TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH: KINH DOANH QUỐC TẾ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH MÔ HÌNH SẢN XUẤT KINH
DOANH TẠI LÀNG NGHỀ NINH HIỆP
Họ tên sinh viên:
Nguyễn Hải Thọ
Lớp: Nhật 2, Quản Trị
Kinh Doanh
Khóa: 45
Giáo viên hướng dẫn:
Ts. Nguyễn Văn Minh
Hà Nội, 21 tháng 5 năm 2010
1
Đề tài: PHÂN TÍCH MÔ HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI LÀNG
NGHỀ NINH HIỆP
2
Danh mục hình vẽ và bảng biểu:
Hình số 1: SƠ ĐỒ GIẢN LƯỢC VỀ MÔ HÌNH SẢN XUẤT, KINH
DOANH CỦA LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
Hình 2: PHÂN TÍCH MÔ HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
LÀNG NGHỀ NINH HIỆP THEO HƯỚNG QUẢN TRỊ HỌC VÀ XÃ
HỘI HỌC
Hình 3: SƠ ĐỒ ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN NGHỀ Y VÀ NGHỀ DỆT
TẠI NINH HIỆP
Hình 4: QUY TRÌNH DỆT VẢI CỦA NGƯỜI NINH HIỆP XƯA
Hình 5: CHU KÌ SẢN PHẨM NGHỀ DA CỦA LÀNG NÀNH
Hình 6: SỰ HÌNH THÀNH NGHỀ THUỐC TẠI NINH HIỆP
Hình 7: SỰ HÌNH THÀNH NGHỀ BUÔN VẢI TẠI NINH HIỆP
Hình 8: CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ TẠI LÀNG NGHỀ NINH HIỆP TẠI
THỜI ĐIỂM 3/2010 TÍNH THEO SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG THAM GIA
NGÀNH
Hình 9: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ CHUYỂN DỊCH SANG
DỊCH VỤ VÀ KINH DOANH KHÁC TẠI NINH HIỆP
Hình 10: BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ PHÂN THEO XÓM TẠI NINH HIỆP
Hình 11: MÔ HÌNH SẢN XUẤT, KINH DOANH HÀNG MAY MẶC
TẠI NINH HIỆP
Hình 12: MÔ HÌNH KINH DOANH HÀNG MAY MẶC THEO MẠNG
LƯỚI TẠI NINH HIỆP
Hình 13: MÔ HÌNH SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN VÀ KINH DOANH
THUỐC ĐÔNG Y
Bảng biểu 1: THỐNG KÊ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỊCH
VỤ TẠI NINH HIỆP
Hình 14: NỀN VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI NINH HIỆP
Hình 15: CHIẾN LƯỢC DẬY NGHỀ THỜI TRANG TẠI NINH HIỆP
3
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Làng nghề thủ công là một phần không thể thiếu của làng xã nông
nghiệp cổ truyền, vì nó phản ánh đầy đủ thuộc tính tự cung, tự cấp và tính
khép kín cố hữu của làng xã nông nghiệp. Mặt khác, làng nghề lại biểu hiện
tính năng động, sáng tạo của người nông dân trong quá trình thích ứng với
điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội nhất định. Ban đầu, các sản phẩm của nghề thủ
công khi sản xuất ra là để đáp ứng nhu cầu thường ngày của từng gia đình, sau
đó mới trao đổi trong cộng đồng làng xã. Sau này chuyên môn hóa hình thành
lên các làng nghề, phường hội nghề và việc trao đổi mở rộng hơn. Ngày nay,
làng nghề Việt Nam đang đứng trước các vấn đề sau:
1) Nhiều làng nghề đã biến mất do không còn nhu cầu sử dụng lẫn thị
trường.
2) Nhiều làng nghề đáng đứng trước nguy cơ mai một bởi thị trường co
lại và nhu cầu ít ỏi của một bộ phận người tiêu dùng.
3) Các vấn đề tiêu cực ở làng nghề như ô nhiễm môi trường, xử lý vấn
đề việc làm cho lao động,…
Từ năm 1997, đã có một đoàn chuyên gia xã hội học tới Ninh Hiệp dưới
sự tài trợ của tập đoàn Toyota Nhật Bản để nghiên cứu về Ninh Hiệp như một
làng nghề điển hình của việc phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam. Sau
chuyến khảo sát, đoàn xã hội học này có xuất bản cuốn “Ninh Hiệp truyền
thống và phát triển” là một nghiên cứu về sự phát triển của làng và đưa ra
những kiến nghị để sự phát triển đó bền vững.
Sinh ra và lớn lên ở Ninh Hiệp, từ nhỏ được quan sát sự thay đổi của quê
hương cũng như sự phát triển của nền kinh tế theo mô hình hộ gia đình. Tác
giả tin rằng mình có lợi thế trong việc tiến hành nghiên cứu đề tài “Phân tích
mô hình sản xuất kinh doanh tại làng nghề Ninh Hiệp” góp nhỏ bé vào những
nghiên cứu trước đó về mô hình làng nghề tại Việt Nam.
4
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu:
Với đề tài khóa luận “Phân tích mô hình sản xuất kinh doanh tại làng
nghề Ninh Hiệp” tác giả mong muốn có thể đạt được 2 mục tiêu nghiên cứu
như sau.
- Thứ nhất, sau bài nghiên cứu, chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quát về mô
hình làng nghề Ninh Hiệp, những yếu tố giúp nó thành công, những mặt còn
yếu kém và nguyên nhân của chúng.
- Thứ hai, đưa ra được những kinh nghiệm bằng việc nghiên cứu chính
nó và những làng nghề thành công khác trên thế giới. Từ những kinh nghiệm
này em sẽ đưa ra các đề xuất để phát triển làng nghề Ninh Hiệp một cách bền
vững và mạnh mẽ hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Thu thập thông tin thứ cấp (thu thập và nghiên cứu tài liệu có sẵn):
Thông qua các tài liệu văn bản, sách báo, tạp chí, sổ sách, báo cáo, website và
tư liệu do địa phương cung cấp có liên quan đến đề tài.
+ Thu thập thông tin sơ cấp (khảo sát điều tra): Thông qua việc tham
quan, khảo sát điều tra, phỏng vấn trực tiếp ở làng nghề Ninh Hiệp. Đối tượng
được điều tra là các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất kinh doanh ở làng nghề.
- Phương pháp thống kê: là phương pháp tổng hợp các số liệu của các
hiện tượng để tiến hành phân tích, so sánh nhằm làm rõ những vấn đề thuộc
bản chất của hiện tượng nghiên cứu. Qua các số liệu thống kê, ta có thể thấy
được tính quy luật của các hiện tượng và rút ra được những nhận xét và kết
luận đúng đắn.
- Phương pháp chuyên khảo (nghiên cứu điển hình): tiến hành nghiên
cứu một số hiện tượng điển hình (làng nghề, hộ gia đình, doanh nghiệp, người
lao động,...) để rút ra những kết luận có tính chất chung cho các hiện tượng
thuộc đối tượng nghiên cứu.
5
- Phương pháp chuyên gia: là phương pháp sử dụng ý kiến tư vấn của
những nhà khoa học, cán bộ quản lý, nhà kinh doanh, người lao động có tri
thức, kinh nghiệm về một vấn đề kinh tế, tổ chức quản lý và kỹ thuật sản xuất
kinh doanh. Phương pháp này được thực hiện trong quá trình nghiên cứu Luận
văn bằng hai cách: phỏng vấn trực tiếp và xin ý kiến nhận xét.
- Phương pháp so sánh: dùng để so sánh các yếu tố định lượng hoặc
định tính. So sánh phân tích các yếu tố, chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã
được lượng hóa có cùng nội dung, tính chất tương tự để xác định mức độ biến
động của các chỉ tiêu.
4. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài được nghiên cứu với một mong mỏi là những kết quả của nó sẽ
được đánh giá cao theo nhiều nghĩa. Đặc biệt là nó phải có tính ứng dụng,
hoặc ít nhất là gợi mở cho các đối tượng quan tâm tới việc phát triển, khôi
phục làng nghề, xóa đói giảm nghèo nông thôn,… như là một tài liệu tham
khảo. Mô hình làng nghề Ninh Hiệp là một bằng chứng, một ví dụ điển hình
sống động cho một làng quê đi lên từ nông nghiệp trở thành một làng quê sầm
uất thường được gọi là “phố trong làng” nhờ việc phát triển các nghề truyền
thống của mình theo hướng đẩy mạnh thương mại hóa. Hi vọng, đề tài sẽ phân
tích được điều đó, và làm thỏa mãn những ai đã bỏ công ra để đọc nó.
5. Kết cấu nội dung đề tài:
Đề tài sẽ đi qua 3 phần giống như chuẩn mực bình thường để trình bày
một khóa luận tốt nghiệp.
- Phần chương I, sẽ viết về phần lý luận, những vấn đề cơ bản có tính
học thuật mà đề tài cần giải quyết như: Khái niệm làng nghề và mô hình làng
nghề; ý nghĩa của làng nghề đối với kinh tế và xã hội, phân loại các mô hình
làng nghề,...
- Phần chương II, trên cơ sở nền tảng lý thuyết trên sẽ phân tích, nghiên
cứu trong một trường hợp cụ thể là làng nghề Ninh Hiệp; phân tích mô hình
làng nghề và điểm mạnh, điểm yếu của nó.
6
- Phần chương III, sẽ nghiên cứu một số làng nghề điển hình khác và từ
đó có được những đề xuất về việc thúc đẩy phát triển làng nghề.
7
Chương I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ VÀ MÔ
HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
1. Khái niệm về làng nghề và mô hình sản xuất kinh doanh của làng nghề
1.1 Khái niệm làng nghề:
Làng nghề Việt Nam, làng nghề thủ công, làng nghề truyền thống, hoặc
làng nghề cổ truyền..., thường được gọi ngắn gọn là làng nghề, là những làng
mà tại đó hầu hết dân cư tập trung vào làm một nghề duy nhất nào đó; nghề
của họ làm thường có tính chuyên sâu cao và mang lại nguồn thu nhập cho
dân làng1.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể tham khảo thêm một số các định nghĩa
khác về khái niệm khác về làng nghề:
- Theo thông tư 116: Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp
thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa
bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một
hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau2.
- Theo giáo sư Trần Quốc Vượng: “Theo chúng tôi hiểu gọi là một làng
nghề (như làng gốm Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh,… làng đồng
(Bưởi, Vó, Hè Nôm, Thiệu Lý, Phước Kiều,…), làng giấy vùng Bưởi, Dương
Ô…, làng rèn sắt Canh Diễn, Phù Dực, Đa Hội,…) là làng ấy, tuy vẫn có
trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ (lợn, gà) cũng có một số nghề
phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ,…) song đã nổi trội một nghề cổ
truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên
nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông phó cả… cùng một số
thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định, “sinh ư
nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng
1
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0ng_ngh%E1%BB%81_Vi%E1%BB%87t_Nam
Thông tư số 116 /2006/TT- BNN, hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP
ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn.
2
8
nghề và sản xuất ra các mặt hàng thủ công; những mặt hàng này có tính mỹ
nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa có quan hệ tiếp thị (marketing) với một
số thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị, thủ đô (Ke
Chợ, Huế, Sài Gòn…) và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi xuất khẩu ra nước
ngoài”3
1.2 Khái niệm mô hình sản xuất kinh doanh của làng nghề:
Mô hình sản xuất kinh doanh là một khái niệm chung nói về việc một tổ
chức kinh doanh được tổ chức, xây dựng và vận hành ra sao. Tổ chức
kinh doanh này có thể là một công ty, một doanh nghiệp, một làng nghề,
một nhà nước và cũng có thể là một đơn vị tổ chức kinh doanh.4
Sau đây là khái niệm mô hình sản xuất kinh doanh của làng nghề do tác
giả đề xuất:
Mô hình sản xuất kinh doanh của làng nghề là cách thức một làng nghề sắp
xếp, tổ chức các nguồn lực như vốn, thông tin, nhân lực, kĩ thuật,… của
mình để tiến hành sản xuất kinh doanh mang lại giá trị.
Nếu như coi một làng nghề là một tổ chức kinh doanh (dưới góc nhìn của
nhà phân tích) thay vì là một tổ chức dân sự (dưới góc nhìn của chính
3
Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb VHDT và TCVHNT, Hà Nội, tr.372
Các văn bản pháp luật Việt Nam không có khái niệm “mô hình sản xuất kinh doanh” nên tác giả đã tham
khảo khái niệm “business model” trên trang wiki(http://en.wikipedia.org/wiki/Business_model): A
business model describes the rationale of how an organization creates, delivers, and captures value economic, social, or other forms of value. The process of business model design is part of business
strategy. In theory and practise the term business model is used for a broad range of informal and
formal descriptions to represent core aspects of a business, including purpose, offerings, strategies,
infrastructure, organizational structures, trading practices, and operational processes and policies.
4
Tạm dịch: Một mô hình kinh doanh thể hiện các nhân tố cơ bản của việc một tổ chức được thành lập, phân
phối và đạt được các giá trị kinh tế, xã hội hoặc các dạng giá trị khác. Quá trình hình thành một mô hình kinh
doanh là một phần của chiến lược kinh doanh. Trên cả lý thuyết lẫn thực tế, chính thức lẫn phi chính thức
thì khái niệm mô hình kinh doanh được dùng để thể hiện các khía cạnh cốt lõi của doanh nghiệp trong đó
có mục đích, sản phẩm, chiến lược, cơ sở hạ tầng, cơ cấu tổ chức, việc buôn bán, và quá trình thành lập,
chính sách.
9
phủ) thì bản thân làng nghề cũng phải đối mặt với việc phân phối, tổ
chức, sắp xếp các nguồn lực của mình sao cho việc kinh doanh đạt được
hiệu quả. Nếu tham khảo định nghĩa “business model” trên
Wikipedia.org thì ta nhận thấy, mô hình kinh doanh trong doanh nghiệp
còn có thể được hiểu rộng ra bao gồm mục đích kinh doanh của tổ chức
đó.
Dưới đây được coi là một trong những mô hình sản xuất kinh doanh giản
lược cổ điển của làng nghề Việt Nam do tác giả tự phân tích, tổng hợp sau
khi
tham khảo các bài phân tích trên internet:
Hình 1: SƠ ĐỒ GIẢN LƯỢC VỀ MÔ HÌNH SẢN XUẤT,
KINH DOANH CỦA LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
2. Phân loại các mô hình sản xuất kinh doanh của làng nghề tại Việt
Nam:
10
Như phân tích ở phần 2.1, tác giả đã giới thiệu khái niệm mô hình sản
xuất của làng nghề và giới thiệu thêm một sơ đồ mô hình cổ điển được
nhắc nhiều trên báo chí và internet. Ở phần 2.2, tác giả sẽ làm rõ hơn
bằng cách khai triển mô hình trên dựa vào thực tế các làng nghề tại Việt
Nam. Đối với số lượng phong phú các làng nghề như ở Việt Nam thì có
thể có nhiều cách phân loại mô hình sản xuất kinh doanh của làng nghề
khác nhau. Vì mỗi chủng loại sản phẩm lại có đặc trưng khác nhau về
công nghệ sản xuất, sự phân phối các nguồn lực nên trước hết, tác giả
phân chia các làng nghề theo chủng loại sản phẩm.
2.1 Phân loại mô hình làng nghề theo chủng loại sản phẩm:
Đồ gốm: Nghề gốm sứ đã xuất hiện từ lâu đời ở Việt Nam. Miền Bắc nổi
tiếng với gốm sứ Bát Tràng, Hải Dương, Miền Nam có gốm sứ Bình
Dương và Đồng Nai. Làng gốm Chăm Bình Đức của Miền Trung với các
mặt hàng gốm dùng trong sinh hoạt gia đình như nồi, trả, chum…. đến
nay vẫn làm bằng tay với bàn xoay. Gốm Chăm còn có điểm khác biệt
nữa là không sử dụng lò nung, mà sản phẩm chất thành đống trên bãi đất
trống, đốt lửa để nung.
Sơn mài: Việc làm sơn mài luôn phụ thuộc thời tiết - nó rất thích hợp mùa
xuân và những ngày mưa đầu hạ. Điều đó làm ta thấy sự phân bố làm
nghề sơn mài không những chia theo khu vực sản phẩm mà còn có yếu tố
liên kết phục vụ lẫn nhau. Làng nghề sơn mài Phù Lào (Tiên Sơn - Bắc
Ninh) thường lấy quỳ vàng, quỳ bạc của làng Kiêu Kị (Gia Lâm), lấy giấy
dó của làng Đông Cao, lấy vải màn của làng Đình Cả, lấy vóc hoặc sản
phẩm chạm khắc của làng Phù Khê, lấy nguồn sơn thô của Phú Thọ, Yên
Bái và lấy nguồn dầu trẩu, dầu trám của Lạng Sơn, Cao Bằng... Hà Nội
ngày nay vẫn là đầu mối tập trung nguyên liệu và các bậc chế tác nghệ
11
thuật sơn mài nổi tiếng. Đa phần họ có gốc thành viên của các làng nghề
truyền thống nhập cư Hà Nội và tạo nên 36 phố phường ngày trước.
Mây tre đan: Việt Nam đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu mây tre
đan5, trong đó với đặc trưng là nguồn lao động thủ công dồi dào thì có thể
kể đến các làng nghề Tăng Tiến (Bắc Giang), Phú Nghĩa (Chương Mỹ, Hà
Nội), Thái Xuyên (Thái Bình), An Hòa (Tây Ninh),…
Đồ gỗ mỹ nghệ: Làng nghề gỗ mỹ nghệ phải kể đến làng nghề Đồng Ky
(Bắc Ninh) thiên về thương mại, làng Vạn Điểm (Thường Tín, Hà Tây)
với chuyên về đồ gỗ nội thất, Sơn Đồng (Hoài Đức - Hà Nội) với đặc trưng
là tạc tượng gỗ,… Đồ gỗ là hàng thủ công mỹ nghệ cao cấp nên yêu cầu
nguồn nhân lực trẻ, chất lượng và dồi dào. Nên đặc trưng của các làng
nghề đồ gỗ mỹ nghệ phát triển là những làng duy trì được kĩ thuật điêu
khắc tiếp nối qua các thế hệ, từ thế hệ già tới thế hệ trẻ. Ngoài ra, vì là
sản phẩm mang tính chất hơi xa xỉ nên thị trường đầu bị ảnh hưởng rất
lớn bởi suy thoái của nền kinh tế chung.
2.2 Phân loại mô hình làng nghề theo số lượng chủng loại sản phẩm:
Làng đơn nghề: Có duy nhất một nghề kinh doanh và mang tính chuyên
nghề. Trong đó mỗi hộ kinh doanh trong làng có thể tập trung vào một
khâu sản xuất hoặc một thị trường phân phối nhất định. Làng đơn nghề
có thể kể đến như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Bát Tràng, làng dệt thổ
cẩm Mỹ Nghiệp, làng đồ gỗ mỹ nghệ Thanh Thùy,… Đặc trưng của làng
đơn nghề là có tính chuyên nghề cao, thu nhập của dân làng phụ thuộc
lớn vào nghề duy nhất của mình.
Làng đa nghề: Có từ 2 chủng loại sản phẩm kinh doanh chính trở lên, làng
đa nghề có sự linh hoạt trong việc phân bổ các nguồn lực theo nhu cầu
của thị trường vào từng chủng loại sản phẩm. Ở làng đa nghề, việc phân
5
Số liệu năm 2008: http://www.laodong.com.vn/Home/Xuat-khau-may-tre-dan-Thua-nguon-luc-thieu-thuonghieu/20088/104563.laodong
12
phối nguồn lực vào các khâu sản xuất, phân phối cũng xảy ra như làng
đơn nghề. Nói đến làng đa nghề có thể kể đến như làng nghề Ninh Hiệp
(nghề vải, nghề thuốc), làng nghề Nhật Tân (dệt vải, mộc, mây đan), làng
nghề Thổ Hà (gốm, bánh tráng, quan họ),...
3. Hướng tiếp cận để phân tích mô hình sản xuất kinh doanh của làng
nghề:
3.1 Hướng tiếp cận từ sự ảnh hưởng của mô hình sản xuất kinh doanh của làng
nghề tới mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội:
3.1.1 Ý nghĩa của làng nghề tới mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội:
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt
Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư
dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.
Bởi lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc
trồng lúa nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông
thường chỉ những ngày đầu vụ, hay những ngày cuối vụ thì người nông dân
mới có việc làm nhiều, vất vả như: cày bừa, cấy, làm cỏ (đầu vụ) cho đến gặt
lúa, phơi khô... còn những ngày còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để
làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm
mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hằng ngày về
sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây,
tre, lụa... phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ
chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại
lợi ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ
lúa. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học làm
13
theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần
nhau.
Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem
lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì
phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù
hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng
nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng Gốm, làng làm
chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng...
Những phát hiện về khảo cổ học, những cứ liệu lịch sử đã chứng minh
được các làng nghề Việt Nam đã ra đời từ hàng ngàn năm trước
đây[cần dẫn nguồn]. Các làng nghề thường tập trung chủ yếu ở các vùng châu
thổ sông lớn như châu thổ sông Hồng, tại Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Thái
Bình, Nam Định ...
Vậy có thể tóm lại, trong quá trình hình thành và phát triển của mình,
làng nghề có 2 vai trò chính là vai trò kinh tế và vai trò xã hội:
Vai trò kinh tế: Ban đầu là mang lại thu nhập gia tăng cho dân làng vào
những vụ nông nhàn, sau đó là nguồn thu nhập lớn lao và chính yếu cho các
hộ gia đình trong làng khi đã chuyên sâu vào nghề. Từ việc mang lại nguồn
thu nhập nhỏ le và quy mô sản xuất không tập trung, thì khi phát triển, làng
nghề mang lại nguồn thu nhập ổn định với quy mô sản xuất tập trung, có sự
liên kết chặt chẽ giữa các hộ gia đình trong làng. Bình quân thu nhập nông
thôn, những lao động có nghề tiểu thủ công nghiệp, mỹ nghệ thì có thu nhập
gấp 2 lần hoặc hơn 2 lần so với làng thuần nông. Để hiểu rõ hơn về vai trò
kinh tế, ta có thể lấy một số tỉnh địa phương có nhiều làng nghề ra làm điển
hình so sánh.
Tỉnh Nam Định có 90 làng nghề truyền thống, trong đó có 77 làng nghề
tiểu thủ công nghiệp. Mỗi năm các làng nghề này đem về cho tỉnh 13-15 triệu
USD kim ngạch xuất khẩu, chưa kể phần lớn tiêu thụ trong nước. Tỉnh Hà Tây
có 411 làng nghề, chiếm 1/5 số lượng làng nghề cả nước. Giá trị sản xuất từ
14
khu vực kinh tế này đem về cho Hà Tây khoảng 3.000 tỉ đồng mỗi năm. Trong
đó nhiều làng nghề đạt mức doanh thu mỗi năm trên 70 tỉ đồng, giải quyết
việc làm cho 140.000 hộ nông dân và nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã6...
Vai trò xã hội: Giai đoạn đầu làng nghề có vai trò giải quyết vấn đề dư
thừa lao động theo mùa, khi nguồn lao động vào các mùa sản xuất nông
nghiệp chính trở thành thất nghiệp vào các mùa phụ. Trong quá trình phát
triển của mình, làng nghề còn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển liên kết giữa
các hộ gia đình, thay đổi cơ cấu quan hệ trong làng, giúp phần thay đổi quan
niệm về bình đẳng giới,… thúc đẩy sự văn minh. Sự phát triển các ngành nghề
thủ công thay thế dần cho nông nghiệp cũng làm thay đổi tư tưởng tiểu nông,
tủn mủn sang tư tưởng kinh doanh, thương mại. Là bước đệm cho việc phát
triển nghành thương mại và công nghiệp hóa làng nghề, từ đó công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một điều tra của Bộ Công nghiệp cho thấy làng nghề VN đang sử dụng
1,3 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và 3-5 triệu lao động thời vụ đã khẳng
định được vị trí quan trọng của làng nghề trong nền kinh tế chung. Làng nghề
phát triển sẽ giải quyết việc làm cho nông thôn đang có quá nhiều người thất
nghiệp; gìn giữ và phát triển văn hóa truyền thống; đặc biệt tạo ra bộ mặt đô
thị hóa mới cho nông thôn để nông dân ly nông nhưng không ly hương và làm
giàu trên quê hương mình. Nó làm giảm bớt căn bệnh “to đầu” vì làn sóng
nông dân nhập cư về các thành phố lớn kéo theo hàng loạt hệ quả xã hội nặng
nề.
Thu nhập của người lao động hưởng lương ở các làng nghề hiện phổ
biến khoảng 600.000-1.500.000 đồng, cao hơn nhiều so với lợi nhuận từ làm
ruộng lúa, đặc biệt là vùng đất hẹp người đông như đồng bằng sông Hồng.
Ngoài ra, khu vực kinh tế làng nghề, đặc biệt là các nghề truyền thống, còn có
một ý nghĩa khác là sử dụng được lao động già cả, khuyết tật, tre em mà khác
khu vực kinh tế khác không nhận.
6
Vietbao.vn, làm gì để phát triển làng nghề: http://vietbao.vn/Xa-hoi/Lam-gi-de-phat-trien-lang-nghe/40208147/423/
15
3.1.2 Các vấn đề còn tồn tại.
Cho đến ngày nay, làng nghề Việt Nam vẫn là một đối tượng rất nóng
cho các cuộc thảo luận liên quan tới sự phát triển, tồn tại và ảnh hưởng của nó
tới nền kinh tế, xã hội như thế nào. Điểm qua trên internet, tác giả có thể rút ra
được các chủ đề thảo luận chính liên quan tới làng nghề gồm có:
Vấn đề môi trường: Ô nhiễm ở làng nghề, sự ô nhiễm này có thể là hệ
quả trực tiếp của nghề truyền thống của làng này; hoặc cũng có thể là hệ quả
của việc công nghiệp hóa, hình thành các cụm công nghiệp, nhà máy, xưởng
sản xuất không có chính sách hoàn thiện về môi trường đi kèm. Theo đánh giá
của các chuyên gia ở các tỉnh có làng nghề thì hầu hết các làng nghề ở nước ta
đều không đảm bảo môi trường, trong đó nhiều làng nghề bị ô nhiễm môi
trường ở mức nghiêm trọng. Hậu quả này do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân chủ yếu là do sử dụng hoá chất trong quá trình sản xuất mà chưa
có biện pháp xử lý chất thải. Nhắc đến làng nghề nấu chì Đông Mai (Hưng
Yên) người ta vẫn không khỏi lo lắng khi bụi chì và chất thải ra trong quá
trình sản xuất đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe người dân. Nhiều người trong
làng đã bị mắc bệnh và đặc biệt là có khá nhiều trường hợp tre em sinh ra bị
thiểu năng, dị tật. Qua kiểm tra nguồn nước ở đây cho thấy nồng độ chì trong
nước rất cao. Người dân trong làng thường đi mua những bình ắc quy hỏng về
rồi lấy lá chì trong đó nấu lại. Nước rửa bình ắc quy và các tấm lá chì được xả
thẳng xuống nguồn nước mà không qua một khâu xử lý nào cả. Nguồn nước
này lại ngấm xuống đất, xuống mạch nước ngầm mà dân làng ăn nên không
tránh khỏi độc hại. Cùng với nó là khói, bụi khí thải thoát ra từ các lò nấu chì
đặt ngay cạnh khu vực sinh hoạt đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoe người
dân. Thế nhưng chính quyền và dân làng Đông Mai vẫn chưa tìm được cách
khắc phục sự ô nhiễm độc hại này. Hiện nay dân làng đã chuyển các lò nấu
chì ra xa khu vực sinh hoạt song tình trạng ô nhiễm môi trường cũng chưa
được cải thiện. Ô nhiễm môi trường ở làng gốm Bát Tràng hiện nay là rất lớn
bởi tiếng ồn và bụi do các lò nung dùng than đá tạo ra. Vì thế lượng khí
16
cácbonnic trong không khí ở đây luôn vượt quá 3 lần mức cho phép, còn mức
bụi silic thì cao quá mức cho phép 12 lần. Vào những ngày mưa, mặc dù
đường làng đã được lát bêtông nhưng vẫn luôn lầy lội, đầy màu đen do sự rơi
vãi của than, của si và phế phẩm. Để cải tạo môi trường làng nghề Bát Tràng,
Sở KHCN&MT Hà Nội đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có đề nghị các lò
nung chuyển sang dùng gas thay cho than đá. Thế nhưng giải pháp này cũng
không được thực hiện triệt để do làm như vậy sẽ nâng giá thành sản phẩm lên
rất cao. Ở những làng nghề sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ thì việc sử dụng hoá chất
có hạn chế song tình trạng ô nhiễm môi trường ở những nơi này cũng đang ở
mức báo động. Đa số các làng nghề bị ô nhiễm bởi chất thải sản xuất, bụi, khí
độc, cặn bã, nước thải xả ra trong quá trình sản xuất. Trong khi đó người dân
lại trực tiếp sống trong môi trường ấy nên tất nhiên phải gánh chịu hậu quả từ
chính những việc làm của mình.
Vấn đề mai một làng nghề: Hiện nay tình hình chung về hiệp hội làng
nghề Việt nam thì 60% là có chiều hướng xu thoái nặng, nguyên nhân là có
những nghề là mùa vụ chứ không truyền thống, ví dụ mùa mưa đan nón, cuối
năm đi nặn tò he để bán cho du khách và cho các cháu. Tức là họ vừa làm
đồng rồi lại về nhà làm thêm.
Nói đến vấn đề mai một làng nghề truyền thống, không thể không nói
đến hiện tượng các nghệ nhân đang dần lớn tuổi, trong khi các thanh niên tre
giờ đây đang dời bỏ làng quê để ra thành phố kiếm tìm một cuộc sống mới
hiện đại, với thu nhập cao hơn. Có thực trạng là ở nông thôn Việt Nam bây
giờ phần lớn là người đứng tuổi, trong làng nghề cũng vậy, có những làng
nghề do tình hình kinh doanh không phát triển, thu nhập bị giảm sút nên thanh
niên không mặn mà lắm với việc theo các nghề cũ ở các làng nghề, mà họ đi
các nơi khác.
3.1.2 Tiếp cận vấn đề theo hướng mối tương quan giữa mô hình sản
xuất kinh doanh của làng nghề tới mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội:
17
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy được làng nghề có ý nghĩa
lớn lao về cả kinh tế lẫn xã hội. Vậy mô hình sản xuất kinh doanh của làng
nghề có liên quan gì tới việc thực hiện các mục tiêu trên? Đấy chính là câu hỏi
cần làm rõ nếu như chúng ta tiếp cận việc phân tích mô hình sản xuất kinh
doanh của làng nghề theo hướng này. Các câu hỏi đặt ra cần phân tích gồm
có:
1) Với các mô hình làng đa nghề thì có ưu việt gì so với làng đơn nghề
trong giải quyết vấn đề nguồn nhân lực không,
2) hoặc với các làng nghề liên quan tới hàng may mặc thì vấn đề thu
nhập của dân địa phương so với mô hình làng nghề gốm như thế nào,
3) làm thế nào để chuyển một làng nghề với mô hình này sang mô hình
sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn từ kinh nghiệm của làng nghề kia?
Với cách tiếp cận này, chúng ta có cái nhìn tổng quan của nhà hoạch
định vĩ mô đối với mô hình sản xuất kinh doanh của làng nghề. Hướng tiếp
cận vĩ mô đặc biệt cần thiết đối với các nhà hoạch định chính sách, tuy nhiên
đôi khi có sự phiến diện khi lãng quên đi các yếu tố xã hội học ẩn đằng sau
mỗi mô hình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, tác giả đề xuất ra một hướng tiếp
cận khác toàn diện hơn bao gồm cả những phân tích dưới lý thuyết quản trị và
xã hội học.
3.2: Hướng tiếp cận theo các phân tích quản trị học và xã hội học:
Một làng nghề là một xã hội tương đối nhỏ và về bản chất nó khác hẳn
với một công ty hay một tập đoàn. Các phương pháp, công cụ trong quản trị
học sẽ chỉ có tác dụng để phân tích mô hình sản xuất kinh doanh của làng
nghề dưới góc độ vi mô để đánh giá sự hiệu quả của từng hộ gia đình hay các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, tác giả cũng sẽ sử dụng một số công cụ
của quản trị học để phân tích vĩ mô về làng nghề, với giả định làng nghề giống
như một doanh nghiệp, và từng nghề là một sản phẩm.
Trong hướng tiếp cận toàn diện này thì các nghiên cứu xã hội học, lịch
sử là vô cùng cần thiết để khám phá những lợi thế thuộc về bản chất văn hóa,
18
lịch sử. Sau đó, tác giả sẽ phân tích cơ cấu ngành nghề, mô hình sản xuất của
từng ngành để có cái nhìn chi tiết về làng nghề Ninh Hiệp. Từ những phân
tích cơ cấu, từng ngành, tác giả sẽ rút ra được những vấn đề còn tồn tại tại
làng nghề Ninh Hiệp cũng như những tiềm năng chưa được khai thác hết.
Cuối cùng, để đưa ra được các kiến nghị, đề xuất cho làng nghề Ninh Hiệp
phát triển bền vững thì tác giả sẽ tham khảo một số kinh nghiệm của các làng
nghề khác trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Lịch sử làng nghề
Lợi thế của
làng nghề
Kinh nghiệm từ
các làng nghề
khác
Cơ cấu ngành nghề
Mô hình sản xuất
của từng ngành
Những vấn đề
còn tồn tại
Một số
kiến nghị
và đề xuất
Hình
2: PHÂN
TÍCH
MÔdiện
HÌNH
SẢN
XUẤT
CỦA sẽ đi đến được
Với
cách
tiếp cận
toàn
như
trên,
tácKINH
giả hiDOANH
vọng rằng
LÀNG NGHỀ NINH HIỆP THEO HƯỚNG QUẢN TRỊ HỌC VÀ XÃ HỘI HỌC
đích là phân tích rõ ràng, toàn diện mô hình sản xuất kinh doanh của làng
nghề Ninh Hiệp cũng như đề ra được các kiến nghị, đề xuất phù hợp với thực
tế.
19
Chương II: MÔ HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI LÀNG NGHỀ
NINH HIỆP
1. Phân tích mô hình sản xuất kinh doanh tại làng nghề Ninh Hiệp
1.1. Mô hình sản xuất, kinh doanh đa nghề của làng Ninh Hiệp
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển làng đa nghề Ninh Hiệp.
Trong suốt lịch sử phát triển của làng cổ Ninh Hiệp thì làng đã trải qua
rất nhiều nghề khác nhau, dấu ấn của các nghề này còn để lại trong
những sự tích, câu truyện, ca dao, vè, ghi chép, văn bia làng,… Nếu chỉ
nghe qua tên các nghề như nghề Đậu Nành, Nghề Đông Y, nghề Dệt, nghề
Vải, nghề Thuốc, nghề Da thì chúng ta cũng thấy một phần logic, liên
quan giữa các nghề này với nhau. Thực tế, lịch sử làng nghề Ninh Hiệp là
quá trình hình thành lên các nghề chuyên sâu, có sự thích nghi, thay đổi
với thời đại mà duy trì, phát triển mạnh mẽ đến tận bây giờ. Một số nghề
như nghề Đậu, nghề Da thì mất đi, Nghề Đông Y thì âm ỉ, nghề Thuốc và
đặc biệt là nghề Vải thì vẫn trên đà phát triển không ngừng. Việc phân
tích các nghề cổ xưa, kể cả những nghề đang âm ỷ hay đã mất đi vẫn có ý
nghĩa lớn lao trong việc phân tích các ngành Thuốc và ngành Vải hiện
nay.
Nghề Đậu: Hiện nay vẫn chưa có những xác minh mang tính khoa học về
nghề truyền thống sản xuất, chế biến các sản phẩm từ đậu Nành của
người Ninh Hiệp cổ. Tuy nhiên, qua các tích cổ của người làng, và qua
phân tích tên làng của tác giả thì rất có khả năng để khẳng định Ninh
Hiệp là nơi đầu tiên trồng, chế biến và sản xuất các sản phẩm từ cây đậu
Nành.
Theo “Sự tích Đậu Nành và hội chùa Nành 7” nghề Đậu là do Đức Phật Bà
truyền dậy đầu tiên ở làng Nành (tên cũ của Ninh Hiệp) nên loại đậu này
được gọi là đậu Nành để phân biệt với các cây họ đậu khác. Đậu Nành
7
Chuyện cũ làng Nành, Nguyễn Khắc Quýnh, nxb Văn hóa Dân Tộc, 2003, tr.15-18
20
- Xem thêm -