ VIẾT TẮT TCQT : Tranh chấp quốc tế ; LQT : Luật quốc tế ; LQG : Luật quốc gia ; HƯ : Hiệp ước ; CƯ : Công ước ; HC : Hiến chương ; LHQ : Liên hợp quốc ; 2 Tranh chấp là một hiện tượng phổ biến, tất yếu của đời sống quốc tế, khi các tranh chấp này xảy ra nếu các bên không có biện pháp giải quyết triệt để thì có thể dẫn đến các tranh chấp xung đột mới gây thiệt hại lớn cho các bên thậm chí đe dọa tới hòa bình an ninh thế giới do vậy LQT hiện đại đã xem hòa bình giải quyết TCQT là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi quốc gia. Hiện nay có nhiều biện pháp để giải quyết hòa bình các TCQT và bài luận sau xin được phép trình bày một số vấn đề về biện pháp đàm phán trực tiếp. 1. Tranh chấp quốc tế và hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. 1.1. Tranh chấp quốc tế. a. Khái niệm. Trong phán quyết về vụ chuyển nhượng Mavromatis Palestine năm 1924 giữa Hy Lạp và Anh, Hội đồng xét xử của Tòa án thường trực Công lý quốc tế (do hội Quốc liên thành lập) đã khẳng định “tranh chấp là một bất đồng về một vấn đề của luật pháp hoặc của thực tiễn, hay là một xung đột về quan điểm pháp lý hoặc về lợi ích của hai chủ thể”. Xuất phát từ định nghĩa trên khoa học LQT đã đưa một định nghĩa tương đối đầy đủ về TCQT, theo đó TCQT được hiều là “một hoàn cảnh thực tế trong đó các chủ thể của Luật Quốc tế có sự khác nhau về quan điểm và sự xung đột, mâu thuẫn về lợi ích, đòi hỏi phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình và dựa trên các nguyên tắc, quy phạm của Luật Quốc tế nhằm ổn định các quan hệ quốc tế và duy trì hòa bình, an ninh quốc tế.” Từ định nghĩa trên, có thể thấy TCQT có một số đặc điểm để phân biệt với các tranh chấp có tính chất quốc tế thuộc sự điều chỉnh của Tư pháp quốc tế như: * Các bên chủ thể tham gia TCQT phải là chủ thể của LQT (quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ …) có xung đột, mâu thuẫn về lợi ích còn chủ thể tham gia các tranh chấp có tính quốc tế lại là chủ thể của LQG (cá nhân, pháp nhân, nhà nước-chủ thể đặc biệt). * Đối tượng của TCQT phải là đối tượng điều chỉnh của LQT như lãnh thổ, biên giới quốc gia, vấn đề lý giải và viện dẫn áp dụng điều ước quốc tế, ... * Luật áp dụng để điều chỉnh các TCQT phải là luật quốc tế trừ trường hợp các bên tranh chấp thỏa thuận áp dụng LQG. * Cơ chế giải quyết các TCQT mang nét đặc thù riêng, chúng được giải quyết bằng các biện pháp đa dạng dựa trên các nguyên tắc, quy phạm của LQT và vai trò, ý chí của các bên tranh chấp có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình giải quyết tranh chấp. b. Phân loại. Căn cứ vào các tiêu chí thì TCQT được chia thành các loại khác nhau, tuy nhiên sự phân loại chỉ mang tính tương đối và các tiêu chí phân loại không loại trừ lẫn nhau. * Căn cứ vào tiêu chí số lượng chủ thể tham gia thì TCQT được chia thành: 3 - TCQT song phương như tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia về đền Preah Vihear, .. - TCQT đa phương khu vực như tranh chấp về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa giữa các nước Việt Nam, Trung Quốc, Brunei, Malaysia, Philippin ... - TCQT đa phương toàn cầu như tranh chấp về giá cả lương thực, thực phẩm, nông sản giữa 2 nhóm nước phát triển và đang phát triển trong khuôn khổ WTO, ... * Căn cứ vào tính chất chính trị thì TCQT được chia thành: - Tranh chấp chính trị là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện chủ quyền quốc gia đối với biên giới lãnh thổ, dân cư, ... như tranh chấp giữa Pháp và Ba Lan về quốc tịch của nhạc sĩ Chopin (1801-1849), ... - Tranh chấp pháp lý là các tranh chấp liên quan tới việc giải thích, viện dẫn, áp dụng LQT, liên quan tới việc giải thích các sự kiện vi phạm LQT, ... như về việc sử dụng vũ lực của Mĩ để giải thoát các con tin là nhà ngoại giao ở Đại sứ quán Mĩ tại Iran tháng 4/1980, Mĩ thì cho rằng đây là hành vi hợp pháp do họ đã sử dụng các biện pháp hòa bình nhưng không mang lại kết quả còn một số nước lại cho rằng đây là hành vi vi phạm LQT. Ngoài ra dựa vào nội dung thì TCQT có thể được chia thành tranh chấp về kinh tế thương mại, về biên giới lãnh thổ, ... dựa vào chủ thể thì TCQT có thể được chia thành tranh chấp giữa các quốc gia với nhau, tranh chấp giữa các tổ chức quốc tế, ... 1.2. Các phương pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp quốc tế. a. Các phương pháp bạo lực. Không phải ngay từ đầu các TCQT trong lịch sử quan hệ quốc tế đã được giải quyết bằng phương pháp hòa bình. Trước khi HƯ hòa bình Briand-Kellogg (HƯ Pari) 1928 thì trong quan hệ quốc tế việc sử dụng vũ lực hay chiến tranh vẫn được coi là biện pháp hợp pháp để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, là phương tiện tự lực nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia kể cả những lợi ích bất hợp pháp nhưng quốc gia cho rằng phù hợp với LQT, thậm chí luật gia người Anh L.Oppenheim còn cho rằng “nhìn từ góc độ pháp lý thì quyền tiến hành chiến tranh là quyền tự nhiên vốn có của mỗi quốc gia” b. Các phương pháp hòa bình giải quyết TCQT. Trước đây, giải quyết hòa bình các TCQT không được ghi nhận là một nguyên tắc của LQT nhưng nó vẫn được các quốc gia sử dụng trong việc giải quyết các mối quan hệ bang giao như phái sứ thần đàm phán kí các hiệp ước ngừng chiến, trao trả tù binh ... Hiện nay hòa bình giải quyết các TCQT là một nguyên tắc cơ bản của LQT hiện đại, có mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc khác như cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia ... và đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho việc duy trì, bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế. Tuy nhiên để có được điều này cộng đồng quốc tế đã phải trải qua một quá trình lâu dài : 4 - Tại Hội nghị Lahaye năm 1899 và 1907 tại Den Haag, Hà Lan thì phương pháp hòa bình giải quyết TCQT mới được ghi nhận trong 2 CƯ Lahaye 1899, 1907. Tuy nhiên, 2 CƯ này không quy định việc cấm sử dụng chiến tranh vì vậy sử dụng phương pháp hòa bình chưa phải là nghĩa vụ bắt buộc của các quốc gia trong việc giải quyết tranh chấp với nhau. - Đến năm 1928, HƯ hòa bình Briand-Kellogg giữa Mĩ và Pháp (về sau Liên Xô và nhiều nước cũng gia nhập HƯ này) đã phát triển thêm về nội dung của phương pháp hòa bình giải quyết các TCQT và cấm các quốc gia thành viên sử dụng chiến tranh để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã phá vỡ nội dung của HƯ này. - Sau chiến tranh LHQ ra đời với mục đích bảo vệ, giữ gìn hòa bình an ninh thế giới, cũng từ đây giải quyết hòa bình các TCQT đã trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của LQT, là nghĩa vụ bắt buộc đối với các quốc gia (điều 2 HC LHQ). Nguyên tắc này còn được ghi nhận trong Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ, Tuyên bố 1982 tại Manila về hòa bình giải quyết TCQT và các điều ước quốc tế khác như CƯ luật biển 1982, Hiến chương ASEAN, … 2. Đàm phán trực tiếp-biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Điều 33 HC LHQ quy định “các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình” và Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ đã tái khẳng định “mọi quốc gia do vậy sẽ sớm tìm kiếm và chỉ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng đàm phán, điều tra, ...Trong việc tìm kiếm những biện pháp giải quyết tranh chấp các bên đồng ý rằng những biện pháp hòa bình sẽ là thích hợp đối với những hoàn cảnh cụ thể và bản chất của tranh chấp” Như vậy, có thể thấy giải quyết hòa bình các TCQT là nghĩa vụ của mọi quốc gia nhưng LQT không quy định một giải pháp bắt buộc nào cho việc giải quyết TCQT mà chỉ nêu lên một số biện pháp thông dụng nhất gồm đàm phán trực tiếp; giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ 3 (môi giới, trung gian, hòa giải, ủy ban điều tra, ủy ban hòa giải); giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và điều ước khu vực; giải quyết tranh chấp thông qua cơ quan tài phán quốc tế và dành cho các quốc gia quyền lựa chọn. Việc lựa chọn biện pháp này, biện pháp kia hay kết hợp giữa các biện pháp là phụ thuộc vào ý chí của các bên, tính chất của tranh chấp ... tuy nhiên thực tiễn quốc tế đã chỉ ra rằng đàm phán trực tiếp là biện pháp thường được sử dụng đầu tiên trong quá trình giải quyết TCQT và hiệu quả hơn cả bởi những ưu điểm mà các biện pháp khác không có được và điều này cũng tương đối phù hợp với bản chất bình đẳng thỏa thuận của LQT. 5 2.1. Nội dung của biện pháp đàm phán trực tiếp. Phương thức đàm phán là phương thức được thực hiện thông qua việc đàm phán trực tiếp giữa các bên tranh chấp mà không có sự hiện diện của người thứ 3 và theo khoa học LQT thì đàm phán trực tiếp thường được hiểu là sự trao đổi có tính chất đề xuất, thương lượng, bàn bạc về các vấn đề nảy sinh giữa các bên tranh chấp từ đó tìm ra những giải pháp phù hợp để giải quyết tranh chấp. Nhìn chung biện pháp đàm phán trực tiếp có một số nội dung sau: Về chủ thể tham gia: đàm phán nhằm giải quyết TCQT phải được tiến hành bởi các chủ thể của LQT, chủ thể của LQG không thể tham gia đàm phán để giải quyết TCQT. Về luật áp dụng: LQT không quy định cụ thể nhưng mục đích, nội dung, trình tự đàm phán phải phù hợp với các nguyên tắc của LQT, LQT tôn trọng sự thỏa thuận, quyết định của các chủ thể với điều kiện thỏa thuận đó phải phù hợp với tinh thần của LQT. Về tính chất: thì đàm phán trực tiếp là một biện pháp ngoại giao nhằm giải quyết TCQT dựa trên sự tiếp xúc, trao đổi, thương lượng trực tiếp giữa các bên, là sự nhượng bộ có hiểu biết lẫn nhau và có thể là một bên tự rút bỏ yêu sách của mình, công nhận đòi hỏi đúng đắn của bên kia ... nên đòi hỏi các bên tham gia phải có thiện chí, mục đích giải quyết triệt để tranh chấp và thực tiễn cũng đã chứng minh rằng nếu các bên không có nổi thiện chí để ngồi vào bàn đàm phán thì cũng rất khó để có thể giải quyết tranh chấp được bằng các biện pháp khác như trung gian, môi giới hòa giải ... Về cấp độ và hình thức: đàm phán trực tiếp có thể được thực hiện ở các cấp độ khác nhau và dưới các hình thức như song phương, đa phương; chính thức, không chính thức ... - Vấn đề đàm phán song phương hay đa phương phụ thuộc vào số lượng các bên tham gia tranh chấp. Đàm phán song phương là cuộc đàm phán chỉ có sự tham gia của hai bên của TCQT song phương, như đàm giữa Nga và Nhật Bản về đảo Xakhalin sau chiến tranh thế giới II ...Đàm phán đa phương là cuộc đàm phán có sự tham gia của nhiều bên trong các TCQT đa phương và thường được tiến hành trong khuôn khổ các hội nghị quốc tế, như đàm phán liên quan đến vấn đề vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên với sự tham gia của 6 bên bao gồm Triều Tiên, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mĩ, Nga, Nhật Bản, ... - Đàm phán trực tiếp có thể diễn ra ở cấp cao nhất (nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ) như cuộc đàm phán giữa chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào với thủ tướng Nga Vladimir Putin hồi tháng 6/2011 về vấn đề giá khí đốt ... nhưng cũng có thể diễn ra ở các cấp thấp hơn thậm chí là cấp chuyên viên. Nhìn chung tùy vào tính chất, ý nghĩa của tranh chấp mà đàm phán sẽ diền ra ở các cấp độ khác nhau. Về không gian và thời gian: đàm phán trực tiếp có thể tiến hành ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào do các bên quyết định nhằm đảm bảo tính công bằng, thuận lợi trong đàm phán. 6 Về thời điểm áp dụng, kết quả áp dụng: đàm phán trực tiếp có thể được sử dụng độc lập để giải quyết một TCQT (khi đàm phán thành công, tranh chấp được giải quyết) nhưng nó cũng có thể dẫn đến việc áp dụng một biện pháp khác hoặc là kết quả của việc áp dụng một biện pháp hòa bình khác như năm 1974, giữa Anh và Ailen phát sinh tranh chấp về đánh bắt cá, vấn đề được đưa ra Tòa án công lý Quốc tế, trong phán quyết của mình tòa đã yêu cầu các bên phải đàm phán để giải quyết hợp lý tranh chấp ... hay trong vụ tranh chấp kênh Beagle giữa Achentina và Chile, để giải quyết được tranh chấp này các bên đã phải sử dụng rất nhiều biện pháp trong đó có đàm phán trực tiếp (1971-1977: đưa vụ việc ra Tòa án công lý quốc tế; 1977-1978: đàm phán trực tiếp; 1979-1984: giáo hoàng tham gia hòa giải; 1984: 2 bên kí HƯ hòa bình và hữu nghị) ... 2.2. Ưu điểm và hạn chế của biện pháp đàm phán trực tiếp. Một trong những điểm khác biệt căn bản giữa TCQT và tranh chấp có tính quốc tế đó là trong TCQT sự thể hiện ý chí, vai trò của các bên trong tranh chấp có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình giải quyết tranh chấp, trong biện pháp đàm phán trực tiếp thì vai trò này lại được thể hiện một cách rõ nét hơn. Đây cũng chính là cơ sở tạo nên những ưu, nhược điểm của biện pháp này so với các biện pháp khác. a. Ưu điểm. So với các biện pháp khác thì đàm phán trực tiếp có một số ưu điểm như: Thứ nhất, vì đàm phán trực tiếp là sự tiếp xúc trực tiếp giữa các bên trong tranh chấp, không có sự xuất hiện của bên thứ 3 nên các bên có quyền tự do ý chí, không phải chịu sự ràng buộc hay áp lực của bên thứ 3 kể cả cộng đồng quốc tế. Thứ 2, trong biện pháp đàm phán trực tiếp các bên có thể thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách chính xác, độc lập nên khi đạt được thỏa thuận thì các bên sẽ dễ dàng tự nguyện thực hiện hơn so với các biện pháp khác như giải quyết thông qua cơ quan tài phán quốc tế (như tòa án công lý quốc tế, tòa luật biển ...). Ngoài ra thông qua đàm phán các bên không chỉ giải quyết được các tranh chấp mà còn có thể loại bỏ được sự nghi kị lẫn nhau, hiểu biết nhau hơn từ đó góp phần củng cố, thúc đẩy quan hệ hợp tác. Thứ 3, đàm phán trực tiếp chỉ có sự tham gia trực tiếp của các bên nên có thể tiến hành bất cứ lúc nào mà không bị hạn chế về thời gian, không gian như các biện pháp khác chẳng hạn nếu các bên giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án công lý quốc tế thì sẽ phụ thuộc vào thời gian, địa điểm làm việc của tòa ... ưu điểm này sẽ góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí, tạo sự chủ động, thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp. Thứ 4, đàm phán trực tiếp là sự lựa chọn hợp lý, hiệu quả đối với những nước có vị thế quốc tế không cao, khẳ năng tham gia tranh tụng quốc tế yếu ... không thể giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như sử dụng cơ quan tài phán, thông qua tổ chức quốc tế ... 7 b. Nhược điểm. Bên cạnh những ưu điểm trên thì biện pháp đàm phán trực tiếp cũng có một số nhược điểm như: Thứ nhất, biện pháp đàm phán trực tiếp chỉ có sự tham gia của các bên, không có sự tham gia của bên trung lập nên rất khó dung hòa lợi ích của các bên, các bên có thể đưa ra những yêu sách vô lý cản trở quá trình đàm phán, làm cho tranh chấp ngày càng gay gắt. Thứ 2, đàm phán trực tiếp thường chỉ có thể giải quyết được các tranh chấp có tính mở, đơn giản, còn các tranh chấp phức tạp thì biện pháp này tỏ ra không mấy hiệu quả vì các tranh chấp này có thể liên quan đến nhiều bên, nhiều vấn đề đòi hỏi sự phối hợp, điều tra. Thứ 3, đàm phán trực tiếp được tiến hành bởi các bên trên cơ sở tôn trọng LQT nhưng kết quả đàm phán lại không được bảo đảm thực hiện bằng bất kì cơ chế nào (sự vi phạm phán quyết của Tòa án công lý quốc tế bị coi là hành vi vi phạm LQT còn việc vi phạm các nội dung đàm phán chỉ bị cọi là sự thiếu thiện chí, thiếu tôn trọng quy tắc chính trị của quốc gia). Việc tuân thủ kết quả đàm phán phần lớn phụ thuộc vào thiện chí của các bên, tuy nhiên khi một bên là lợi ích quốc gia và một bên là hình ảnh, uy tín quốc tế thì vẫn có nhiều nước lựa chọn lợi ích quốc gia, làm mất đi tính hiệu quả của đàm phán trực tiếp. Thứ 4, trong biện pháp đàm phán trực tiếp thì bên yếu thế hơn về vị thế quốc tê, khẳ năng đàm phán ngoại giao có thể phải chịu thiệt và điều này sẽ không xảy ra nếu giải quyết thông qua bên thứ 3. Thông thường các nước lớn sẽ lợi dụng vị thế quốc tế của mình để buộc bên còn lại chịu sự nhún nhường nhất định như trong vấn đề đàm phán Biển đông giữa Trung Quốc và các nước bao gồm cả Việt Nam. Tuy nhiên cũng cần khẳng định đây là vấn đề liên quan đến nghệ thuật đàm phán chứ không phải là sự vi phạm LQT. 2.3. Thực tiễn áp dụng biện pháp đàm phán trực tiếp. Đàm phán trực tiếp là biện pháp xuất hiện sớm nhất trong lịch sử quan hệ quốc tế, từ trước đến nay đã có rất nhiều TCQT được giải quyết bằng biện pháp này. Tuy nhiên nội dung bài luận này sẽ chỉ trình bày về nội dung của một cuộc đàm phán trực tiếp giải quyết TCQT có liên quan đến Việt Nam để làm rõ hơn những ưu, nhược điểm của biện pháp này đó là cuộc đàm phán kí kết Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 giữa Việt Nam và Pháp. Cuộc đàm phán này có một số nội dung chính sau: * Hoàn cảnh đàm phán: tháng 3/1945 Nhật đảo chính, Pháp mất quyền cai trị Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng đồng minh thì cách mạng Việt Nam đã chớp thời cơ giành chính quyền thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lúc này theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng và quân Anh sẽ tiến vào Việt Nam để giải giáp quân Nhật. Để bảo vệ quyền lợi của mình ở Việt Nam, Pháp đã cấu kết với Anh và kí Hiệp ước Hoa–Pháp nhằm thay chân Trung Hoa Quốc dân đảng ra miền 8 bắc Việt Nam giải giáp quân Nhật. Để tránh phải đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù Ban thường vụ Trung ương Đảng đã chủ trương hòa để tiến, đuổi Tưởng trước đánh Pháp sau. Còn Pháp vì muốn nhanh chóng đưa quân ra Bắc nhằm tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ nên cũng muốn đẩy mạnh quá trình thỏa thuận với phía Việt Nam vì vậy cuộc đàm phán nhằm kí kết Hiệp định sơ bộ đã được khởi động. * Ngày 6/3/1946 Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được kí kết với sự tham gia của phía Việt Nam gồm có chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Trường Tam, Hoàng Minh Giám. Phía Pháp có Jean Sainteny được sự ủy quyền của chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp, tướng Salan, Léon Pignon. Ngoài ra còn có sự tham gia của các quan sát viên phía đồng minh là Mĩ, Anh, Trung Quốc và Louis Caput-đại diện Đảng xã hội Pháp. * Cuộc đàm phán kết thúc vào 16h ngày 6/3/1946 với một số điểm chính, nhưng vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa 2 bên nhất chính là thể chế chính trị của Việt Nam. Việt Nam muốn là một nước “độc lập” còn Pháp chỉ muốn là “tự trị” cuối cùng hai bên đã đi tới kết quả Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng ở trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp. Về sau chủ tịch Hồ Chí Minh còn có cuộc hội đàm với đô đốc Thierry D’Argenlieu, Cao ủy Pháp ở Đông Dương để xúc tiến Hội nghị Đà Lạt và Hội nghị Fontainebleau về chính thức thực hiện hiệp định. Tuy nhiên cuối cùng Pháp vẫn bội ước, dù vậy sau này chúng ta vẫn có được những chiến thắng quan trọng trên mặt trận quân sự góp phần tạo thuận lợi trên bàn đàm phán (chiến thắng Điện Biên Phủ với hiệp định Giơ-ne-vơ 1954; chiến thắng Mậu Thân 1968 với hiệp định Paris 1973), chứng minh về vị trí quan trọng của việc giải quyết xung đột chiến tranh ở Việt Nam thông qua phương pháp hòa bình, đó là cuộc đàm phán trực tiếp giữa hai bên thù địch lẫn nhau. Nhìn chung cuộc đàm phán kí Hiệp định sơ bộ đã thể hiện được sự đúng đắn trong chiến lược của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, đồng thời đó cũng là một biểu hiện rõ nét về những ưu, nhược điểm của biện pháp đàm phán trực tiếp trong tình huống thực tế. Thứ nhất, việc đàm phán kí kết hiệp định sơ bộ là một quyết định đúng đắn, góp phần giải quyết các tranh chấp tồn tại giữa Việt Nam, Pháp, Trung Hoa Quốc dân đảng, tránh việc ta phải cùng lúc đối đầu với nhiều kẻ thù khi chưa có khẳ năng sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác (khi Pháp kí Hiệp ước Hoa Pháp nhằm ra bắc giải giáp quân Nhật phía ta hoàn toàn có quyền phản đối và điều này phù hợp với LQT nhưng nếu làm vậy ta sẽ phải đối mặt cùng lúc với 2 kẻ thù lớn mạnh trong khi tiềm lực quân sự còn yếu). Thứ 2, việc kí kết Hiệp định sơ bộ cũng đã thể hiện được lập trường quan điểm của nước ta với Pháp và cộng đồng quốc tế, đó là Việt Nam luôn mong muốn giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp đàm phán hòa bình. Việc đàm phán, kí kết Hiệp định với Pháp 9 cũng đã phần nào chứng minh sức mạnh và sự tồn tại hợp pháp của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa với cộng đồng quốc tế. Thứ 3, cuộc đàm phán kí kết hiệp định giữa Việt Nam và Pháp cũng đã thể hiện rõ nét những nhược điểm của biện pháp đàm phán trực tiếp đó là sự ảnh hưởng của vị thế các bên đến chất lượng đàm phán. Do tương quan về khẳ năng quân sự, vị thế quốc tế mà phía Việt Nam trong quá trình đàm phán đã phải có những nhân nhượng nhất định về những yêu sách vô lý của Pháp như vấn đề thể chế chính trị giữa độc lập với tự trị hay tự do. Thứ 4, về tinh thần thiện chí của các bên đối với việc thực hiện. Sau khi đàm phán kí kết hiệp định thì phía Việt Nam đã nêu cao tinh thần thiện chí thực hiện, thậm chí chủ tịch Hồ Chí Minh còn kêu gọi nhân dân nghiêm chỉnh thực thi hiệp định Nhưng Pháp thì ngược lại. Sau ngày 06/3/1946 Pháp không ngừng những không ngừng bắn mà còn tăng cường càn quét hòng lập laị chính quyền thực dân. Thậm chí hiệp định còn bị Cao ủy Pháp D'Argenlieu, làm mất giá trị khi tuyên bố thành lập Nam Kỳ quốc tại Sài Gòn vào ngày 2/6 cùng năm, ngay sau khi Hồ Chủ tịch cùng đoàn đại biểu lên đường sang Paris để đàm phán về cách thi hành hiệp định. Với một Nam Kỳ quốc "độc lập" thì cuộc trưng cầu dân ý tại miền Nam như trong hiệp định đã không còn ý nghĩa. Lúc này Pháp chia thành hai xu hướng, Sainteny và Leclerc thì chủ trương thì hành hiệp định nhưng dùng sức ép quân sự buộc ta phải nhân nhượng còn D’Argenlieu lại chủ trương bành trướng quân sự biến thành đảo chính. Khi Leclerc, tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương đề nghị đàm phán thống chế De Gaul đã nói một câu nổi tiéng “Nếu tôi mà đồng ý mấy thứ nhảm nhí này thì đế quốc Pháp đã tiêu vong lâu rồi. Hãy đọc thật kỹ câu chữ trong tuyên bố tháng 3 của Pháp về Đông dương” và cuối cùng Pháp đã bội ước hoàn toàn với lý do Jean Sainteny không có thẩm quyền kí hiệp định và đây cũng mới chỉ là hiệp định sơ bộ. Như vậy ta có thể thấy ngay từ đầu Pháp đã không có thiện chí khi tham gia đàm phán và ý định tôn trọng lâu dài hiệp định này. Trên đây là một số nội dung về biện pháp đàm phán trực tiếp, từ các ưu điểm và hạn chế trên có thể thấy đây là một biện pháp hiệu quả trong giải quyết TCQT. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm nhất định thì biện pháp này cũng có không ít hạn chế. Do vậy để giải quyết hòa bình các TCQT thì các bên cần nâng cao tinh thần thiện chí hợp tác, lựa chọn một hoặc kết hợp nhiều biện pháp tùy thuộc vào tính chất của tranh chấp sao cho dung hòa được lợi ích giữa các bên tránh tình trạng tranh chấp trở nên gay gắt hơn. 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế. NXB.CAND, Hà Nội, 2004 ; 2. Th.s Nguyễn Thị Thu - Th.s Chu Mạnh Hùng (đồng chủ biên), Giáo trình Luật quốc tế. NXB.GD, Hà Nội, 2010 ; 3. TS. Trần Văn Thắng – Th.s Lê Mai Anh (đồng chủ biên), Luật Quốc tế Lý luận và thực tiễn. NXB.GD, Hà Nội, 2001 ; 3. Hiến chương Liên Hợp Quốc; 4. Keo Pheak Kdey, Phương pháp hòa bình trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2002. Người hướng dẫn: PGS.TS Lê Minh Thông ; 5. Viêng Phim Latsachanh, Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo CƯ luật biển 1982, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2011. Người hướng dẫn: TS Nguyễn Toàn Thắng ; 6. http://vi.wikipedia.org/wiki/ Hiệp_định_sơ_bộ_Pháp-Việt_1946 ; 7. http://en.wikipedia.org/wiki/ Beagle_conflict ; 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan