LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường đòi hỏi sự gắn bó giữa sàn xuất và tiêu thụ. Chính
vì vậy thị trường là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp,
đặc biệt trong giai đoạn mà các doanh nghiệp cùng nghành cạnh tranh
ngày càng gay gắt đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn đứng vững và phát
triển được thì một mặc phải củng cố thị trường hiện có, mặt khác phải tìm
kiếm và phát triển thị trường mới.
Ngày nay khi xu thế hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng,
quá trình hỏi nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp đang trong quá trình đổi
mới, mở cửa, hội nhập với khu vực và toàn cầu thì vấn đề tồn tại và phát
triển trên thị trường có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi doanh
nghiệp
Những thành tựu và lợi ích to lớn do hội nhập kinh tế quốc tế mang
lại cho mỗi nước tham gia là rõ ràng không thể phủ nhận. Ngày nay,
không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình theo con đường tự
cung, tự cấp, cô lập với bên ngoài. Đối với những nước đang phát triển
như Việt Nam, việc nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan trọng này và
ứng dụng vào tình hình thực tế của đất nước là cần thiết. Chính vì vậy,
chiến lược phát triển mà chúng ta đã lựa chọn và khẳng định là “Hướng
mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong
0
nước sản xuất có hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang
dạng chế biến sâu, mở ra những mặt hàng mới có giá trị thặng dư cao”.
Công ty Vinamilk là một trong những điển hình thành công về cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Lần bán đấu giá cổ phần vào giữa
tháng 2 trong năm nay, Vinamilk đã giúp nhà nước thu về thêm 385 tỷ
đồng thay vì dự kiến ban đầu là 187 tỷ đồng. Mười năm qua, Vinamilk đã
đầu tư 1.169,8 tỷ đồng phát triển quy mô sản xuất, nâng cấp, đổi mới
công nghệ. Xây dựng mới 5 nhà máy chế biến sữa trên 5 vùng trọng điểm
của cả nước; tiến hành cuộc “ cách mạng trắng “ bằng việc tạo lập vùng
nguyên liệu nội địa … Nhờ đó, tốc độ sản xuất và kinh doanh luôn tăng,
từ 15-35%/ năm. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/nguồn vốn kinh doanh đạt
từ 20-30%. Nộp ngân sách Nhà nước 3.080,7 tỷ đồng, tổng vốn chủ sở
hữu tăng gấp 10 lần, từ 216 tỷ đồng (1992) lên 2015 tỷ đồng năm 2007,
thị phần liên tục được giữ vững từ 50-90%. Tuy nhiên, hiện nay xuất hiện
một loạt Công ty đang cạnh tranh rất quyết liệt với Công ty Vinamilk và
doanh thu của họ cũng liên tục tăng (như mức tăng trưởng nhảy vọt của
Nutifood 50%, Hancofood là 100%/năm… ).
Việt Nam gia nhập WTO, sẽ có nhiều Công ty nước ngoài hơn nữa
xâm nhập vào thị trường Việt Nam, hàng hoá Việt Nam sẽ phải đối mặt
với sự cạnh tranh gay gắt hơn và sự đào thải cũng nghiệt ngã hơn. Nếu
công tác chuẩn bị không tốt, sự tác động này là rất lớn, không loại trừ khả
năng một số ngành kinh tế sẽ bị chết yểu trước sức tấn công của hàng hoá
ngoại nhập. Vì vậy, việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty
Vinamilk trong giai đoạn hiện nay là cần thiết.
1
Mục đích nghiên cứu: Chuyên đề môn học này không ngoài mục
đích làm sáng tỏ lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh thông qua
việc nghiên cứu quá trình phát triển và năng lực cạnh tranh của Công ty
Vinamilk nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
Công ty Vinamilk trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng chính mà chuyên đề
tập trung nghiên cứu là năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk. Ngoài
ra, chuyên đề còn đề cập đến tình hình sản xuất và tiêu thụ trên thế giới
và tình hình sản xuất mặt hàng sữa và sản phẩm sữa ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chủ yếu được sử dụng để
nghiên cứu đề tài này là phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp
diễn giải – quy nạp; phương pháp đối chiếu – so sánh, phương pháp lôgíc,
phương pháp mô tả khái quát.
Kết cấu đề tài: Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, bố cục của
chuyên đề bao gồm 3 chương sau:
Chương 1 : Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Chương 2 : Phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh của Vinamilk
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3 : Một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của
Vinamilk.
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG
LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
2
1.1. Khái niệm về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thị trường nên chịu sự
chi phối hoạt động của các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung
cầu và quy luật cạnh tranh. Trong nền kinh tế này mọi người đều được tự
do kinh doanh, đây chính là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh
trên thị trường rất đa dạng và phức tạp giữa các chủ thể có lợi ích đối lập
nhau như cạnh tranh giữa những người mua, giữa những người bán, giữa
những người bán với người mua, giữa các nhà sản xuất, giữa các doanh
nghiệp nội địa với doanh nghiệp nước ngoài,... Cạnh tranh phát triển cùng
với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Vậy cạnh tranh là gì?
Xét dưới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể được hiểu là quá
trình đương đầu của các quốc gia này với các quốc gia khác trong quá
trình hội nhập kinh tế.
Xét dưới giác độ ngành kinh tế - kỹ thuật, từ trước đến nay, cạnh
tranh được chia thành 2 loại là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh
nội bộ ngành.
Trong điều kiện nền kinh tế TBCN, K. Mark đã đưa ra khái niệm
cạnh tranh như sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
3
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất
và tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch".
Tuy nhiên, cũng trong nền kinh tế TBCN, cuốn sách "Từ điển kinh
doanh" (Xuất bản năm 1992, Anh) lại đưa ra khái niệm cạnh tranh như
sau: "cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh
nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình" để đề
cập đến sự cạnh tranh ở thị trường các yếu tố đầu vào của các doanh
nghiệp.
Nói tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngành kinh tế, giữa
các quốc gia trong việc giành giật các lợi thế để thực hiện các mục tiêu
khác nhau trong từng giai đoạn cạnh tranh nhất định.
Nếu xét cạnh tranh dưới góc độ các doanh nghiệp thì thực chất cạnh
tranh là sự ganh đua về lợi ích kinh tế, về chủ thể tham gia thị trường. Đối
với khách hàng, bao giờ họ cũng muốn mua được hàng hoá có chất lượng
cao mà giá lại rẻ, còn các doanh nghiệp lại muốn được tối đa hoá lợi
nhuận của mình. Với mục tiêu là lợi nhuận, các doanh nghiệp phải tìm
cách giảm chi phí, giành giật khách hàng về phía mình. Từ đó, cạnh tranh
đã xảy ra.
Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường, nó là động lực
thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển. Vì vậy, các doanh
nghiệp cần phải nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để từ đó luôn phát huy
nội lực, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Mặt khác, tránh cạnh
4
tranh bất hợp pháp dẫn đến làm tổn hại lợi ích của cộng đồng cũng như
làm suy yếu chính mình.
Có thể nói, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường là một tất yếu xảy ra và nó đóng vai trò quan trọng với tất cả các
doanh nghiệp đó.
1.1.2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1. Thị trường cạnh tranh
Hình thái cạnh tranh này được xem xét dưới góc độ hành vi của thị
trường, gắn liền với phương thức hình thành và vận động giá trên thị
trường. Có các hình thái cạnh tranh như sau:
1.1.2.1.1. Hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo:
Khái niệm: thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có
rất nhiều người bán mà không có người nào có ưu thế cung ứng một số
lượng sản phẩm lớn ảnh hưởng đến giá cả. Tất cả các đơn vị hàng hoá
trên thị trường được coi là giống nhau, ít có sự khác biệt về mẫu mã, hình
thức, chất lượng. Tất cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ
về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, vì vậy, việc tham gia và rút
khỏi thị trường của họ rất dễ dàng. Họ không có khả năng nâng giá. Do
đó, các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường này
chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí tới mức thấp nhất.
Tác dụng của thị trường cạnh tranh hoàn hảo:
5
- Thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm
cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
- Làm cho người tiêu dùng dễ dàng lực chọn những sản phẩm vừa ý
với mức giá thấp nhất.
- Nhìn chung, xã hội thu được lợi ích do tài nguyên được phân phối
theo hướng có lợi nhất, làm cho doanh nghiệp phải chuyển sang kinh
doanh mặt hàng phù hợp với yêu cầu xã hội.
Đây là hình thái cạnh tranh hầu như không tồn tại hoặc rất khó thấy
trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan gây ra. Tuy nhiên, tiến tới một thị trường cạnh tranh
hoàn hảo vẫn là mục tiêu hướng tới của mỗi quốc gia trong xu thế hội
nhập thương mại quốc tế.
1.1.2.1.2. Hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo:
Đây là một thị trường mà phần lớn sức mạnh thị trường thuộc về
một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị
trường kinh doanh các sản phẩm hàng hoá - dịch vụ cùng chủng loại
nhưng khác nhau về nhãn hiệu. Chính những nhãn hiệu này lại mang
những hình ảnh, uy tín khác nhau do người tiêu dùng nghĩ, có thể đúng
hoặc không đúng. Do đó, một số người tiêu dùng (chứ không phải là tất
cả) sẽ trả giá cao hơn cho sản phẩm mà mình thích. Có thể nói, thị trường
cạnh tranh không hoàn hảo là một thị trường phổ biến trong điều kiện nền
6
kinh tế hiện nay. Có hai hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
sau:
* Độc quyền tập đoàn:
Trong thị trường này chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ
hay hầu hết tổng sản lượng. Trong số đó, một số hoặc tất cả các doanh
nghiệp đều thu được lợi nhuận đáng kể trong dài hạn, vì có các rào cản
gia nhập làm cho các doanh nghiệp mới không thể gia nhập vào thị
trường được. Tuy nhiên, một điều cần chú ý ở đây là các doanh nghiệp
trong thị trường bị phụ thuộc lẫn nhau trong việc định giá cũng như sản
lượng bán ra. Bởi lẽ, khi một doanh nghiệp trong nhóm độc quyền giảm
giá hàng bán thì lợi thế đối với họ sẽ không được lâu, các doanh nghiệp
khác cũng sẽ nhanh chóng giảm giá, như vậy, lợi ích của họ sẽ nhanh
chóng giảm sút. Ngược lại, khi doanh nghiệp tăng giá chưa chắc các
doanh nghiệp khác sẽ tăng giá theo, như vậy, doanh nghiệp sẽ làm mất
khách hàng.
* Cạnh tranh độc quyền:
Đặc điểm nổi bật của thị trường độc quyền là số lượng các doanh
nghiệp tham gia thị trường tương đối lớn, mỗi doanh nghiệp sẽ có ảnh
hưởng lớn đến các quyết định sản xuất kinh doanh của riêng doanh
nghiệp mình. Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, sản phẩm của các
doanh nghiệp không đồng nhất. Người tiêu dùng phân biệt được các sản
phẩm của các doanh nghiệp thông qua nhãn hiệu, bao bì và các dịch vụ
kèm theo. Trên thị trường này, doanh nghiệp có quyền quyết định giá
7
hàng hoá nhưng vẫn không phải hoàn toàn theo ý mình, các điều kiện về
mua bán hàng hoá cũng khác nhau, các doanh nghiệp có thể có hình ảnh,
uy tín khác nhau trong tâm trí mỗi khách hàng.
1.1.2.1.3. Hình thái thị trường độc quyền:
Đây là hình thái thị trường mà ở đó chỉ có một người bán nhưng
nhiều người mua (gọi là độc quyền bán) hoặc là chỉ có một người mua
(gọi là độc quyền mua). Điều kiện gia nhập cũng như rút lui khỏi thị
trường này vô cùng khó khăn do vốn đầu tư sản xuất kinh doanh thường
rất lớn hoặc do sự độc quyền về kỹ thuật công nghệ. Chính vì vậy, đặc
điểm nổi bật của thị trường này không có sự cạnh tranh về giá cả mà giá
cả phụ thuộc vào quyền kiểm soát của người mua độc quyền hoặc người
bán độc quyền.
Trên thị trường độc quyền, đường cầu của toàn bộ xã hội về một
loại hàng hoá dịch vụ cũng như lượng hàng hoá mua vào, bán ra trên thị
trường bằng các chiến lược kinh doanh của mình.
Với hình thái này, chỉ có người tiêu dùng cuối cùng là gặp nhiều bất
lợi nhất, doanh nghiệp độc quyền có thể tạo ra sự khan hiếm hàng hoá
hoặc bán hàng hoá với giá cao. Để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng hiện
nay, đã có nhiều quốc gia đề ra luật chống độc quyền. Tuy nhiên, độc
quyền cũng có mặt tích cực, nó đem lại lợi ích cho xã hội nhờ quá trình
đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học- kỹ thuật. Doanh nghiệp độc
quyền thường có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở rộng được quy
8
mô sản xuất nên giảm được chi phí sản xuất tính trên một đơn vị sản
phẩm.
1.1.2.2 Cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cùng một thị trường, các doanh nghiệp cùng ngành cạnh
tranh với nhau trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
1.1.2.2.1 Cạnh tranh trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào
Thực chất, đây là việc các doanh nghiệp tìm kiếm cho mình một
nguồn cung ứng tốt nhất, đầy đủ, thường xuyên nhất và chi phí cho các
yếu tố đầu vào nhỏ nhất. Trong cơ chế thị trường, nhiều nhà cung ứng và
nhiều doanh nghiệp cùng có nhu cầu về một số yếu tố đầu vào nhất định
sẽ song song tồn tại cùng một lúc. Mỗi nhà cung ứng có một mức giá cho
các yếu tố đầu vào khác nhau, do đó, các doanh nghiệp sẽ chọn cho mình
một nhà cung ứng có mức giá thấp cũng như có dịch vụ cung ứng tốt. Tuy
nhiên, để tránh tình trạng có nhà cung ứng độc quyền các doanh nghiệp
nên chọn cho mình một số nhà cung ứng trong đó có một nhà cung ứng
chính. Điều này vô hình chung sẽ dẫn tới một số nhà cung ứng có giá cao
sẽ bị loại bỏ. Ngược lại, các nhà cung ứng lại muốn lựa chọn khách mua
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với mức giá cao.
1.1.2.2.2 Cạnh tranh trong quá trình sản xuất
Cạnh tranh trong quá trình sản xuất chính là quá trình ganh đua giữa
các doanh nghiệp trong việc tìm các câu trả lời tối ưu nhất cho các câu
9
hỏi sau: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào ? Bởi vì
trả lời tốt được các câu hỏi này thì các doanh nghiệp mới có cơ hội tồn tại
và phát triển được.
Sản xuất cái gì? Thực ra, doanh nghiệp cần phải suy tính xem sản
xuất mặt hàng nào thì sẽ thu được lợi nhuận tối ưu nhất. Trước hết, các
doanh nghiệp cần tìm hiểu thị trường, nắm bắt nhu cầu khách hàng, để từ
đó tập trung sản xuất những mặt hàng phù hợp. Doanh nghiệp nào tìm ra
được nhu cầu đầu tiên và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đó thì sẽ giành
chiến thắng. Tuy nhiên, hiện nay, quan điểm về cạnh tranh không dừng ở
mức độ này mà cạnh tranh còn là việc các doanh nghiệp cùng nhau kích
thích tạo ra nhu cầu mới trên thị trường để từ đó khai thác các nhu cầu
này.
Sản xuất cho ai? Đây chính là câu hỏi khiến các doanh nghiệp phải
đi tìm cho mình các khách hàng mục tiêu, để từ đó có các chiến lược định
vị sản phẩm. Điều này cũng là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự
cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Sản xuất như thế nào? Việc trả lời các câu hỏi này sẽ giúp các
doanh nghiệp tìm ra phương thức sản xuất tốt nhất với chi phí tốt nhất để
từ đó hạ giá thành và nâng cao lợi thế cạnh tranh. Do đó, trong quá trình
sản xuất, các doanh nghiệp đã không ngừng áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm có giá trị cao và giá thành hạ.
Tóm lại, cạnh tranh trong quá trình sản xuất là sự ganh đua trong
sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, đẩy nhanh
10
doanh số bán hàng cũng như việc áp dụng các phương thức sản xuất
nhằm giảm thiểu chi phí để mong muốn có được lợi nhuận cao của các
doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào thực sự làm được điều này thì doanh
nghiệp đó sẽ giành chiến thắng trong cạnh tranh.
1.1.2.2.3 Cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ.
Có thể nói, đây là lĩnh vực cạnh tranh gay gắt nhất, nó quyết định
tính sống còn của mỗi doanh nghiệp. Trọng tâm của cuộc cạnh tranh này
là sự giành giật thị trường và khách hàng của mỗi doanh nghiệp. Qua đó,
doanh nghiệp sẽ có điều kiện đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, thực hiện mục
tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Để làm được điều này, các doanh
nghiệp phải tìm mọi cách nhằm thu hút khách hàng về phía mình, tìm
được chỗ đứng ổn định và lâu dài trên thị trường bằng việc thực hiện các
chiến lược và các giải pháp khác nhau. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh
nghiệp nào tìm được cho mình một lượng khách hàng lớn, hàng hoá dịch
vụ tiêu thụ nhiều sẽ là doanh nghiệp chiến thắng và ngược lại.
1.1.3 Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một trong ba quy luật chi phối cơ chế thị trường.
Nguồn gốc của cạnh tranh là sự tự phát triển trong kinh doanh về quy mô
hoạt động, thành phần tham gia cũng như các sản phẩm tạo thành. Cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường có thể ví như cuộc
chạy đua không có đích, bất kỳ doanh nghiệp nào mà xác định cho mình
một cái đích trong cuộc chạy đua này thì sẽ tạo thành nhịp cầu cho doanh
11
nghiệp khác chạy qua. Tuy nhiên, cạnh tranh lại là cuộc chạy đua trên hai
trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cuộc
cạnh tranh giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Chính vì lý do này mà
cạnh tranh giúp cho giá cả của hàng hoá dịch vụ có xu hướng giảm
xuống, trong khi đó, chất lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng được nâng
cao phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhờ có cạnh
tranh mà các doanh nghiệp này đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vươn
lên trong mọi lĩnh vực, từ việc giảm thiểu chi phí cho đến thực hiện các
mục tiêu chung. Chính điều này đã là động lực giúp các doanh nghiệp
vươn lên trong quá trình tồn tại. Hơn nữa, cạnh tranh còn là công cụ giúp
các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh doanh và cũng nhờ có cạnh
tranh sẽ tạo ra cho doanh nghiệp những thách thức và cơ hội trong kinh
doanh, để từ đó, giúp các doanh nghiệp khai thác mọi cơ hội và tránh
được các rủi ro.
Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trường xuất hiện cơ chế tự điều tiết vĩ
mô, có sự dịch chuyển cơ cấu ngành nghề kinh doanh của các doanh
nghiệp cho phù hợp với điều kiện thực tế thì cạnh tranh sẽ loại bỏ các
doanh nghiệp có chi phí cao, không đáp ứng được nhu cầu xã hội. Đồng
thời, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tiếp tục
phát triển đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Từ đó, cạnh
tranh sẽ tạo nên sự ràng buộc giữa các doanh nghiệp tạo ra một sức mạnh
tổng thể cho sự phát triển qua việc phối hợp hài hoà các chức năng,
12
nhiệm vụ giữa các doanh nghiệp khác nhau trong các ngành kinh tế. Với
sự phối hợp này sẽ giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp diễn ra thông suốt, sản phẩm hàng hoá sản xuất ra tiêu thụ dễ dàng
hơn, các doanh nghiệp sẽ giảm bớt lo lắng là không có thị trường tiêu thụ
những sản phẩm đó.
Tóm lại: Khi có nền kinh tế thị trường thì tất yếu sẽ tồn tại quy luật
cạnh tranh, đó là quy luật góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
xã hội. Tuy nhiên, đứng trên từng giác độ khác nhau thì cạnh tranh luôn
là hai mặt của một vấn đề. Một mặt cạnh tranh là động lực phát triển đối
với mỗi doanh nghiệp. Mặt khác, cạnh tranh lại mang những đe doạ, nguy
cơ tiềm tàng sẵn sàng loại bỏ những thành phần tham gia nền kinh tế thị
trường nếu như không kịp thời thích ứng với nó.
Hơn nữa, cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế,
thay thế những doanh nghiệp khác làm ăn có hiệu quả hơn, đáp ứng được
nhu cầu xã hội, thúc đẩy nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển.
Nhận thức được vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng
trong thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường, phải không ngừng tích luỹ
những kiến thức, sẵn sàng có những ứng xử cần thiết và thích hợp trước
những hoàn cảnh do cạnh tranh mang lại cho doanh nghiệp, cho nền kinh
tế và đất nước.
1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
13
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp
độ của năng lực cạnh tranh
• Khái niệm về sức cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
- Về sức cạnh tranh
Sức cạnh tranh là khái niệm được dùng cho phạm vi doanh nghiệp
trong lý thuyết tổ chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là
có sức cạnh tranh (hay năng lực cạnh tranh) và được đánh giá là có thể
đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc
các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm
cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất
lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức
cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm
năng sản xuất kinh doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang
bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác
và Phát triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp
cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Sức cạnh tranh là khả
năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra
việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.”
- Về năng lực cạnh tranh:
14
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive
Power; Nga: Cancurentia; Pháp: Capacité de Concurrence), khả năng
giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả
khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp (Từ
điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển Bách khoa Hà nội, trang
349). Theo định nghĩa này, có thể thống nhất bốn thuật ngữ hiện đang
được sử dụng: năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh
và tính cạnh tranh đều có nội dung tương tự nhau và hiểu tên của chúng
một cách nhất quán trong đề tài này là "năng lực cạnh tranh".
• Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ:
Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tương
quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh
giá và đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nói chung cần thiết phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa
các cấp độ năng lực cạnh tranh nêu trên. Một mặt, tổng số năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp của một nước tạo thành năng lực cạnh tranh của
15
nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế
khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó
đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trường
kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước (đặc biệt trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế). Trong đó, các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế,
các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của sản phẩm
hàng hoá trong quốc gia đó.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế
thế giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: "năng lực cạnh tranh của một quốc
gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và
các đặc trưng kinh tế khác". Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia
có thể được hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế
chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức
tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý
nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa
chọn của các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị
trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi trường cạnh tranh thuận lợi
sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định chính sách phát triển, cải thiện
đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả, sẽ
ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài
16
những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế ... có 8 yếu tố
chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia, bao gồm:
+ Độ mở cửa kinh tế
+ Vai trò của chính phủ: vai trò và mức độ can thiệp của nhà nước
vào hoạt động cạnh tranh
+ Tài chính ngân hàng
+ Công nghệ: là mức độ đầu tư cho nghiên cứu triển khai (R&D);
trình độ công nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ
+ Cơ sở hạ tầng
+ Hệ thống quản lý, chất lượng quản lý nói chung
+ Lao động: là số lượng và chất lượng lao động, hiệu lực và tính
linh hoạt của thị trường lao động
+ Thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng
cho nền kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của luật
pháp và quyền sở hữu.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba
nhóm lớn để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế,
khoa học công nghệ, tài chính, quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng
tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3. Theo phân
tích và đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì sức vươn lên
17
trong hội nhập, cạnh tranh của nền kinh tế nước ta chưa mạnh, trong khi
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu rất cao tới năng lực
cạnh tranh của các quốc gia và năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia ảnh
hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá:
Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng,
kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì.... hơn hẳn
so với những sản phẩm hàng hoá cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh
của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Sẽ không có những năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau
nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có
được do năng lực cạnh tranh của chủ thể (doanh nghiệp) tạo ra; nhưng
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh
của hàng hoá mà có, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm
hàng hoá có ảnh hưởng lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
18
Trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng
vững chắc, ngày càng mở rộng quy mô hoạt động thì cần phải có một
tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường. Tiềm lực đó chính
là năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp.
"Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng, năng lực
mà doanh nghiệp nhờ vào đó có thể tự duy trì vị trí của mình trên thị
trường cạnh tranh cũng như đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất
là bằng tỷ lệ cho việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp".
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở 4 yếu tố chính: giá
cả, chất lượng sản phẩm, các dịch vụ kèm theo và yếu tố thời gian.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải tìm ra các
phương án tối ưu để giảm chi phí, hạ thấp giá thành, áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt mạng
lưới bán hàng và biết chọn thời điểm bán hàng hợp lý nhằm thu hút khách
hàng và mở rộng thị trường.
Tăng năng lực cạnh tranh là điều tất yếu của mỗi doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường
1.2.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Như trên đã nói, cạnh tranh của doanh nghiệp được diễn ra trong
suốt quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm cạnh
tranh trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá trình
sản xuất và cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, mục tiêu cuối
19
- Xem thêm -