Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích ngôn ngữ lập luận của chủ tịch hồ chí minh ( trên tư liệu cuốn danh n...

Tài liệu Phân tích ngôn ngữ lập luận của chủ tịch hồ chí minh ( trên tư liệu cuốn danh ngôn hồ chí minh

.PDF
168
212
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------- NGUYỄN HOÀNG ANH PHÂN TÍCH NGÔN NGỮ LẬP LUẬN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (TRÊN TƢ LIỆU CUỐN “DANH NGÔN HỒ CHÍ MINH”) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------- NGUYỄN HOÀNG ANH PHÂN TÍCH NGÔN NGỮ LẬP LUẬN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (TRÊN TƢ LIỆU CUỐN “DANH NGÔN HỒ CHÍ MINH”) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 02 40 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Đinh Văn Đức Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: Phân tích ngôn ngữ lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh (trên tư liệu cuốn “Danh ngôn Hồ Chí Minh”) là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn và góp ý của GS.TS. Đinh Văn Đức. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Hà Nội, tháng 11 năm 2014 Tác giả luận văn Nguyễn Hoàng Anh LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngôn ngữ học, phòng Quản lý Khoa học và Sau đại học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian em học tập tại trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới GS. TS Đinh Văn Đức, người đã trực tiếp hướng dẫn em một cách tận tình và tạo những điều kiện tốt nhất để em có thể hoàn thành luận văn của mình. Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cơ quan tôi đang công tác, bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và các học viên đã cùng chia sẻ, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn. Hà Nội, tháng 11 năm 2014 Tác giả luận văn Nguyễn Hoàng Anh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5 1. Lý do lựa chọn đề tài ...............................................................................................5 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................6 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu ...............................................................6 4. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................................7 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................7 6. Bố cục của luận văn ................................................................................................8 NỘI DUNG ................................................................................................................9 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ..............................................................................9 1.1. Lý thuyết về diễn ngôn .........................................................................................9 1.1.1. Một số quan điểm về diễn ngôn và phân tích diễn ngôn ...............................9 1.1.2. “Diễn ngôn” và “văn bản” ...........................................................................10 1.1.3. Mạch lạc của diễn ngôn ...............................................................................13 1.1.3.1. Mạch lạc trong liên kết ..........................................................................14 1.1.3.2. Mạch lạc trong cấu trúc ........................................................................15 1.1.4. Một số vấn đề về “phân tích diễn ngôn phê phán” (Critical Discourse Analysis – CDA) ....................................................................17 1.2. Lý thuyết về lập luận ..........................................................................................18 1.2.1. Khái niệm “lập luận” ...................................................................................18 1.2.2. Cấu trúc của lập luận ...................................................................................20 1.2.2.1. Luận cứ của lập luận .............................................................................20 1.2.2.2. Kết luận của lập luận ............................................................................23 1.2.2.3. Quan hệ lập luận ...................................................................................24 1.2.3. Tính phức hợp của tổ chức lập luận ............................................................29 1.2.4. Lẽ thường - cơ sở của lập luận ....................................................................31 1.2.5. Sự xuất hiện của lập luận trong loại hình diễn ngôn ...................................33 1.3. Tiểu kết...............................................................................................................36 CHƢƠNG 2. CÁC KIỂU LẬP LUẬN TRONG CUỐN “DANH NGÔN HỒ CHÍ MINH” ......................................................................37 1 2.1. Cơ sở phân loại các kiểu lập luận ......................................................................37 2.1.1. Lập luận theo phương thức trực chỉ .............................................................38 2.1.1.1. Tiêu chí nhận diện .................................................................................38 2.1.1.2. Ví dụ ......................................................................................................39 2.1.2. Lập luận theo phương thức hàm ẩn .............................................................40 2.1.2.1. Tiêu chí nhận diện .................................................................................40 2.1.2.2. Ví dụ ......................................................................................................42 2.1.3. Lập luận ngữ cảnh........................................................................................42 2.1.3.1. Tiêu chí nhận diện .................................................................................42 2.1.3.2. Ví dụ ......................................................................................................44 2.2. Các kiểu lập luận được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng trong cuốn “Danh ngôn Hồ Chí Minh” .......................................................................................45 2.2.1. Lập luận theo phương thức trực chỉ .............................................................45 2.2.1.1. Lập luận trực chỉ có mô hình P R đơn giản: ...................................45 2.2.1.2.Lập luận trực chỉ theo mô hình “tam đoạn luận” (tam đoạn luận trực chỉ) 47 2.2.1.3.Lập luận trực chỉ theo mô hình “hình vuông lập luận”.........................49 2.2.1.4.Lập luận trực chỉ theo mô hình “tổng phân hợp” .................................53 2.2.1.5. Lập luận trực chỉ theo mô hình “P R (như P)”...................................55 2.2.1.6. Mạng lập luận trực chỉ ..........................................................................58 2.2.1.7.Nhận xét ..................................................................................................60 2.2.2. Lập luận theo phương thức hàm ẩn .............................................................62 2.2.2.1. Lập luận hàm ẩn theo mô hình P R đơn giản...................................62 2.2.2.2. Lập luận hàm ẩn mô hình “tam đoạn luận” (tam đoạn luận hàm ẩn)......64 2.2.2.3. Lập luận hàm ẩn mô hình “hình vuông lập luận” ................................ 67 2.2.2.4. Lập luận hàm ẩn có mô hình “tổng phân hợp” ....................................68 2.2.2.5. Lập luận hàm ẩn mô hình “P R (như P)” ............................................71 2.2.2.6. Mạng lập luận hàm ẩn...........................................................................72 2.2.2.7. Nhận xét .................................................................................................74 2.2.3. Lập luận ngữ cảnh........................................................................................76 2.2.3.1. Một vài trường hợp................................................................................76 2.2.3.2. Nhận xét .................................................................................................78 2 2.3. Tiểu kết...............................................................................................................79 CHƢƠNG 3. BIỂU HIỆN QUYỀN LỰC TRONG LẬP LUẬN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH .........................................................................83 3.1. Diễn ngôn và quyền lực .....................................................................................83 3.1.1. Khái niệm “quyền lực” ................................................................................83 3.1.2. Biểu hiện của quyền lực trong diễn ngôn ....................................................84 3.2. Biểu hiện quyền lực trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh ............................85 3.2.1. Biểu hiện thông qua phương diện từ vựng: Hệ thống từ xưng hô ...............88 3.2.1.1. Vài nét về hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt....................................88 3.2.1.2. Biểu hiện quyền lực trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua hệ thống từ xưng hô .....................................................................................91 3.2.1.3. Nhận xét .................................................................................................97 3.2.2. Biểu hiện của quyền lực trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua phương diện ngữ pháp: Động từ ngữ vi ..........................................................99 3.2.2.1. Vài nét về động từ ngữ vi trong tiếng Việt ............................................99 3.2.2.2. Biểu hiện quyền lực trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua việc sử dụng động từ ngữ vi ......................................................................101 3.2.2.3. Nhận xét ...............................................................................................104 3.2.3. Biểu hiện quyền lực trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua phép lịch sự ..........................................................................................................107 3.2.3.1. Vài nét về “lịch sự” .............................................................................107 3.2.3.2. Những biểu hiện ngôn ngữ của chiến lược lịch sự âm tính và chiến lược lịch sự dương tính .............................................................................................109 3.2.3.3. Biểu hiện quyền lực trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua việc sử dụng chiến lược lịch sự .................................................................110 3.2.3.4. Nhận xét ...............................................................................................120 3.3. Tiểu kết .............................................................................................................121 KẾT LUẬN ............................................................................................................124 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................127 PHỤ LỤC 3 DANH MỤC BẢNG BIẺU Bảng 2.1: Thống kê các kiểu lập luận được sử dụng trong cuốn Danh ngôn Hồ Chí Minh...........................................................................79 Bảng 3.1: Thống kê các kết hợp của đại từ nhân xưng “tôi” với từ xưng hô ngôi thứ hai biểu hiện vị thế và chiến lược giao tiếp .....98 Bảng 3.2: Thống kê các động từ ngữ vi/ biểu thức ngữ vi biểu hiện vị thế và chiến lược giao tiếp trong cuốn Danh ngôn Hồ Chí Minh ...............106 Bảng 3.3: Thống kê việc sử dụng chiến lược lịch sự biểu hiện vị thế và chiến lược giao tiếp trong cuốn Danh ngôn Hồ Chí Minh ...............120 Bảng 3.4: Thống kê vị thế và chiến lược giao tiếp được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng ở các lập luận trong cuốn Danh ngôn Hồ Chí Minh ................122 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Lập luận là một vấn đề ngày càng giành được sự quan tâm chú ý từ nhiều nhà nghiên cứu. Trước đây, lập luận thuộc về phạm trù của Logic học và Tu từ học. Nhưng ngày nay, lập luận đã trở thành một vấn đề thời sự trong nghiên cứu ngôn ngữ. Cho đến nay, đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lập luận. Tuy nhiên, đa số các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc xem xét mặt cấu trúc bề nổi của lập luận chứ chưa xét đến lập luận với tư cách là một vấn đề thuộc khung phân tích diễn ngôn, với những dấu hiệu đi kèm nằm ngoài văn bản có ảnh hưởng đến việc phân tích lập luận. Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân và Diệp Quang Ban là những tác giả có nghiên cứu sâu về lập luận ở Việt Nam, và cũng đã có đề cập đến lập luận trong diễn ngôn, nhưng chủ yếu kết quả nghiên cứu của các tác giả này là những kết quả về mặt lý thuyết. Thiết nghĩ, cần làm phong phú thêm cho lý thuyết về lập luận bằng việc bổ sung những ngữ liệu thực tế từ việc nghiên cứu ngôn ngữ lập luận của một đối tượng cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh là chính trị gia xuất sắc và cũng có thể coi là bậc thầy về việc sử dụng ngôn từ như một công cụ, vũ khí để đạt tới mục đích chính trị. Một trong những công cụ cụ thể của ngôn ngữ thường xuyên được Người sử dụng trong các bài nói, bài viết của mình chính là lập luận. Hồ Chủ tịch vốn nổi tiếng với những lập luận sắc sảo, đanh thép tuyên bố về chủ quyền, độc lập tự do của dân tộc và những vấn đề khác. Nghiên cứu ngôn ngữ lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một việc làm cần thiết để bổ sung thêm nguồn tư liệu mới cho phân tích lập luận, đồng thời giúp hiểu thêm về phong cách sử dụng ngôn ngữ và tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu đề tài: Phân tích ngôn ngữ lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh (trên tư liệu cuốn “Danh ngôn Hồ Chí Minh”). 5 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn này được tiến hành với mục đích tìm hiểu các đặc trưng trong ngôn ngữ lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt phương thức cấu thành lập luận và biểu hiện quyền lực trong lập luận. Từ đó đưa ra một số nhận xét về việc sử dụng ngôn ngữ trong lập luận của Hồ Chủ tịch. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích như vậy, chúng tôi hướng tới nhiệm vụ cụ thể là tìm ra một số kiểu mô hình thường gặp trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đặc trưng sử dụng của mỗi kiểu mô hình lập luận đó. Dựa trên việc phân tích lập luận, chúng tôi sẽ đưa ra một số nhận xét bước đầu về tác động, ảnh hưởng của việc sử dụng những mô hình lập luận đối với đối tượng tiếp nhận (người đọc, người nghe). Đồng thời, luận văn cũng hướng đến nhiệm vụ tìm hiểu những biểu hiện quyền lực trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua sự phân tích một số đặc điểm trong việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ trong lập luận. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là ngôn ngữ trong các lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 3.2. Phạm vi tƣ liệu Với đối tượng nghiên cứu như vậy, chúng tôi xác định phạm vi tư liệu nghiên cứu là các lập luận được thống kê trong cuốn “Danh ngôn Hồ Chí Minh” (DNHCM) do PGS.TS Thành Duy biên soạn (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2011). Đây là cuốn sách tập hợp những đoạn trích tiêu biểu trong các bài viết, bài phát biểu, thư từ... của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được in trong bộ sách “Hồ Chí Minh toàn tập” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995). Các lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh được chúng tôi thống kê ở đây tồn tại trong diễn ngôn ở cả dạng nói và viết, dưới các hình thức độc thoại, đơn thoại, 6 hội thoại, song các lập luận xuất hiện trong diễn ngôn độc thoại, đơn thoại vẫn chiếm đa số trong khối ngữ liệu. Tuy mẫu lập luận để nghiên cứu trong luận văn này chỉ là những lập luận được thống kê từ cuốn DNHCM nhưng với định hướng nghiên cứu là xem xét lập luận trong khung phân tích diễn ngôn, nên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vẫn tham khảo các văn bản gốc được in trong bộ sách “Hồ Chí Minh toàn tập” để hiểu thêm về ngữ cảnh và các yếu tố chi phối bên ngoài lập luận cần nghiên cứu. 4. Ý nghĩa của đề tài 4.1. Ý nghĩa lý luận Bằng việc phân tích các mẫu lập luận trong cuốn DNHCM, luận văn là sự thể nghiệm việc vận dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn vào nghiên cứu lập luận và phân tích diễn ngôn phê phán vào nghiên cứu vấn đề quyền thế trong lập luận. Thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn đóng góp thêm một cách phân loại lập luận căn cứ vào phương thức cấu thành lập luận. Đồng thời, luận văn cũng góp phần làm phong phú thêm lý thuyết về lập luận bằng việc xem xét các trường hợp thực tế của lập luận trong diễn ngôn. 4.2. Ý nghĩa thực tiễn Ý nghĩa thực tiễn của luận văn được thể hiện ở chỗ: Từ việc thống kê và phân tích lập luận trong nhiều diễn ngôn đa dạng về hình thức, có tính chất và mục đích sử dụng khác nhau của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luận văn đưa ra những nhận xét về đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trong lập luận của Hồ Chủ tịch, đóng góp thêm vào việc tìm hiểu phong cách sử dụng ngôn ngữ trong lập luận của Bác. Đồng thời, từ việc tìm ra những đặc điểm trong việc sử dụng ngôn ngữ, luận văn giúp người đọc có được cái nhìn phần nào về những tư tưởng về chính trị và văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền tải thông qua ngôn ngữ của Người. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích diễn ngôn và phương pháp phân tích văn bản. Đây là hai phương pháp được vận dụng trong quá trình phân tích lập luận, xử lý những mẫu lập luận nằm ở đơn vị ngôn ngữ bậc câu và trên câu. 7 Phương pháp phân tích diễn ngôn còn đặc biệt hữu ích đối với những mẫu lập luận không đầy đủ thành phần luận cứ/ kết luận. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các thủ pháp định tính và định lượng, tiến hành theo các thao tác sau: - Thống kê, phân loại: Thao tác này được vận dụng trong quá trình khảo sát tư liệu, là cơ sở để rút ra những đánh giá, nhận xét khoa học về đối tượng. - So sánh, đối chiếu: Là thao tác được sử dụng để rút ra những đặc điểm chung của cả nhóm lớn cũng như đặc điểm riêng của từng tiểu loại lập luận. - Phân tích, tổng hợp: Từ kết quả đã thu được sau thao tác thống kê và so sánh, đối chiếu, tiến hành phân tích, tổng hợp những đặc điểm của việc sử dụng ngôn ngữ trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận - trình bày các vấn đề lý luận về diễn ngôn và lập luận. Chương 2: Các kiểu lập luận được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng (trên tư liệu cuốn “DNHCM”). Chương này sẽ trình bày kết quả thống kê, miêu tả và phân tích các mẫu lập luận theo từng phương thức cấu thành cụ thể. Chương 3: Biểu hiện quyền lực trong lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chương này trình bày kết quả nghiên cứu và phân tích các biểu hiện của quyền lực trong lập luận của Hồ Chủ tịch thông qua các phương tiện ngôn ngữ bao gồm từ vựng, ngữ pháp và phép lịch sự. Ngoài ra, luận văn còn có phần tài liệu tham khảo, các bảng thống kê và phụ lục kèm theo. 8 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lý thuyết về diễn ngôn 1.1.1. Một số quan điểm về diễn ngôn và phân tích diễn ngôn Nghiên cứu diễn ngôn có thể quy về hai trường phái chính là trường phái cấu trúc luận (hay còn gọi là hệ cấu trúc luận (hình thức luận) và trường phái chức năng luận (hay còn gọi là hệ chức năng luận). Theo đó, hệ cấu trúc luận thường coi diễn ngôn như một loại đơn vị nào đó, mà trong đó có thể có các đơn vị thành phần nhỏ hơn, và mạng lưới quan hệ giữa các đơn vị này. Trong khi đó, hệ chức năng luận lại xem xét vấn đề mang tính tổng thể hơn: ngôn ngữ hành chức, ngôn ngữ hoạt động, tương tác xã hội, hay việc sử dụng ngôn ngữ. Phân tích diễn ngôn theo đường hướng cấu trúc luận tất yếu sẽ dẫn đến việc xem xét diễn ngôn như một đơn vị trên câu. Paxpelốp viết về “Chỉnh thể cú pháp phức hợp”, O.C.Akhmanova đề cập đến cái gọi là “chỉnh thể trên câu”, Harriz (1952) là người đầu tiên nói về phương pháp “phân tích diễn ngôn – Discourse analysis” áp dụng cho các chuỗi câu liên kết gọi là Discourse (Diễn ngôn). Ông coi phân tích diễn ngôn như là một hệ phương pháp hình thức phân tích văn bản thành các đơn vị nhỏ hơn. Chẳng hạn như một cuộc hội thoại sẽ bao gồm các lượt (turn), hành động nói và sự kiện ngôn ngữ. Harriz đối lập giữa cái tập hợp câu là diễn ngôn với cái gọi là một tập hợp ngẫu nhiên không có tính mạch lạc. (Theo Nguyễn Hòa [12, tr. 23]) Hệ chức năng luận có mục đích nghiên cứu là ngôn ngữ hành chức. Do đó, các nhà ngôn ngữ học thuộc hệ chức năng luận khi đề cập đến diễn ngôn và phân tích diễn ngôn đều gắn liền nó với ngôn ngữ hành chức. Theo quan điểm của Fasold (1990) thì: “Nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu mọi khía cạnh sử dụng của ngôn ngữ”. Còn Brown và Yule trong cuốn “Discourse analysis” (Phân tích diễn ngôn) thì cho rằng: “Phân tích diễn ngôn nhất thiết là sự phân tích ngôn ngữ hành chức”. 9 Cũng theo Nguyễn Hòa, cách định nghĩa diễn ngôn như là việc sử dụng ngôn ngữ cũng nhất quán với hệ chức năng luận, theo đó, ngôn ngữ được nhìn nhận như là một hệ thống, ở đó các chức năng được hiện thực hóa. Việc nhìn nhận diễn ngôn theo hệ chức năng luận đã giả thiết có một mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ và ngữ cảnh. Như vậy, việc phân tích diễn ngôn khó có thể tách khỏi việc phân tích ngữ cảnh hay mối quan hệ giữa diễn ngôn và ngữ cảnh. Cuối cùng, tác giả cho rằng, cần thiết phải kết hợp giữa cấu trúc luận và chức năng luận trong phân tích diễn ngôn. Với hệ cấu trúc luận, nhiệm vụ của phân tích diễn ngôn sẽ là xác định và phân tích các thành tố cấu thành diễn ngôn (phát ngôn), xác định vị trí của các yếu tố cấu thành, và xem xét các cách thức tổ chức của diễn ngôn cho phù hợp với mục đích giao tiếp. Với hệ chức năng luận, phân tích diễn ngôn có nhiệm vụ xác định và phân tích các hành động nói do người nói thực hiện nhằm thực hiện các mục đích nhất định cũng như hiểu các ý nghĩa xã hội, văn hóa hay cá nhân. 1.1.2. “Diễn ngôn” và “văn bản” “Diễn ngôn” và “văn bản” là hai khái niệm cơ bản trong lý luận phân tích diễn ngôn. Nhiều tác giả sử dụng “diễn ngôn” cũng như là “văn bản”. Văn bản cũng có khi được hiểu theo hai phương diện: sản phẩm và quá trình. Với tư cách là sản phẩm, văn bản là một thực thể có thể ghi nhận lại được, và có một cấu trúc nhất định. Với tư cách là một quá trình, văn bản là sự lựa chọn nghĩa liên tục, một quá trình vận động qua các ngữ vực, trong đó, mỗi loạt lựa chọn lại có thể tạo ra môi trường cho các loạt lựa chọn khác. Theo Diệp Quang Ban [2, tr. 212], tên gọi “diễn ngôn” và “văn bản” đã được sử dụng qua ba giai đoạn và với các cách sử dụng khác nhau tùy theo đặc trưng của từng giai đoạn: - Giai đoạn đầu, việc nghiên cứu tập trung vào sự kiện nói bằng chữ viết. Do đó, tên gọi “văn bản” được dùng để chỉ chung những sự kiện nói bằng chữ viết và sự kiện nói miệng có mạch lạc và liên kết. - Giai đoạn hai, ngôn ngữ nói được quan tâm nhiều hơn, tạo thế cân bằng với ngôn ngữ viết. Vì vậy, hai thuật ngữ “diễn ngôn” và “văn bản” được sử dụng song 10 song. Tuy nhiên, có xu hướng dùng “văn bản” để chỉ sự kiện nói bằng chữ viết (lời chữ), còn “diễn ngôn” để chỉ sự kiện nói bằng miệng (lời âm). - Giai đoạn ba, do nảy sinh khó khăn trong việc xác định sự khác biệt rạch ròi giữa dạng nói và dạng viết nên đến giai đoạn này, “diễn ngôn” được dùng như “văn bản” ở giai đoạn đầu, tức dùng để chỉ chung cả sự kiện nói miệng lẫn sự kiện nói bằng chữ viết. Các nhà nghiên cứu dựa theo quan điểm khác nhau mà sử dụng thuật ngữ “diễn ngôn” hay “văn bản”. Halliday và Hasan theo quan điểm của giai đoạn đầu, theo đó hai tác giả này cho rằng “văn bản có thể là bất kỳ đoạn văn nào, viết hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một chỉnh thể thống nhất hoàn chỉnh.”… “Văn bản là một đơn vị ngôn ngữ hành chức”, và “Văn bản là một đơn vị ngữ nghĩa – semantic unit”. Tác giả Hồ Lê lại theo quan điểm của giai đoạn hai. Ông nêu khái niệm “văn bản là chỉnh thể của một sản phẩm – viết để diễn đạt trọn vẹn một ý kiến về một vấn đề hoặc một hệ thống vấn đề. Ngôn bản là chỉnh thể của một sản phẩm – nói để diễn đạt trọn vẹn ý kiến về một vấn đề hoặc hệ thống vấn đề.” Xu hướng chung hiện nay là phân biệt giữa “diễn ngôn” và “văn bản”. Crystal (1992) cho rằng: “Diễn ngôn là một chuỗi ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) liên tục lớn hơn câu, thường tạo nên một đơn vị có mạch lạc, như bài truyền giáo, một lý lẽ, một câu chuyện tiếu lâm hay chuyện kể”, và “Văn bản là một đoạn diễn ngôn nói hay viết, hoặc thể hiện ở dạng kí hiệu sử dụng tự nhiên, được xác định để phân tích. Đây thường là một đơn vị ngôn ngữ có một chức năng giao tiếp có thể xác định được như một cuộc hội thoại hay tấm áp phích.” Cook (1989) đã coi diễn ngôn như là “các chuỗi ngôn ngữ được cảm nhận như có ý nghĩa, thống nhất và có mục đích” và văn bản như là “một chuỗi ngôn ngữ được hiểu theo một cách hình thức, nằm ngoài ngữ cảnh”. Brown & Yule (1983) thì quan niệm “văn bản là sự thể hiện ngôn từ của một hành động giao tiếp”, ở chỗ khác hai tác giả lại cho rằng “văn bản là sự thể hiện của diễn ngôn”. 11 Widdowson (1984) cũng có cùng quan điểm giống Brown & Yule trong các phân biệt giữa diễn ngôn và văn bản. Theo tác giả, “diễn ngôn là một quá trình giao tiếp. Kết quả về mặt tình huống của quá trình này là sự thay đổi trong sự thể: thông tin được chuyển tải, các ý định được làm rõ, và sản phẩm của quá trình này là Văn bản.” Với các quan điểm về diễn ngôn và văn bản như vậy, Nguyễn Hòa [12, tr. 32] đã nhận xét: “Trên một phương diện nhất định, diễn ngôn hay văn bản có thể coi là hai mặt của một sự vật, tuy ngoại diên của diễn ngôn rộng hơn so với văn bản, bởi lẽ với tư cách là một quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp, nó còn bao hàm cả các yếu tố ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh tình huống, yếu tố dụng học, và tác động của các chiến lược văn hóa ở người sử dụng ngôn ngữ.” Theo đó, Nguyễn Hòa phân biệt “văn bản” và “diễn ngôn” như sau: “Văn bản như là sản phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp nói và viết trong một hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể.” “Diễn ngôn là sự kiện hay quá trình giao tiếp hoàn chỉnh thống nhất có mục đích không có giới hạn được sử dụng trong các hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể.” Như vậy, với tư cách là “một sự kiện giao tiếp hoàn chỉnh”, diễn ngôn “phải có tính chủ đề từ chủ đề bộ phận đến chủ đề chung, có mạch lạc”. Để tạo nên mạch lạc, diễn ngôn không những phải thể hiện sự liên kết trên nhiều phương diện mà còn là sự tổ chức một cách hợp lý của các yếu tố quan yếu (có giá trị giao tiếp) tuân theo các quy tắc cần và đủ. [12, tr. 33] Tuy phân biệt khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản” nhưng Nguyễn Hòa cũng nhận định rằng, trên thực tế, rất khó có thể phân biệt rạch ròi giữa diễn ngôn và văn bản; bởi lẽ trong văn bản sẽ có cái diễn ngôn, trong diễn ngôn sẽ có cái văn bản. Đây không phải là hai thực thể tách biệt mà chỉ là một thực thể biểu hiện của ngôn ngữ hành chức trong bối cảnh giao tiếp xã hội. Sự phân biệt “diễn ngôn” và “văn bản” như trên dẫn tới sự phân biệt giữa “phân tích diễn ngôn” và phân tích văn bản”. Theo Nunan, phân tích văn bản xem xét các đặc điểm hình thức của văn bản tách rời ngữ cảnh ngoài ngôn ngữ; còn phân tích diễn ngôn sẽ quan tâm tới mặt chức năng. Tuy vậy, cũng như “văn bản” và 12 “diễn ngôn” khó có sự phân định rạch ròi, “phân tích diễn ngôn” và “phân tích văn bản” cũng không phải là hai bộ môn khác biệt, mà chỉ là hai mặt của phân tích ngôn ngữ hành chức trong hoàn cảnh giao tiếp xã hội. Và Nguyễn Hòa cho rằng, với ý nghĩa như vậy, các khía cạnh của văn bản sẽ bao gồm các yếu tố như liên kết, cấu trúc đề - thuyết, cấu trúc thông tin, kiểu loại diễn ngôn, cấu trúc diễn ngôn. Còn các khía cạnh của diễn ngôn sẽ bao gồm mạch lạc, các hành động nói, sử dụng kiến thức nền trong quá trình sản sinh và hiểu diễn ngôn, cách thức xử lý từ trên xuống, cách thức xử lý từ dưới lên, xử lý tương tác và thương lượng nghĩa. Và theo cách phân loại các khía cạnh diễn ngôn như vậy, vấn đề lập luận mà luận văn này đề cập tới cũng là một trong những vấn đề thuộc mạch lạc, nằm trong khung phân tích diễn ngôn. 1.1.3. Mạch lạc của diễn ngôn Mạch lạc là một vấn đề cốt yếu của lý luận phân tích diễn ngôn. Vai trò của mạch lạc đối với diễn ngôn và văn bản đã được Nguyễn Thiện Giáp nhận xét: “Cái quyết định để một sản phẩm ngôn ngữ trở thành một diễn ngôn hay văn bản chính là mạch lạc”. Diệp Quang Ban [2, tr. 297] đã đưa ra một định nghĩa về mạch lạc trong phạm vi trường học như sau: “Mạch lạc là sự nối kết có tính chất hợp lý về mặt nghĩa và về mặt chức năng, được trình bày trong quá trình triển khai một văn bản (như một truyện kể, một cuộc thoại, một bài nói hay bài viết…), nhằm tạo ra những sự kiện nối kết với nhau hơn là sự liên kết với câu”. Mạch lạc được tạo ra không chỉ bởi trên căn cứ ngôn ngữ mà còn trên cả những căn cứ ngoài ngôn ngữ. Nó có căn cứ ngôn ngữ khi được tạo ra trên sự phát triển mệnh đề, liên kết, hay tổ chức được khuôn mẫu; song khi thông tin ngữ cảnh được đưa vào, hoặc các nguyên tắc hiểu nội bộ và loại suy được áp dụng để hiểu nội dung diễn ngôn thì mạch lạc lại mang tính văn hóa – xã hội nằm ngoài ngôn ngữ. Theo tác giả Nguyễn Hòa [12] thì mạch lạc trong diễn ngôn được tạo bởi 2 khía cạnh chính: mạch lạc trong liên kết và mạch lạc trong cấu trúc. 13 1.1.3.1. Mạch lạc trong liên kết Đã từng có thời người ta cho rằng tính liên kết mới là đặc trưng cơ bản của diễn ngôn, là yếu tố phân biệt giữa một chuỗi các phát ngôn ngẫu nhiên với cái gọi là diễn ngôn. Tuy nhiên đến những năm gần đây, sự phân biệt giữa mạch lạc (coherence) và liên kết (cohesion) đã được thừa nhận. Nunan (1993) đã định nghĩa mạch lạc như sau: “Mạch lạc là cái mức độ phạm vi qua đó diễn ngôn được nhận biết là có mắc vào nhau chứ không phải là một tập hợp các câu hay phát ngôn không có quan hệ với nhau”. Và liên kết là “các mối liên hệ hình thức thể hiện các mối quan hệ giữa các mệnh đề và giữa các câu trong diễn ngôn”. (Dẫn theo Nguyễn Hòa [12, tr. 49]) Theo quan điểm của Nguyễn Hòa, không nên cho rằng mạch lạc là các phương tiện liên kết hay là nội dung của văn bản. Liên kết chỉ là phương tiện để tạo mạch lạc. Trên thực tế, hoàn toàn có các văn bản không thể hiện tính liên kết, song vẫn được coi là văn bản do có mạch lạc. Ví dụ dưới đây cho ta thấy rõ điều đó: A: Cậu làm bài hôm qua cô giao chưa? B: Tối qua nhà tớ mất điện. Câu hỏi của A thường dẫn tới câu trả lời ở dạng khẳng định hay phủ định (Ở đây là “Rồi” hay “Chưa”). Tuy nhiên, câu trả lời của B trong ví dụ trên lại là một câu trần thuật có vẻ không liên quan gì đến câu hỏi. Thực chất, câu trả lời của B đã chứa một hàm ngôn là “Tối qua nhà tớ mất điện nên tớ chưa làm bài tập”. Người nghe hoàn toàn có thể nhận biết được ngay mối quan hệ nguyên nhân ở đây, và đối thoại giữa A và B ở ví dụ trên hoàn toàn có mạch lạc. Theo Nguyễn Hòa thì đây chính là “mạch lạc theo hành động nói”. Theo Diệp Quang Ban, “mạch lạc là „sợi dây nối‟ nối các yếu tố mang nghĩa trong văn bản, kể cả bên trong một câu, nối từ ngữ trong văn bản với tình huống hữu quan, và gắn văn bản với cách dùng văn bản. Liên kết là một bộ phận trong hệ thống của một ngôn ngữ với chức năng nối nghĩa của câu với câu trong văn bản, theo những cấu hình nghĩa xác định”. Tác giả đã hệ thống hóa mối quan hệ giữa liên kết và mạch lạc như sau: 14 LIÊN KẾT MẠCH LẠC Mạch lạc trong triển khai mệnh đề PHI VĂN BẢN Mạch lạc theo nguyên tắc cộng tác Mạch lạc trong chức năng VĂN BẢN Ông cũng khái quát sự hiện thực hóa của mạch lạc lại thành 3 phạm vi: - Mạch lạc trong quan hệ nghĩa – logic giữa các từ ngữ trong văn bản. - Mạch lạc trong quan hệ giữa từ ngữ trong văn bản với cái được nói tới trong tình huống từ bên ngoài. - Mạch lạc trong quan hệ thích hợp giữa các hành động nói. 1.1.3.2. Mạch lạc trong cấu trúc Mạch lạc không những được thể hiện trong liên kết mà còn thể hiện trong cấu trúc của diễn ngôn, hay cách thức tổ chức diễn ngôn. Các nhà phân tích diễn ngôn đều thừa nhận cấu trúc hay còn gọi là cách thức tổ chức các yếu tố quan yếu có một vai trò quan trọng trong việc tạo nên mạch lạc. Cấu trúc diễn ngôn bao hàm sự hiện diện của các yếu tố phát triển nội dung. Và nó ngày càng được quan tâm trong lý thuyết phân tích diễn ngôn. Moskaskja (1981) đã nhận xét: “Thật vậy, trước hết nó (cấu trúc) được sử dụng trong lý thuyết nói chung về văn bản, lý thuyết này đã đưa ra dấu hiệu tính định hình kết cấu như là một trong những tiêu chí khu biệt văn bản với những chuỗi câu ngẫu nhiên không tạo thành văn bản: trong khi văn bản có một kết cấu nhất định thì chuỗi câu ngẫu nhiên không được định hình về mặt kết cấu.” (Dẫn theo Nguyễn Hòa [12, tr. 55]) Cấu trúc diễn ngôn bao gồm hai khía cạnh có liên quan chặt chẽ với nhau và bổ sung cho nhau, đó là cách thức tổ chức và mạch lạc. Đỗ Hữu Châu đã nhận xét 15 rằng sự sắp xếp ý trong văn bản còn được gọi là bố cục hay kết cấu theo một trật tự nhất định. Cần hiểu trình tự kết cấu trước hết như là sự thể hiện các quan hệ nội dung trong văn bản. Tác giả cũng cho rằng: “kết cấu còn là một nghệ thuật trình bày các yếu tố nội dung mang tính chủ quan của người viết. Trong kết cấu, người viết có thể thay đổi trật tự…” Nhiều nhà nghiên cứu diễn ngôn đều đưa ra các thuật ngữ khác nhau để nói về cấu trúc của văn bản. Halliday và Hassan (1976) sử dụng thuật ngữ “cấu trúc vĩ mô – macro structure” và cho rằng, nhờ các cấu trúc vĩ mô này mà các văn bản mới là văn bản. Van Dijk (1977) thì đưa ra khái niệm tương tự là “siêu cấu trúc sơ đồ schematic superstructures” để nói về “dạng thức chung của diễn ngôn và các quy ước mà theo đó người ta có thể tạo lập ra một loại văn bản nào đó, và nhờ vậy mà người đọc có được sự chỉ dẫn khi xử lý văn bản”. Rosalin Horowitz (1977) thì sử dụng thuật ngữ “cấu trúc hùng biện”, theo bà, đây là các khuôn mẫu tổ chức bậc cao về trật tự thông tin trong văn bản. Một số tác giả khác như Grosz, Sidner (1986), Mann và Thompson (1987) đã tìm cách xác lập mối quan hệ giữa cấu trúc của văn bản và các mục đích hay ý định của người nói trong quá trình giao tiếp, và đưa ra cách thức phân tích cấu trúc trên cơ sở các mối quan hệ giữa các bộ phận của văn bản. (Dẫn theo Nguyễn Hòa [12, tr. 56]). Theo Nguyễn Hòa [12, tr. 58] thì về cơ bản, các nhà nghiên cứu đều thừa nhận là các loại văn bản, mặc dù nhìn có vẻ “hỗn độn”, đều có một cấu trúc riêng của mình. Đây chính là cách thức tổ chức văn bản, và có thể mô hình hóa chúng lại ở các mức độ khác nhau từ “nghiêm ngặt” đến mức độ “thường xuyên” và cuối cùng là “tự do”. Shaughnessy (1977) đã đưa ra 5 kiểu tổ chức văn bản theo các mục đích tương ứng như sau: a. Sự kiện xảy ra (tổ chức theo thời gian, tường thuật). b. Đây là diện mạo, âm thanh, mùi vị của một sự vật nào đó (miêu tả). c. Cái này giống/ khác cái khác (so sánh, đối lập). d. Cái này (có thể) là nguyên nhân của cái kia (nguyên nhân và đánh giá). e. Đây là việc cần phải thực hiện (giải quyết vấn đề bao gồm kết quả, nguyên nhân, giải pháp có thể có, đánh giá giải pháp, tiên đoán phản ứng phụ, gợi ý một hay một loạt các yếu tố làm giải pháp tốt nhất). 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan