Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ơn mài bình dương chất liệu và nghệ thuật thể hiện [tt]...

Tài liệu ơn mài bình dương chất liệu và nghệ thuật thể hiện [tt]

.PDF
27
226
96

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM Nguyễn Văn Minh SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG CHẤT LIỆU VÀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 62 21 20 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Hà Nội – 2013 1 Công trình được hoàn thành tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. Nguyễn Lương Tiểu Bạch 2. TS. Trịnh Dũng Phản biện 1: PGS.TS. Trương Quốc Bình Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam Phản biện 2: PGS.TS. Lê Bá Dũng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội Phản biện 3: PGS. Lê Anh Vân Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam 32, Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội Vào hồi…….giờ……….ngày……….tháng…….năm 2013 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đồ sơn đã xuất hiện từ rất sớm và lưu truyền qua nhiều thế hệ, ở nhiều nơi trên đất nước ta, từ Phú Thọ, Hà Nam, Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định đến Quảng Bình, Thuận Hóa... và đặc biệt là Bình Dương, nơi tập trung nhiều thợ sơn giỏi và phát triển mạnh nghề sơn mài ở phía Nam. Với lịch sử phát triển gần ba trăm năm, sơn mài trên đất Bình Dương được xem là vốn quý về mỹ thuật, thể hiện bản sắc văn hóa của địa phương. Nó kế thừa đồ sơn và sơn mài cổ truyền, vừa phát huy những giá trị nghệ thuật của dân tộc, vừa tiếp cận với các xu hướng mỹ thuật hiện đại, nên đã sớm định hình và ghi dấu ấn trong lịch sử phát triển vùng đất. Đất nước ta, giống như các nước trong khu vực, có kho tàng văn hóa quý báu, đó là hàng trăm nghề thủ công truyền thống với hàng ngàn chủng loại sản phẩm đa dạng và phong phú, đóng góp tích cực cho văn hóa tiêu dùng trong quá khứ cũng như hiện tại. Song, hiện nay lối sống đô thị, hiện đại đang làm cho một bộ phận người dân VN giảm đi ý thức tiêu dùng những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, một số khác có xu hướng sùng bái hàng ngoại nhập với các chất liệu mới... Sơn mài truyền thống cũng dần bị mai một và không còn nhiều tác phẩm đỉnh cao, có kỹ thuật chế tác và tạo dáng tinh xảo. Với kiểu sản xuất hàng loạt, tiêu dùng ồ ạt, một số người làm sơn mài theo kiểu “hàng chợ”, khiến cho nhiều sản phẩm sơn và tranh sơn mài không còn giữ được vẻ đẹp của sơn mài truyền thống. Họ chạy theo thị hiếu khách hàng cùng sự hào nhoáng của nhiều loại chất liệu “phi sơn ta”, dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém chất lượng có mặt ở khắp các cửa hàng và cả các phòng triển lãm... Từ đó, bắt đầu có dư luận chê kỹ thuật cổ truyền là cổ hủ và một loạt sản 3 phẩm sơn, tranh sơn phủ bạc, dập các màu xanh đỏ rồi phủ lên một lượt sơn bóng Nhật Bản xuất hiện, làm cho vàng thau lẫn lộn. Tình hình trên đã ít nhiều ảnh hưởng và tác động đến chất liệu và nghệ thuật thể hiện của sơn mài Bình Dương. Một trong những hiện trạng nổi bật nhất đó là bên cạnh sơn ta còn có sự hiện diện của sơn Nhật, sơn điều và các loại sơn công nghiệp khác cùng với kỹ thuật sơn phủ bóng, cán láng bề mặt, tạo nên sự thay đổi triệt để trong công nghệ chế tác đồ sơn truyền thống… Đây chính là một thách thức lớn đối với các họa sĩ, nghệ nhân, những doanh nghiệp, cơ sở sơn mài phải tìm hướng đi cho mình trước sự khác biệt ngày càng nhiều giữa các sản phẩm cũ và mới! Để gìn giữ, lưu truyền và phát triển nghệ thuật sơn mài Bình Dương trong xu thế hội nhập hiện nay, luận án Sơn mài Bình Dương – chất liệu và nghệ thuật thể hiện được thực hiện nhằm đóng góp nhận thức về sự hình thành và phát triển, về các giá trị của sơn mài ứng dụng Bình Dương. Đồng thời, giúp các nhà quản lý, nhà doanh nghiệp và người làm nghề sơn nâng cao hơn ý thức giữ gìn, trân trọng nghề sơn mài trong bối cảnh đời sống xã hội và nghê thuật có nhiều chuyển biến, cũng như rút ra những bài học hữu ích cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị nghệ thuật của sơn mài Bình Dương. 2. Tình hình nghiên cứu Về nghề sơn, đồ sơn cổ truyền và sơn mài Việt Nam Theo sách Hải Dương cảnh chí, phần truyện Trần Ứng Long, cho biết, ngay từ đầu thời Đinh (giữa thế kỷ X), chất liệu sơn đã được dùng để trát thuyền phục vụ chiến đấu. Còn Dư địa chí của Nguyễn Trãi, điều thứ XX có ghi: “Huyện Sơn Vi có trĩ trắng, sơn, tơ”. Trong quyển Nghề sơn cổ truyền Việt Nam của Lê Huyên, tác giả đã trình bày, thống kê một cách khoa học và đầy đủ về nguồn gốc nghề sơn, 1 về kỹ thuật, về loại hình và chức năng của đồ sơn thế kỷ XVII – XIX ở đồng bằng Bắc Bộ. Những phát hiện khảo cổ học qua các báo cáo, các tư liệu của Viện Khảo cổ học, Viện Bảo tàng lịch sử, Viện Bảo tàng mỹ thuật, Viện Mỹ thuật… và một số bài viết của các nhà khảo cổ học, nhà nghiên cứu sơn mài về những di vật đồ sơn trong các di tích đình, chùa, đền, miếu, trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân ít nhiều đã phản ánh những thông tin về nguồn gốc nghề sơn, đồ sơn trên đất nước ta. Một số nhà nghiên cứu văn hóa có đề cập đến nghề sơn trong các công trình của mình như Nghề cổ nước Việt của Vũ Từ Trang, Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam của Bùi Văn Vượng. Các giới thiệu này đã khái lược những nét chung nhất về nghề sơn cùng với các nghề thủ công truyền thống khác. Kỷ yếu hội thảo Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam, là quyển sách tập hợp một số tham luận và ý kiến chuyên ngành của các nghệ nhân, họa sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật tại hội thảo khoa học do Viện Mỹ thuật (thuộc Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam) tổ chức tại Hà Nội ngày 14 tháng 4 năm 1999. Nội dung bao gồm các phần về lý luận cơ bản chung của nghề sơn và đồ sơn, về kỹ thuật truyền thống, về sơn mài mỹ nghệ và sơn mài mỹ thuật, cũng như phần đào tạo và chuyển giao công nghệ truyền thống cho thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết, nghiên cứu, khảo luận và giới thiệu về đồ sơn và sơn mài ứng dụng của các họa sĩ, nhà nghiên cứu như: “Đồ sơn cổ truyền” của Du Chi và Hoài Linh; “Sơn quang dầu – một loại hình mỹ thuật trang trí dân gian cần được phục hồi phát triển” của Lê Quốc Lộc; “Thủ công mỹ nghệ có còn là một bộ phận của mỹ thuật?” của Vũ Huy Thiều; “Về ngành nghề sơn mài và sơn quang dầu của ta” của Nguyễn Đức Cường; v.v… Những bài viết trên đã khẳng định giá trị tinh thần và ứng dụng của nghề sơn truyền 2 thống như là một bộ phận không thể thiếu của mỹ thuật nước nhà, vừa phục vụ nhu cầu thẩm mỹ vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng trong đời sống hàng ngày, cần phải được quan tâm giữ gìn và phát triển. Đặc biệt, về nghệ thuật sơn mài có các công trình nghiên cứu tổng hợp của Nguyễn Quang Phòng trong quyển Các họa sĩ Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương; Quang Việt trong quyển Hội họa sơn mài Việt Nam và một số bài viết gần đây của ông trên Tạp chí Mỹ thuật của Hội Mỹ thuật Việt Nam, đã giới thiệu chi tiết về lịch sử nghề sơn, sự ra đời và phát triển của hội họa sơn mài Việt Nam qua các trích dẫn tư liệu nước ngoài, các nhân chứng, đối chiếu và bình chú hết sức sâu sắc. Về kỹ thuật có sách Kỹ thuật sơn mài của Phạm Đức Cường… Ngoài ra, còn nhiều bài viết, trao đổi trên các báo, tạp chí chuyên ngành như “Nghệ thuật sơn mài 30 năm qua” của Phạm Văn Đôn; “Về khả năng diễn tả của sơn mài Việt Nam” của Lê Kim Mỹ; “Về bước phát triển của tranh sơn mài” của Sỹ Ngọc; “Chất liệu sơn ta và giá trị của nó trong hội họa” của Nguyễn Vinh Phúc; “Tranh sơn mài Việt Nam” của Trần Đình Thọ; “Giữ vững tính truyền thống, phát huy cái đẹp trong nghệ thuật sơn mài hiện đại Việt Nam” của Trần Thức; “Đôi nét về tiến trình phát triển của tranh sơn mài Việt Nam” của Đặng Thanh Vân; “Sơn mài” của Tô Ngọc Vân; v.v… đã nhận định, phân tích và tổng hợp về các tác giả, tác phẩm của một giai đoạn sáng tác, về tiến trình phát triển của tranh sơn mài cũng như vai trò, khả năng diễn tả của chất liệu sơn mài, trình bày những đúc kết kinh nghiệm và những thành quả, những nét đặc trưng trong nghệ thuật thể hiện mang tính truyền thống của nghệ thuật hội họa sơn mài Việt Nam. Về sơn mài Bình Dương Có nhiều công trình nghiên cứu, khảo luận, bài viết… đã xuất bản hoặc đăng rải rác trên các báo, tạp chí và sách như: Gia Định 3 thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, có mô tả về cảnh sinh hoạt, làm đồ sơn của cư dân Bình Dương xưa ở làng Tương Bình Hiệp, Địa chí Bình Dương, Địa chí Sông Bé, Thủ Dầu Một – Bình Dương 300 năm hình thành và phát triển, Thủ Dầu Một – Bình Dương đất lành chim đậu, trong phần mỹ thuật có giới thiệu về nghề sơn mài nhưng ở dạng tổng quát lịch sử hình thành chung với các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống khác như gốm, điêu khắc gỗ… nhưng chưa phân tích sâu các yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật. Sơn mài Bình Dương vận dụng kỹ thuật truyền thống trong sáng tác nghệ thuật của Thái Kim Điền và Mỹ thuật Bình Dương xưa và nay là hai công trình nghiên cứu khá sâu về kỹ thuật chuyên môn. Nhưng do giới hạn đề tài nên chưa nghiên cứu toàn diện về nghề sơn mài BD trong quá trình tiến triển của lịch sử có những đặc điểm kỹ thuật và nghệ thuật riêng. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của một số nhà nghiên cứu như: Cao Xuân Phách, Huỳnh Ngọc Trảng… và các phóng viên trong cả nước, đã được đăng rải rác trên các báo Bình Dương, Phụ nữ, Thanh niên, Tuổi trẻ, các tạp chí Xưa và Nay, Mỹ thuật… Nhìn chung, tuy các bài viết, các bài nghiên cứu không hoàn toàn đề cập trực tiếp đến đề tài nghiên cứu hay chỉ đề cập đến khía cạnh tổng quát hoặc một phần của đề tài nhưng đó là những tư liệu quý, có giá trị khoa học, gợi mở cho tác giả luận án nghiên cứu về đặc điểm, tiến trình hình thành nghề sơn và các giá trị nghệ thuật sơn mài Bình Dương trong bối cảnh sơn mài truyền thống Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu tổng quan về đồ sơn và nghệ thuật sơn mài Việt Nam, để thấy được tiến trình hình thành và phát triển sơn mài Bình Dương trên nền tảng của sơn mài truyền thống Việt Nam. 4 Nghiên cứu nghệ thuật sơn mài Bình Dương, qua đó, khẳng định những thành tựu, giá trị nghệ thuật và đóng góp của các nghệ nhân, họa sĩ đối với sự phát triển vượt bậc của nghề sơn mài, đặc biệt là loại hình sơn mài ứng dụng. Qua nghiên cứu chất liệu và nghệ thuật thể hiện sơn mài Bình Dương, tổng hợp và đúc kết các giá trị thẩm mỹ để làm cơ sở đưa ra các yếu tố hợp lý, cần thiết trong việc thể nghiệm và sử dụng chất liệu và xây dựng tiêu chí các loại sản phẩm sơn mài. Nghiên cứu thực trạng và xu hướng phát triển của sơn mài ứng dụng Bình Dương. Từ đó, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị nghệ thuật của nó, sự cần thiết xây dựng các chiến lược củng cố làng nghề, doanh nghiệp, hiệp hội sơn mài và nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu mới của thời đại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Luận án chọn loại hình sơn mài làm đối tượng nghiên cứu chính và tập trung vào chất liệu và nghệ thuật thể hiện của sơn mài Bình Dương. Những thành tựu nghệ thuật và nét đẹp truyền thống mà sơn mài Bình Dương đã đạt được trong một thế kỷ qua, nhất là từ những năm 1940 đến nay, ở mảng sơn mài ứng dụng. Phạm vi nghiên cứu Trong luận án phạm vi nghiên cứu chủ yếu là quá trình hình thành và phát triển, những đặc trưng về chất liệu và nghệ thuật của sơn mài ứng dụng Bình Dương. Về thời gian, luận án tập trung tìm hiểu sơn mài Bình Dương từ đầu thế kỷ XX đến nay (2013), được nhìn theo từng thời điểm lịch sử để bảo đảm tính liên tục trong nghiên cứu quá trình phát triển có những đặc điểm và kế thừa riêng. 5. Phương pháp nghiên cứu 5 Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận án phân tích và nhận định các vấn đề trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. Luận án thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử mỹ thuật nên phương pháp nghiên cứu nghệ thuật học có vai trò chủ đạo. Đặc biệt là luận án sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, mô phỏng các tác phẩm, sản phẩm thông qua việc tham khảo các bài viết, các nghiên cứu và trao đổi trực tiếp với các họa sĩ, nghệ nhân, nhà nghiên cứu mỹ thuật trong nước và nước ngoài để khai thác nguồn tài liệu. Đề tài được thực hiện trên cơ sở khảo sát điền dã, qua đó tổng hợp, đánh giá rút ra những giá trị cơ bản, những đặc trưng chất liệu và nghệ thuật thể hiện của sơn mài Bình Dương. Tác giả còn sử dụng phương pháp dựa trên thành tựu của các ngành khoa học có liên quan như phương pháp tiếp cận liên ngành (sử học, văn hóa học, xã hội học, dân tộc học, triết học, mỹ thuật học… ) để nghiên cứu một cách tổng quát mối quan hệ biện chứng giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện, giữa sơn mài ứng dụng và sơn mài hội họa, nhằm giải quyết các vấn đề mỹ thuật ứng dụng nói chung và sơn mài Bình Dương nói riêng một cách căn bản theo quy luật phát triển của lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam. 6. Đóng góp khoa học và thực tiễn của luận án Luận án là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống lý luận tổng hợp về lịch sử hình thành nghề sơn và nghệ thuật sơn mài Bình Dương trong tiến trình phát triển của sơn mài truyền thống Việt Nam. Luận án đã chứng minh và lý giải: sự phong phú và đa dạng về chủng loại, thể loại và đề tài của sơn mài ứng dụng Bình Dương trong nền kinh tế thị trường là tích hợp của nhiều yếu tố mang giá trị truyền thống. Giá trị đó chính là bệ đỡ đảm bảo cho sơn mài Bình 6 Dương phát triển theo hướng hiện đại với xu hướng thẩm mỹ - ứng dụng có tính nghệ thuật cao. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định vị thế của sơn mài ứng dụng Bình Dương trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội. Sơn mài Bình Dương có những cái chung với các vùng khác, nhưng cũng có những đặc trưng của địa phương, góp phần vào kho tàng văn hóa dân tộc. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận và kiến nghị (7 trang), tài liệu tham khảo (10 trang), phụ lục (66 trang). Phần nội dung chính của luận án được chia ra làm ba chương theo trình tự như sau: Chương I: Sơn mài Bình Dương trong bối cảnh sơn mài Việt Nam (40 trang). Chương II: Nghệ thuật sơn mài ứng dụng Bình Dương (44 trang). Chương III: Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật sơn mài Bình Dương (43 trang). Chương 1 SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG TRONG BỐI CẢNH SƠN MÀI VIỆT NAM 1.1. Giới thuyết khái niệm 1.1.1. Chất liệu Chất liệu vừa là một khái niệm cụ thể, vừa là một khái niệm trừu tượng. Cụ thể khi ta hiểu chất liệu là vật chất, là cái hữu hình, cái có thể sờ được, thấy được và trừu tượng khi chất liệu là cảm giác về chất, là cái vô hình, hay nói cách khác, là xúc cảm về chất liệu thông qua nghệ thuật thể hiện của người nghệ sĩ. 1.1.2 .Sơn mài 7 Sơn – vẽ bằng chất sơn ta. Mài – mài vẽ sau khi thực hiện nhiều công đoạn và ủ khô. Sơn mài là một chất liệu mỹ thuật để chỉ các tác phẩm hội họa sơn mài, nhưng từ lâu do thói quen trong dân gian và trong cả các làng sơn truyền thống, người ta thường gọi chung các sản phẩm có sử dụng sơn ta là “sơn mài”. Do đối tượng nghiên cứu của luận án khá rộng nên chúng tôi tạm sử dụng thuật ngữ sơn mài cho các dạng kỹ thuật và loại hình sản phẩm, tác phẩm có sử dụng sơn ta như: sơn mài mỹ nghệ (sơn mài ứng dụng), sơn mài nhẵn (phẳng), sơn mài đắp nổi… 1.1.3. Hội họa sơn mài Thuật ngữ chỉ các hoạt động sáng tạo hội họa (tranh vẽ) bằng chất liệu sơn ta, phủ dày và mài vẽ. Đây là những tác phẩm biểu đạt tư tưởng và tình cảm của người nghệ sĩ trước cuộc sống xã hội, thông qua ngôn ngữ tạo hình và phương thức diễn tả, tái tạo thế giới khách quan bằng các hình tượng điển hình mang tính kinh viện, bao gồm: khả năng biểu cảm, sự diễn đạt và yếu tố thẩm mỹ. Hội họa sơn mài được xem là một ngành của mỹ thuật tạo hình và được thể hiện thông qua nhiều thể loại như: sơn mài phẳng, sơn mài đắp nổi, sơn khắc… 1.1.4. Sơn mài ứng dụng Là loại hình sơn mài sử dụng các phương tiện tạo hình để sáng tạo nên thế giới đồ vật mang tính thẩm mỹ và công năng. Nó là sản phẩm được hình thành qua quá trình sáng tác mỹ thuật và được thể hiện bởi quy trình công nghệ, vừa mang tính thực dụng, phục vụ nhu cầu đời sống vật chất của con người, đồng thời vừa mang tính thẩm mỹ, đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần. Bao gồm các sản phẩm đồ sơn dân gian, sơn mài mỹ nghệ, có phương thức chế tác cả thủ công, công nghiệp và có hình thức mỹ thuật mang yếu tố thẩm mỹ của thời đại thông qua sự chi phối của các ngành đi-dai (design). 8 1.2. Khái quát lịch sử nghề sơn và nghệ thuật sơn mài Việt Nam 1.2.1. Nghề sơn từ thời tiền sử đến năm 1858 Đồ sơn nước ta xuất hiện khá sớm ở châu thổ Bắc Bộ. Kết quả khai quật cho thấy niên đại của những di vật và những dụng cụ làm sơn trong các ngôi mộ tương đương với thời gian tồn tại của văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay trên hai nghìn năm. Các di vật và thư tịch không được liên tục, nhưng cũng đã đánh dấu sự hưng khởi của đồ sơn ở thời kỳ độc lập và phát triển của Phật giáo bằng sự có mặt trong một số loại hình đơn giản, trong đồ thờ, đồ tùy táng… gắn liền với kiến trúc chùa chiền, dinh thự. Đồ sơn thật sự trở thành đối tượng sử dụng trong cuộc sống đời thường của nhân dân và phát triển cao trong các giai đoạn tiếp sau từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX ở khắp các làng xã Việt Nam với số lượng và loại hình đa dạng… Đồ sơn không chỉ phục vụ kiến trúc tôn giáo mà đã đi vào nhu cầu của người dân, không chỉ là những vật dung đơn thuần mà trong nó đã được nâng lên thành hàng hóa, mang tính thẩm mỹ. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1985 Từ đầu thế kỷ XX, các Trường Mỹ thuật được thành lập, đặc biệt là Trường Mỹ thuật Đông Dương, nghề sơn nước ta có những chuyển biến lớn: bên cạnh các di vật đồ sơn và các sản phẩm sơn mài ứng dụng mang tính mỹ nghệ trang trí, hội họa sơn mài đã ra đời trên nền tảng nghề sơn cổ truyền, qua tìm tòi thể nghiệm bằng việc cách tân với tinh thần dân tộc của các nghệ nhân và họa sĩ. Sự kiện này đã làm cho nghệ thuật sơn mài thêm khởi sắc, đặc biệt là sơn mài ứng dụng, do có sự cộng hưởng song hành giữa nền tảng kỹ thuật đồ sơn mỹ nghệ và tác động của nghệ thuật thể hiện hội họa sơn mài, góp phần làm nên những đặc trưng của sơn mài ứng dụng Việt Nam nói chung và Bình Dương nói riêng. 9 1.2.3. Giai đoạn từ 1986 đến nay (2012) Từ khi đất nước thực hiện chính sách đổi mới “mở cửa”, các họa sĩ có điều kiện tiếp cận nhiều xu hướng sáng tác trên thế giới, từ các trường phái, thể loại như: Ấn tượng, Trừu tượng, Biểu hiện, Siêu thực, Lập thể… đến các xu hướng mỹ thuật hiện đại như Sắp đặt, Trình diễn… cùng các chất liệu vô cùng phong phú, các hình thức biểu đạt đa dạng trên thế giới cũng diễn ra gần như vậy trên đất nước ta nhưng với quy mô nhỏ hơn. Các xu hướng mỹ thuật trên thế giới là chất xúc tác, kích thích, góp vào sự tìm kiếm giá trị nghệ thuật mới của các nghệ nhân, họa sĩ. Các hình thức nghệ thuật đã làm đa dạng, sôi động cho sơn mài hội họa và sơn mài ứng dụng hiện nay. 1.3. Nhận diện sơn mài truyền thống Việt Nam 1.3.1. Các loại hình sơn mài truyền thống Sơn mài truyền thống là loại hình nghệ thuật độc đáo mà trong nó chứa đựng cả văn hóa vật thể và phi vật thể qua các hình thức mang tính chuyên môn và lịch sử theo trình tự sau: Đồ sơn trang trí: bao gồm các đồ thờ trong chùa, đền, đình, miếu, cung điện. Các cột kiến trúc, hoành phi, cửa võng, câu đối, khám, vật linh, tứ linh, tứ quý, bát bửu, kiệu, võng, long đình, tranh thờ... mang đậm yếu tố tâm linh, phù hợp với tín ngưỡng dân gian và thẩm mỹ dân tộc. Sơn mài ứng dụng: bao gồm các đồ hiếu, các đồ hỷ, đồ dùng: hộp, khay, khung, khảm, thúng..., đồ gia dụng: tủ, bàn, ghế, bình hoa, bình phông..., đồ lưu niệm, tặng phẩm, tranh mỹ nghệ... mang yếu tố ứng dụng – thẩm mỹ. Tranh sơn mài (hội họa sơn mài): qua các tác phẩm thể nghiệm, nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật cổ truyền vào việc sáng tác nghệ thuật của các nghệ nhân và họa sĩ Trường Mỹ thuật Đông Dương. Từ đó, được các thế hệ họa sĩ tiếp tục phát triển đến nay. 10 Qua ba loại hình của sơn mài truyền thống Việt Nam cho ta nhận định: để có được vẻ đẹp của một sản phẩm hay một tác phẩm sơn mài, không chỉ đơn thuần ở kỹ xảo, kỹ năng chế tác mà nó còn được tạo ra bởi sự kết hợp giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện bằng khả năng tạo hình và kinh nghiệm tạo chất bề mặt (matière). Đặc biệt là việc ứng dụng chất sơn ta kết hợp với các chất liệu gốm, đá, tre, giấy, kim loại, thủy tinh v.v... để tạo những hiệu ứng “muôn màu muôn vẻ” do những đặc điểm về chất liệu đã quyết định rất lớn đến cách diễn tả trong sơn mài. 1.3.2. Mối quan hệ giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện trong sơn mài Việt Nam Chất liệu của sơn mài truyền thống chính là sơn ta. Chất liệu sơn ta, với các tính năng ưu việt về mặt lý, hóa, cơ học, còn là chất “cảm” trầm ấm và sâu thẳm của nó. Nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp của chất liệu trong tác phẩm cũng chính là sự nắm bắt vững vàng và sâu sắc các đặc điểm, kỹ thuật riêng của chất liệu, làm cho chất liệu trở thành một yếu tố không thể thay đổi của tác phẩm. Ngược lại, với cấu trúc tác phẩm qua các ngôn ngữ tạo hình của mình, người nghệ sĩ phải khẳng định được chỉ có chất liệu ấy, duy nhất, chuyển tải được tiếng nói của hình tượng và nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm. Tiểu kết Nghệ thuật sơn mài Việt Nam nói chung và sơn mài Bình Dương nói riêng là thành tố tăng thêm giá trị của cái đẹp trong cuộc sống hòa lẫn với tinh thần, tín ngưỡng của cộng đồng, là “kết quả tích hợp của hai luồng kiến thức: cổ truyền dân gian và bác học”. Chất liệu không chỉ là nội dung, là điều kiện mà còn là hình thức nghệ thuật thể hiện của tác phẩm. Mỗi chất liệu tạo hình đều mang những vẻ đẹp đặc trưng và người nghệ sĩ luôn đi tìm cách để thể hiện được đặc trưng ấy. Điều đó cũng chính là mối quan hệ tương 11 tác giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện trong mỹ thuật. Trên cơ sở lý luận đó mà tác giả luận án chọn mối quan hệ giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện làm cơ sở để nghiên cứu nghệ thuật sơn mài ứng dụng Bình Dương và tập trung giải quyết vấn đề này trong chương 2 của luận án. Chương 2 NGHỆ THUẬT SƠN MÀI ỨNG DỤNG BÌNH DƯƠNG 2.1. Lịch sử sơn mài Bình Dương 2.1.1. Vài nét về vùng đất và con người Bình Dương Trải qua hơn ba thế kỷ, vùng đất Bình Dương từ chỗ hoang vu đã trở thành đất lành cho mọi người đến làm ăn sinh sống. Quá trình tạo dựng, phát triển đến nay, qua biết bao thế hệ nối tiếp nhau khai phá và xây dựng. Trong suốt quá trình lịch sử ấy, vùng đất và con người ở đây luôn gắn bó và hòa quyện vào nhau, tác động lẫn nhau, ngày một phát triển phồn vinh. 2.1.2. Tiến trình hình thành và phát triển nghề sơn mài và làng nghề sơn mài ở Bình Dương 2.1.2.1. Tiến trình hình thành và phát triển Kể từ năm 1698 trở đi, sau cuộc khai hoang lập ấp của Lễ Thành hầu – Nguyễn Hữu Cảnh, người Việt đến định cư trên đất Bình Dương đông đảo nhất. Sự chuyển cư và hội nhập nhiều thành phần dân tộc ngày một tăng nhưng được thiên nhiên ưu đãi, điều kiện địa lý và tự nhiên thuận lợi nên cùng với Sài Gòn, Biên Hòa, Bình Dương có nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh với việc xuất hiện các cụm dân cư mang tính chất đô thị (dù là ở dạng sơ khai). Sản xuất nông nghiệp phát triển, nhu cầu đời sống đô thị đã chuyển một bộ phận lao động thành những người thợ. Những yếu tố này đã làm cho nghề sơn phát triển, ban đầu chỉ mang tính tự cung tự cấp hoặc là 12 trao đổi bằng sản vật, dần dần việc sản xuất được chuyên môn hóa, đã dẫn đến sự hình thành các địa danh quen thuộc như: sơn mài Tương Bình Hiệp, Phú Cường, Tân An, Bến Thế... Đầu thế kỷ XX, trường Mỹ thuật Bình Dương được thành lập (năm 1901) đã góp phần quan trọng vào sự hình thành, duy trì và phát triển nghệ thuật sơn mài tại Bình Dương. 2.1.2.2. Sự hội tụ các yếu tố cơ bản của nghệ thuật sơn mài Bình Dương Những tuyến đường bộ và đường sông dày đặc, bao bọc xung quanh đã giúp cho giao thông ở Bình Dương vô cùng thuận lợi, có thể nối liền với các cảng biển; những khu rừng nhiều loại gỗ quý cùng với nhịp độ phát triển nhanh chóng đó của nền nông nghiệp đã thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho thủ công nghiệp dần dần tách khỏi nông nghiệp và có một bộ phận đi vào chuyên môn hóa đã tạo điều kiện cho Bình Dương nhanh chóng phát triển nghề sơn mài. Sự năng động của lớp lưu dân đã khai phá, bám trụ và biết tận dụng những lợi thế từ thiên nhiên sẵn có và từ nhu cầu của cư dân lúc nông nhàn, cùng với kinh nghiệm mang theo trong hành trang, là những yếu tố tiên quyết để người dân có thể làm ra các vật dụng thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày. Theo thời gian, các sản phẩm nghề thủ công ngày một nổi tiếng và trở thành hàng hóa thương mại trong nước và nước ngoài. Nhiều lớp thợ, nghệ nhân từ miền Bắc, miền Trung vào định cư có tay nghề cao, điêu luyện trong lĩnh vực làm đồ sơn, chạm trổ, khảm xà cừ… Cộng với lớp nghệ nhân, họa sĩ được đào tạo có hệ thống về kỹ năng và kiến thức tại các trường Mỹ thuật Bình Dương, trường Mỹ thuật Đông Dương, trường vẽ Gia Định… đã trở thành 13 đội ngũ chuyên nghiệp để giảng dạy, truyền bá các kỹ thuật chế tác và sáng tác bằng chất liệu sơn ta. Bên cạnh nguồn sơn ta từ miền Bắc, tỉnh Bình Dương có đường biên giới với Campuchia nên chất sơn từ Nam Vang (Phnôm Pênh) được đưa về đây một cách nhanh chóng và dễ dàng. Nguồn chất liệu phong phú đã giúp cho sơn mài thêm điều kiện phát triển, đa dạng về nghệ thuật thể hiện với nhiều chủng loại, thể loại. 2.1.3. Làng nghề sơn mài Bình Dương Những cuộc di dân đến huyện Bình An lập nghiệp từ giữa thế kỷ XVII – XVIII, các cư dân đã dần hình thành và phát triển nghề từ quê cha đất tổ để định hình thành làng nghề sơn mài tại đây. Trên địa bàn rộng lớn, từ Thủ Dầu Một chạy dài theo bờ sông Sài Gòn ở phía Tây là nơi các cư dân tập trung làm nghề nhiều nhất, như: Tương Bình Hiệp, Phú Cường, Tân An, Bến Thế… Trong đó, có xã Tương Bình Hiệp và Phú Cường là hai nơi quy tụ đông và mạnh những hộ và cơ sở làm nghề, trở thành làng nghề sơn mài tiêu biểu tại Bình Dương: làng sơn mài Tương Bình Hiệp nổi tiếng khắp cả nước và được xem là chiếc nôi của ngành sơn mài Bình Dương và làng sơn mài Phú Cương với xưởng sơn mài Thành Lễ (thành lập năm 1943), có quy mô lớn mạnh nhất tại Bình Dương thời bấy giờ, đồng thời quy tụ nhiều nghệ nhân, họa sĩ và các hộ dân gia công. 2.2. Chất liệu sơn mài Bình Dương 2.2.1. Các loại chất liệu Chất liệu sơn mài ứng dụng Bình Dương ngoài nền tảng sơn Phú Thọ truyền thống, còn là sự kết hợp pha trộn với sơn Nam Vang theo một tỷ lệ nhất định (thường thì 7 phần sơn Phú Thọ và 3 phần sơn Nam Vang), được các nghệ nhân quan tâm và thể nghiệm, đã đáp ứng được yêu cầu của thị trường mà vẫn giữ được chất lượng gần 14 như sơn ta, phù hợp với yêu cầu và tính chất của các sản phẩm trang trí. Cách pha chế sơn của các nghệ nhân và họa sĩ sơn mài Bình Dương không khác nhiều so với cách pha chế sơn cổ truyền của các nghệ nhân, họa sĩ miền Bắc. Tuy nhiên, do nguồn sơn sống được lấy từ nhiều nơi, chủng loại và mẫu mã đa dạng nên ngoài các loại sơn được pha chế theo truyền thống như: sơn cánh gián, sơn then (đen), sơn phủ, còn có các loại sơn đặc trưng của Bình Dương đó là: Sơn cầm sắc (người dân địa phương hay gọi lệch âm là sơn “cẩm sách”) – được pha chế từ lớp mật dầu trên cùng sau khi để lắng các lớp nhựa sơn sống, pha thêm nhựa thông, đánh chín, dùng để phủ lên bề mặt sản phẩm hoặc tranh có dát (thếp) vàng, bạc. Sơn marông – một màu son đặc trưng của Bình Dương, có sắc đỏ nâu trầm, ấm, được pha từ bột chu đỏ với bột chu hồng cánh sen và sơn cánh gián theo một liều lượng phù hợp. 2.2.2. Quy trình xử lý chất liệu Bên cạnh việc thể nghiệm các chất liệu trên, để có một sản phẩm hay một bức tranh sơn mài đạt hiệu quả và có giá trị nghệ thuật, người thợ làm tranh cần phải tuân thủ theo trình tự 25 công đoạn trong quy trình thể hiện, với những quy định khắt khe từ khâu kỹ thuật làm cốt (nền), làm vóc đến khi hoàn chỉnh sản phẩm cho từng loại vật liệu phối hợp trong các chủng loại sản phẩm, đã được các nghệ nhân Bình Dương đúc kết như sau: mài gỗ (xử lý cốt mộc), trét, trám lỗ thủng (nghè gỗ), lót sớ gỗ (sơn bó), phất vải (nải vải), mài nhám vải (mài bó), hom sớ vải, hom chu (hom bó), mài hom chu (mài hom), lót, mài lót, quang (sơn thí), mài sơn quang (mài thí), vẽ hình, phủ (toát), mài phủ và sửa chữa, đánh bóng. Một số tranh và sản phẩm đặc biệt, ngoài việc tuân thủ theo những quy trình trên thì còn thêm một số công đoạn và yêu cầu kỹ 15 thuật khác nữa, như: đối với sản phẩm cẩn ốc, cẩn vỏ trứng, vừa cẩn ốc, vừa cẩn vỏ trứng, sản phẩm cẩn tre, cẩn lá cây, vỏ cây, sản phẩm bình soa, đĩa soa, sản phẩm dát vàng, bạc lá. Với nhiều nguyên vật liệu mới hiện có trên thị trường, sơn mài ứng dụng Bình Dương ngày nay hầu hết được thực hiện qua quy trình công nghệ khép kín dựa trên nhiều loại máy móc chuyên dụng. Trong thể hiện, xu hướng kết hợp các chất liệu cũ, mới khá phổ biến. Nền cốt, vóc cũng đa dạng, đồng thời đội ngũ thợ ngày một chuyên nghiệp, mang tính công nghiệp cao trong gia công chế tác và vận hành thiết bị. 2.3. Nghệ thuật thể hiện Từ vốn kỹ thuật sơn mài truyền thống đã qua nhiều thế kỷ, hiện nay ở Bình Dương không chỉ tồn tại kỹ thuật sơn son thếp vàng hay sơn then mà còn xuất hiện nhiều loại sản phẩm sơn mài với hình thức phát triển khá độc đáo, được các nghệ nhân, họa sĩ dày công nghiên cứu và giữ gìn trong quá trình thể hiện, như: sơn lộng, vẽ lặn (vẽ chìm) mỏng, vẽ phủ mài, vẽ phấn keo, khoét trũng (còn gọi là sơn khắc - coromandel), đắp nổi, cẩn ốc (xà cừ), cẩn vỏ trứng, vẽ lặn phức tạp. Qua thực tế, có một số hình thức thể hiện ít được áp dụng hoặc có những kỹ thuật gần giống nhau nên dần dần được các nghệ nhân, họa sĩ chọn lựa và định hình trong bốn tên gọi cho các hình thức thể hiện được sử dụng nhiều nhất hiện nay, đó là: vẽ lắc (laque), đắp nổi, vẽ vàng, Vẽ công-trơ-dua (contre-jours). Ngày nay sơn mài ứng dụng Bình Dương đã có nhiều thay đổi cơ bản. Để đáp ứng thị hiếu mới, đòi hỏi sản phẩm sơn mài phải đạt giá trị thẩm mỹ – ứng dụng cao, vừa đẹp, bền nhưng lại phải tiết kiệm nguyên liệu, thời gian, công lao động, quy trình sản xuất phải 16 đơn giản nhưng vẫn bảo đảm được hiệu quả tối ưu về mặt kinh tế, nghệ thuật và môi trường. Tiểu kết Ngoài việc đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, sơn mài Bình Dương đã từng là thú tiêu khiển lúc nông nhàn của cư dân Việt xưa trên vùng đất có nhiều thuận lợi về thiên nhiên, địa lý, có mối giao lưu và cộng cư nhiều dân tộc. Do đó, nghề sơn mài ở đây sớm định hình và phát triển cao qua nghệ thuật thể hiện phong phú và đa dạng với quy trình xử lý chất liệu cổ truyền hết sức nghiêm ngặt. Nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt và những đổi thay nhanh chóng, liên tục trong chất liệu và hình thức thể hiện của sơn mài ứng dụng Bình Dương cũng là tất yếu của thời đại. Điều quan trọng đó là xác lập quy trình công nghệ trong sản xuất nhưng không làm mất đi chất lượng sản phẩm, không làm mất đi nét đẹp đặc trưng và các giá trị nghệ thuật vốn có của nó. Chương 3 BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA NGHỆ THUẬT SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG 3. 1 Những giá trị của nghệ thuật sơn mài Bình Dương 3.1.1 Giá trị kinh tế, văn hóa và xã hội Các sản phẩm sơn mài ứng dụng không chỉ mang lại giá trị kinh tế trong nước mà còn đem lại giá trị cao trong việc xuất khẩu. Đồng thời giải quyết việc làm cho một số cư dân lao động trong tỉnh và các vùng lân cận. Ngoài vai trò về kinh tế – xã hội, sơn mài Bình Dương còn có vai trò hết sức to lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Mỗi một làng nghề là một địa chỉ văn hóa, phản ánh nét văn hóa độc đáo của từng địa phương, từng vùng miền. Lịch sử phát triển nghề 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất