BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
Nguyễn Văn Minh
SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG
CHẤT LIỆU VÀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 62 21 20 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội – 2013
1
Công trình được hoàn thành tại:
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. Nguyễn Lương Tiểu Bạch
2. TS. Trịnh Dũng
Phản biện 1:
PGS.TS. Trương Quốc Bình
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
Phản biện 2:
PGS.TS. Lê Bá Dũng
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Phản biện 3:
PGS. Lê Anh Vân
Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
32, Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi…….giờ……….ngày……….tháng…….năm 2013
Có thể tìm hiểu luận án tại:
-
Thư viện Quốc gia Việt Nam
-
Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đồ sơn đã xuất hiện từ rất sớm và lưu truyền qua nhiều thế hệ, ở
nhiều nơi trên đất nước ta, từ Phú Thọ, Hà Nam, Hà Tây, Bắc Ninh,
Nam Định đến Quảng Bình, Thuận Hóa... và đặc biệt là Bình Dương,
nơi tập trung nhiều thợ sơn giỏi và phát triển mạnh nghề sơn mài ở
phía Nam. Với lịch sử phát triển gần ba trăm năm, sơn mài trên đất
Bình Dương được xem là vốn quý về mỹ thuật, thể hiện bản sắc văn
hóa của địa phương. Nó kế thừa đồ sơn và sơn mài cổ truyền, vừa
phát huy những giá trị nghệ thuật của dân tộc, vừa tiếp cận với các xu
hướng mỹ thuật hiện đại, nên đã sớm định hình và ghi dấu ấn trong
lịch sử phát triển vùng đất.
Đất nước ta, giống như các nước trong khu vực, có kho tàng văn
hóa quý báu, đó là hàng trăm nghề thủ công truyền thống với hàng
ngàn chủng loại sản phẩm đa dạng và phong phú, đóng góp tích cực
cho văn hóa tiêu dùng trong quá khứ cũng như hiện tại. Song, hiện
nay lối sống đô thị, hiện đại đang làm cho một bộ phận người dân
VN giảm đi ý thức tiêu dùng những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, một
số khác có xu hướng sùng bái hàng ngoại nhập với các chất liệu
mới... Sơn mài truyền thống cũng dần bị mai một và không còn nhiều
tác phẩm đỉnh cao, có kỹ thuật chế tác và tạo dáng tinh xảo.
Với kiểu sản xuất hàng loạt, tiêu dùng ồ ạt, một số người làm
sơn mài theo kiểu “hàng chợ”, khiến cho nhiều sản phẩm sơn và
tranh sơn mài không còn giữ được vẻ đẹp của sơn mài truyền thống.
Họ chạy theo thị hiếu khách hàng cùng sự hào nhoáng của nhiều loại
chất liệu “phi sơn ta”, dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém chất
lượng có mặt ở khắp các cửa hàng và cả các phòng triển lãm... Từ đó,
bắt đầu có dư luận chê kỹ thuật cổ truyền là cổ hủ và một loạt sản
3
phẩm sơn, tranh sơn phủ bạc, dập các màu xanh đỏ rồi phủ lên một
lượt sơn bóng Nhật Bản xuất hiện, làm cho vàng thau lẫn lộn.
Tình hình trên đã ít nhiều ảnh hưởng và tác động đến chất liệu
và nghệ thuật thể hiện của sơn mài Bình Dương. Một trong những
hiện trạng nổi bật nhất đó là bên cạnh sơn ta còn có sự hiện diện của
sơn Nhật, sơn điều và các loại sơn công nghiệp khác cùng với kỹ
thuật sơn phủ bóng, cán láng bề mặt, tạo nên sự thay đổi triệt để
trong công nghệ chế tác đồ sơn truyền thống… Đây chính là một
thách thức lớn đối với các họa sĩ, nghệ nhân, những doanh nghiệp, cơ
sở sơn mài phải tìm hướng đi cho mình trước sự khác biệt ngày càng
nhiều giữa các sản phẩm cũ và mới!
Để gìn giữ, lưu truyền và phát triển nghệ thuật sơn mài Bình
Dương trong xu thế hội nhập hiện nay, luận án Sơn mài Bình Dương
– chất liệu và nghệ thuật thể hiện được thực hiện nhằm đóng góp
nhận thức về sự hình thành và phát triển, về các giá trị của sơn mài
ứng dụng Bình Dương. Đồng thời, giúp các nhà quản lý, nhà doanh
nghiệp và người làm nghề sơn nâng cao hơn ý thức giữ gìn, trân
trọng nghề sơn mài trong bối cảnh đời sống xã hội và nghê thuật có
nhiều chuyển biến, cũng như rút ra những bài học hữu ích cho việc
bảo tồn, phát huy các giá trị nghệ thuật của sơn mài Bình Dương.
2. Tình hình nghiên cứu
Về nghề sơn, đồ sơn cổ truyền và sơn mài Việt Nam
Theo sách Hải Dương cảnh chí, phần truyện Trần Ứng Long,
cho biết, ngay từ đầu thời Đinh (giữa thế kỷ X), chất liệu sơn đã được
dùng để trát thuyền phục vụ chiến đấu. Còn Dư địa chí của Nguyễn
Trãi, điều thứ XX có ghi: “Huyện Sơn Vi có trĩ trắng, sơn, tơ”. Trong
quyển Nghề sơn cổ truyền Việt Nam của Lê Huyên, tác giả đã trình
bày, thống kê một cách khoa học và đầy đủ về nguồn gốc nghề sơn,
1
về kỹ thuật, về loại hình và chức năng của đồ sơn thế kỷ XVII – XIX
ở đồng bằng Bắc Bộ. Những phát hiện khảo cổ học qua các báo cáo,
các tư liệu của Viện Khảo cổ học, Viện Bảo tàng lịch sử, Viện Bảo
tàng mỹ thuật, Viện Mỹ thuật… và một số bài viết của các nhà khảo
cổ học, nhà nghiên cứu sơn mài về những di vật đồ sơn trong các di
tích đình, chùa, đền, miếu, trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân ít
nhiều đã phản ánh những thông tin về nguồn gốc nghề sơn, đồ sơn
trên đất nước ta.
Một số nhà nghiên cứu văn hóa có đề cập đến nghề sơn trong
các công trình của mình như Nghề cổ nước Việt của Vũ Từ Trang, Di
sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam của Bùi Văn Vượng. Các giới thiệu
này đã khái lược những nét chung nhất về nghề sơn cùng với các
nghề thủ công truyền thống khác.
Kỷ yếu hội thảo Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam, là
quyển sách tập hợp một số tham luận và ý kiến chuyên ngành của các
nghệ nhân, họa sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật tại hội thảo khoa học do
Viện Mỹ thuật (thuộc Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam) tổ chức
tại Hà Nội ngày 14 tháng 4 năm 1999. Nội dung bao gồm các phần
về lý luận cơ bản chung của nghề sơn và đồ sơn, về kỹ thuật truyền
thống, về sơn mài mỹ nghệ và sơn mài mỹ thuật, cũng như phần đào
tạo và chuyển giao công nghệ truyền thống cho thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết, nghiên cứu, khảo luận và
giới thiệu về đồ sơn và sơn mài ứng dụng của các họa sĩ, nhà nghiên
cứu như: “Đồ sơn cổ truyền” của Du Chi và Hoài Linh; “Sơn quang
dầu – một loại hình mỹ thuật trang trí dân gian cần được phục hồi
phát triển” của Lê Quốc Lộc; “Thủ công mỹ nghệ có còn là một bộ
phận của mỹ thuật?” của Vũ Huy Thiều; “Về ngành nghề sơn mài và
sơn quang dầu của ta” của Nguyễn Đức Cường; v.v… Những bài viết
trên đã khẳng định giá trị tinh thần và ứng dụng của nghề sơn truyền
2
thống như là một bộ phận không thể thiếu của mỹ thuật nước nhà,
vừa phục vụ nhu cầu thẩm mỹ vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng trong
đời sống hàng ngày, cần phải được quan tâm giữ gìn và phát triển.
Đặc biệt, về nghệ thuật sơn mài có các công trình nghiên cứu
tổng hợp của Nguyễn Quang Phòng trong quyển Các họa sĩ Trường
Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương; Quang Việt trong quyển Hội họa
sơn mài Việt Nam và một số bài viết gần đây của ông trên Tạp chí
Mỹ thuật của Hội Mỹ thuật Việt Nam, đã giới thiệu chi tiết về lịch sử
nghề sơn, sự ra đời và phát triển của hội họa sơn mài Việt Nam qua
các trích dẫn tư liệu nước ngoài, các nhân chứng, đối chiếu và bình
chú hết sức sâu sắc. Về kỹ thuật có sách Kỹ thuật sơn mài của Phạm
Đức Cường… Ngoài ra, còn nhiều bài viết, trao đổi trên các báo, tạp
chí chuyên ngành như “Nghệ thuật sơn mài 30 năm qua” của Phạm
Văn Đôn; “Về khả năng diễn tả của sơn mài Việt Nam” của Lê Kim
Mỹ; “Về bước phát triển của tranh sơn mài” của Sỹ Ngọc; “Chất liệu
sơn ta và giá trị của nó trong hội họa” của Nguyễn Vinh Phúc;
“Tranh sơn mài Việt Nam” của Trần Đình Thọ; “Giữ vững tính
truyền thống, phát huy cái đẹp trong nghệ thuật sơn mài hiện đại Việt
Nam” của Trần Thức; “Đôi nét về tiến trình phát triển của tranh sơn
mài Việt Nam” của Đặng Thanh Vân; “Sơn mài” của Tô Ngọc Vân;
v.v… đã nhận định, phân tích và tổng hợp về các tác giả, tác phẩm
của một giai đoạn sáng tác, về tiến trình phát triển của tranh sơn mài
cũng như vai trò, khả năng diễn tả của chất liệu sơn mài, trình bày
những đúc kết kinh nghiệm và những thành quả, những nét đặc trưng
trong nghệ thuật thể hiện mang tính truyền thống của nghệ thuật hội
họa sơn mài Việt Nam.
Về sơn mài Bình Dương
Có nhiều công trình nghiên cứu, khảo luận, bài viết… đã xuất
bản hoặc đăng rải rác trên các báo, tạp chí và sách như: Gia Định
3
thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, có mô tả về cảnh sinh hoạt, làm
đồ sơn của cư dân Bình Dương xưa ở làng Tương Bình Hiệp, Địa chí
Bình Dương, Địa chí Sông Bé, Thủ Dầu Một – Bình Dương 300 năm
hình thành và phát triển, Thủ Dầu Một – Bình Dương đất lành chim
đậu, trong phần mỹ thuật có giới thiệu về nghề sơn mài nhưng ở dạng
tổng quát lịch sử hình thành chung với các ngành nghề thủ công mỹ
nghệ truyền thống khác như gốm, điêu khắc gỗ… nhưng chưa phân
tích sâu các yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật.
Sơn mài Bình Dương vận dụng kỹ thuật truyền thống trong sáng
tác nghệ thuật của Thái Kim Điền và Mỹ thuật Bình Dương xưa và
nay là hai công trình nghiên cứu khá sâu về kỹ thuật chuyên môn.
Nhưng do giới hạn đề tài nên chưa nghiên cứu toàn diện về nghề sơn
mài BD trong quá trình tiến triển của lịch sử có những đặc điểm kỹ
thuật và nghệ thuật riêng.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của một số nhà nghiên cứu như:
Cao Xuân Phách, Huỳnh Ngọc Trảng… và các phóng viên trong cả
nước, đã được đăng rải rác trên các báo Bình Dương, Phụ nữ, Thanh
niên, Tuổi trẻ, các tạp chí Xưa và Nay, Mỹ thuật…
Nhìn chung, tuy các bài viết, các bài nghiên cứu không hoàn
toàn đề cập trực tiếp đến đề tài nghiên cứu hay chỉ đề cập đến khía
cạnh tổng quát hoặc một phần của đề tài nhưng đó là những tư liệu
quý, có giá trị khoa học, gợi mở cho tác giả luận án nghiên cứu về
đặc điểm, tiến trình hình thành nghề sơn và các giá trị nghệ thuật sơn
mài Bình Dương trong bối cảnh sơn mài truyền thống Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan về đồ sơn và nghệ thuật sơn mài Việt
Nam, để thấy được tiến trình hình thành và phát triển sơn mài Bình
Dương trên nền tảng của sơn mài truyền thống Việt Nam.
4
Nghiên cứu nghệ thuật sơn mài Bình Dương, qua đó, khẳng
định những thành tựu, giá trị nghệ thuật và đóng góp của các nghệ
nhân, họa sĩ đối với sự phát triển vượt bậc của nghề sơn mài, đặc biệt
là loại hình sơn mài ứng dụng.
Qua nghiên cứu chất liệu và nghệ thuật thể hiện sơn mài Bình
Dương, tổng hợp và đúc kết các giá trị thẩm mỹ để làm cơ sở đưa ra
các yếu tố hợp lý, cần thiết trong việc thể nghiệm và sử dụng chất
liệu và xây dựng tiêu chí các loại sản phẩm sơn mài.
Nghiên cứu thực trạng và xu hướng phát triển của sơn mài ứng
dụng Bình Dương. Từ đó, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy các
giá trị nghệ thuật của nó, sự cần thiết xây dựng các chiến lược củng
cố làng nghề, doanh nghiệp, hiệp hội sơn mài và nguồn nhân lực đáp
ứng những yêu cầu mới của thời đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận án chọn loại hình sơn mài làm đối tượng nghiên cứu chính
và tập trung vào chất liệu và nghệ thuật thể hiện của sơn mài Bình
Dương. Những thành tựu nghệ thuật và nét đẹp truyền thống mà sơn
mài Bình Dương đã đạt được trong một thế kỷ qua, nhất là từ những
năm 1940 đến nay, ở mảng sơn mài ứng dụng.
Phạm vi nghiên cứu
Trong luận án phạm vi nghiên cứu chủ yếu là quá trình hình
thành và phát triển, những đặc trưng về chất liệu và nghệ thuật của
sơn mài ứng dụng Bình Dương. Về thời gian, luận án tập trung tìm
hiểu sơn mài Bình Dương từ đầu thế kỷ XX đến nay (2013), được
nhìn theo từng thời điểm lịch sử để bảo đảm tính liên tục trong
nghiên cứu quá trình phát triển có những đặc điểm và kế thừa riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
5
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận
án phân tích và nhận định các vấn đề trong phạm vi nghiên cứu của
đề tài.
Luận án thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử mỹ thuật nên
phương pháp nghiên cứu nghệ thuật học có vai trò chủ đạo. Đặc biệt
là luận án sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, mô
phỏng các tác phẩm, sản phẩm thông qua việc tham khảo các bài viết,
các nghiên cứu và trao đổi trực tiếp với các họa sĩ, nghệ nhân, nhà
nghiên cứu mỹ thuật trong nước và nước ngoài để khai thác nguồn tài
liệu. Đề tài được thực hiện trên cơ sở khảo sát điền dã, qua đó tổng
hợp, đánh giá rút ra những giá trị cơ bản, những đặc trưng chất liệu
và nghệ thuật thể hiện của sơn mài Bình Dương.
Tác giả còn sử dụng phương pháp dựa trên thành tựu của các
ngành khoa học có liên quan như phương pháp tiếp cận liên ngành
(sử học, văn hóa học, xã hội học, dân tộc học, triết học, mỹ thuật
học… ) để nghiên cứu một cách tổng quát mối quan hệ biện chứng
giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện, giữa sơn mài ứng dụng và sơn
mài hội họa, nhằm giải quyết các vấn đề mỹ thuật ứng dụng nói
chung và sơn mài Bình Dương nói riêng một cách căn bản theo quy
luật phát triển của lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam.
6. Đóng góp khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống lý luận tổng hợp về lịch sử hình thành nghề sơn và nghệ thuật
sơn mài Bình Dương trong tiến trình phát triển của sơn mài truyền
thống Việt Nam.
Luận án đã chứng minh và lý giải: sự phong phú và đa dạng về
chủng loại, thể loại và đề tài của sơn mài ứng dụng Bình Dương
trong nền kinh tế thị trường là tích hợp của nhiều yếu tố mang giá trị
truyền thống. Giá trị đó chính là bệ đỡ đảm bảo cho sơn mài Bình
6
Dương phát triển theo hướng hiện đại với xu hướng thẩm mỹ - ứng
dụng có tính nghệ thuật cao.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định vị thế của
sơn mài ứng dụng Bình Dương trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã
hội. Sơn mài Bình Dương có những cái chung với các vùng khác,
nhưng cũng có những đặc trưng của địa phương, góp phần vào kho
tàng văn hóa dân tộc.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận và kiến nghị (7 trang),
tài liệu tham khảo (10 trang), phụ lục (66 trang). Phần nội dung chính
của luận án được chia ra làm ba chương theo trình tự như sau:
Chương I: Sơn mài Bình Dương trong bối cảnh sơn mài Việt
Nam (40 trang).
Chương II: Nghệ thuật sơn mài ứng dụng Bình Dương (44
trang).
Chương III: Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật sơn mài
Bình Dương (43 trang).
Chương 1
SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG TRONG BỐI CẢNH
SƠN MÀI VIỆT NAM
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1. Chất liệu
Chất liệu vừa là một khái niệm cụ thể, vừa là một khái niệm
trừu tượng. Cụ thể khi ta hiểu chất liệu là vật chất, là cái hữu hình,
cái có thể sờ được, thấy được và trừu tượng khi chất liệu là cảm giác
về chất, là cái vô hình, hay nói cách khác, là xúc cảm về chất liệu
thông qua nghệ thuật thể hiện của người nghệ sĩ.
1.1.2 .Sơn mài
7
Sơn – vẽ bằng chất sơn ta. Mài – mài vẽ sau khi thực hiện nhiều
công đoạn và ủ khô. Sơn mài là một chất liệu mỹ thuật để chỉ các tác
phẩm hội họa sơn mài, nhưng từ lâu do thói quen trong dân gian và
trong cả các làng sơn truyền thống, người ta thường gọi chung các
sản phẩm có sử dụng sơn ta là “sơn mài”. Do đối tượng nghiên cứu
của luận án khá rộng nên chúng tôi tạm sử dụng thuật ngữ sơn mài
cho các dạng kỹ thuật và loại hình sản phẩm, tác phẩm có sử dụng
sơn ta như: sơn mài mỹ nghệ (sơn mài ứng dụng), sơn mài nhẵn
(phẳng), sơn mài đắp nổi…
1.1.3. Hội họa sơn mài
Thuật ngữ chỉ các hoạt động sáng tạo hội họa (tranh vẽ) bằng
chất liệu sơn ta, phủ dày và mài vẽ. Đây là những tác phẩm biểu đạt
tư tưởng và tình cảm của người nghệ sĩ trước cuộc sống xã hội, thông
qua ngôn ngữ tạo hình và phương thức diễn tả, tái tạo thế giới khách
quan bằng các hình tượng điển hình mang tính kinh viện, bao gồm:
khả năng biểu cảm, sự diễn đạt và yếu tố thẩm mỹ. Hội họa sơn mài
được xem là một ngành của mỹ thuật tạo hình và được thể hiện thông
qua nhiều thể loại như: sơn mài phẳng, sơn mài đắp nổi, sơn khắc…
1.1.4. Sơn mài ứng dụng
Là loại hình sơn mài sử dụng các phương tiện tạo hình để sáng
tạo nên thế giới đồ vật mang tính thẩm mỹ và công năng. Nó là sản
phẩm được hình thành qua quá trình sáng tác mỹ thuật và được thể
hiện bởi quy trình công nghệ, vừa mang tính thực dụng, phục vụ nhu
cầu đời sống vật chất của con người, đồng thời vừa mang tính thẩm
mỹ, đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần. Bao gồm các sản phẩm đồ
sơn dân gian, sơn mài mỹ nghệ, có phương thức chế tác cả thủ công,
công nghiệp và có hình thức mỹ thuật mang yếu tố thẩm mỹ của thời
đại thông qua sự chi phối của các ngành đi-dai (design).
8
1.2. Khái quát lịch sử nghề sơn và nghệ thuật sơn mài Việt
Nam
1.2.1. Nghề sơn từ thời tiền sử đến năm 1858
Đồ sơn nước ta xuất hiện khá sớm ở châu thổ Bắc Bộ. Kết quả
khai quật cho thấy niên đại của những di vật và những dụng cụ làm
sơn trong các ngôi mộ tương đương với thời gian tồn tại của văn hóa
Đông Sơn, cách ngày nay trên hai nghìn năm. Các di vật và thư tịch
không được liên tục, nhưng cũng đã đánh dấu sự hưng khởi của đồ
sơn ở thời kỳ độc lập và phát triển của Phật giáo bằng sự có mặt
trong một số loại hình đơn giản, trong đồ thờ, đồ tùy táng… gắn liền
với kiến trúc chùa chiền, dinh thự. Đồ sơn thật sự trở thành đối tượng
sử dụng trong cuộc sống đời thường của nhân dân và phát triển cao
trong các giai đoạn tiếp sau từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX ở khắp
các làng xã Việt Nam với số lượng và loại hình đa dạng… Đồ sơn
không chỉ phục vụ kiến trúc tôn giáo mà đã đi vào nhu cầu của người
dân, không chỉ là những vật dung đơn thuần mà trong nó đã được
nâng lên thành hàng hóa, mang tính thẩm mỹ.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1985
Từ đầu thế kỷ XX, các Trường Mỹ thuật được thành lập, đặc
biệt là Trường Mỹ thuật Đông Dương, nghề sơn nước ta có những
chuyển biến lớn: bên cạnh các di vật đồ sơn và các sản phẩm sơn mài
ứng dụng mang tính mỹ nghệ trang trí, hội họa sơn mài đã ra đời trên
nền tảng nghề sơn cổ truyền, qua tìm tòi thể nghiệm bằng việc cách
tân với tinh thần dân tộc của các nghệ nhân và họa sĩ. Sự kiện này đã
làm cho nghệ thuật sơn mài thêm khởi sắc, đặc biệt là sơn mài ứng
dụng, do có sự cộng hưởng song hành giữa nền tảng kỹ thuật đồ sơn
mỹ nghệ và tác động của nghệ thuật thể hiện hội họa sơn mài, góp
phần làm nên những đặc trưng của sơn mài ứng dụng Việt Nam nói
chung và Bình Dương nói riêng.
9
1.2.3. Giai đoạn từ 1986 đến nay (2012)
Từ khi đất nước thực hiện chính sách đổi mới “mở cửa”, các
họa sĩ có điều kiện tiếp cận nhiều xu hướng sáng tác trên thế giới, từ
các trường phái, thể loại như: Ấn tượng, Trừu tượng, Biểu hiện, Siêu
thực, Lập thể… đến các xu hướng mỹ thuật hiện đại như Sắp đặt,
Trình diễn… cùng các chất liệu vô cùng phong phú, các hình thức
biểu đạt đa dạng trên thế giới cũng diễn ra gần như vậy trên đất nước
ta nhưng với quy mô nhỏ hơn. Các xu hướng mỹ thuật trên thế giới là
chất xúc tác, kích thích, góp vào sự tìm kiếm giá trị nghệ thuật mới
của các nghệ nhân, họa sĩ. Các hình thức nghệ thuật đã làm đa dạng,
sôi động cho sơn mài hội họa và sơn mài ứng dụng hiện nay.
1.3. Nhận diện sơn mài truyền thống Việt Nam
1.3.1. Các loại hình sơn mài truyền thống
Sơn mài truyền thống là loại hình nghệ thuật độc đáo mà trong
nó chứa đựng cả văn hóa vật thể và phi vật thể qua các hình thức
mang tính chuyên môn và lịch sử theo trình tự sau:
Đồ sơn trang trí: bao gồm các đồ thờ trong chùa, đền, đình,
miếu, cung điện. Các cột kiến trúc, hoành phi, cửa võng, câu đối,
khám, vật linh, tứ linh, tứ quý, bát bửu, kiệu, võng, long đình, tranh
thờ... mang đậm yếu tố tâm linh, phù hợp với tín ngưỡng dân gian và
thẩm mỹ dân tộc.
Sơn mài ứng dụng: bao gồm các đồ hiếu, các đồ hỷ, đồ dùng:
hộp, khay, khung, khảm, thúng..., đồ gia dụng: tủ, bàn, ghế, bình hoa,
bình phông..., đồ lưu niệm, tặng phẩm, tranh mỹ nghệ... mang yếu tố
ứng dụng – thẩm mỹ.
Tranh sơn mài (hội họa sơn mài): qua các tác phẩm thể
nghiệm, nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật cổ truyền vào việc sáng tác
nghệ thuật của các nghệ nhân và họa sĩ Trường Mỹ thuật Đông
Dương. Từ đó, được các thế hệ họa sĩ tiếp tục phát triển đến nay.
10
Qua ba loại hình của sơn mài truyền thống Việt Nam cho ta
nhận định: để có được vẻ đẹp của một sản phẩm hay một tác phẩm
sơn mài, không chỉ đơn thuần ở kỹ xảo, kỹ năng chế tác mà nó còn
được tạo ra bởi sự kết hợp giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện bằng
khả năng tạo hình và kinh nghiệm tạo chất bề mặt (matière). Đặc biệt
là việc ứng dụng chất sơn ta kết hợp với các chất liệu gốm, đá, tre,
giấy, kim loại, thủy tinh v.v... để tạo những hiệu ứng “muôn màu
muôn vẻ” do những đặc điểm về chất liệu đã quyết định rất lớn đến
cách diễn tả trong sơn mài.
1.3.2. Mối quan hệ giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện trong
sơn mài Việt Nam
Chất liệu của sơn mài truyền thống chính là sơn ta. Chất liệu
sơn ta, với các tính năng ưu việt về mặt lý, hóa, cơ học, còn là chất
“cảm” trầm ấm và sâu thẳm của nó. Nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp của
chất liệu trong tác phẩm cũng chính là sự nắm bắt vững vàng và sâu
sắc các đặc điểm, kỹ thuật riêng của chất liệu, làm cho chất liệu trở
thành một yếu tố không thể thay đổi của tác phẩm. Ngược lại, với cấu
trúc tác phẩm qua các ngôn ngữ tạo hình của mình, người nghệ sĩ
phải khẳng định được chỉ có chất liệu ấy, duy nhất, chuyển tải được
tiếng nói của hình tượng và nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm.
Tiểu kết
Nghệ thuật sơn mài Việt Nam nói chung và sơn mài Bình
Dương nói riêng là thành tố tăng thêm giá trị của cái đẹp trong cuộc
sống hòa lẫn với tinh thần, tín ngưỡng của cộng đồng, là “kết quả tích
hợp của hai luồng kiến thức: cổ truyền dân gian và bác học”.
Chất liệu không chỉ là nội dung, là điều kiện mà còn là hình
thức nghệ thuật thể hiện của tác phẩm. Mỗi chất liệu tạo hình đều
mang những vẻ đẹp đặc trưng và người nghệ sĩ luôn đi tìm cách để
thể hiện được đặc trưng ấy. Điều đó cũng chính là mối quan hệ tương
11
tác giữa chất liệu và nghệ thuật thể hiện trong mỹ thuật. Trên cơ sở lý
luận đó mà tác giả luận án chọn mối quan hệ giữa chất liệu và nghệ
thuật thể hiện làm cơ sở để nghiên cứu nghệ thuật sơn mài ứng dụng
Bình Dương và tập trung giải quyết vấn đề này trong chương 2 của
luận án.
Chương 2
NGHỆ THUẬT SƠN MÀI ỨNG DỤNG BÌNH DƯƠNG
2.1. Lịch sử sơn mài Bình Dương
2.1.1. Vài nét về vùng đất và con người Bình Dương
Trải qua hơn ba thế kỷ, vùng đất Bình Dương từ chỗ hoang vu
đã trở thành đất lành cho mọi người đến làm ăn sinh sống. Quá trình
tạo dựng, phát triển đến nay, qua biết bao thế hệ nối tiếp nhau khai
phá và xây dựng. Trong suốt quá trình lịch sử ấy, vùng đất và con
người ở đây luôn gắn bó và hòa quyện vào nhau, tác động lẫn nhau,
ngày một phát triển phồn vinh.
2.1.2. Tiến trình hình thành và phát triển nghề sơn mài và
làng nghề sơn mài ở Bình Dương
2.1.2.1. Tiến trình hình thành và phát triển
Kể từ năm 1698 trở đi, sau cuộc khai hoang lập ấp của Lễ
Thành hầu – Nguyễn Hữu Cảnh, người Việt đến định cư trên đất
Bình Dương đông đảo nhất. Sự chuyển cư và hội nhập nhiều thành
phần dân tộc ngày một tăng nhưng được thiên nhiên ưu đãi, điều kiện
địa lý và tự nhiên thuận lợi nên cùng với Sài Gòn, Biên Hòa, Bình
Dương có nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh với việc xuất hiện các
cụm dân cư mang tính chất đô thị (dù là ở dạng sơ khai). Sản xuất
nông nghiệp phát triển, nhu cầu đời sống đô thị đã chuyển một bộ
phận lao động thành những người thợ. Những yếu tố này đã làm cho
nghề sơn phát triển, ban đầu chỉ mang tính tự cung tự cấp hoặc là
12
trao đổi bằng sản vật, dần dần việc sản xuất được chuyên môn hóa,
đã dẫn đến sự hình thành các địa danh quen thuộc như: sơn mài
Tương Bình Hiệp, Phú Cường, Tân An, Bến Thế...
Đầu thế kỷ XX, trường Mỹ thuật Bình Dương được thành lập
(năm 1901) đã góp phần quan trọng vào sự hình thành, duy trì và
phát triển nghệ thuật sơn mài tại Bình Dương.
2.1.2.2. Sự hội tụ các yếu tố cơ bản của nghệ thuật sơn mài
Bình Dương
Những tuyến đường bộ và đường sông dày đặc, bao bọc xung
quanh đã giúp cho giao thông ở Bình Dương vô cùng thuận lợi, có
thể nối liền với các cảng biển; những khu rừng nhiều loại gỗ quý
cùng với nhịp độ phát triển nhanh chóng đó của nền nông nghiệp đã
thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho thủ công
nghiệp dần dần tách khỏi nông nghiệp và có một bộ phận đi vào
chuyên môn hóa đã tạo điều kiện cho Bình Dương nhanh chóng phát
triển nghề sơn mài.
Sự năng động của lớp lưu dân đã khai phá, bám trụ và biết tận
dụng những lợi thế từ thiên nhiên sẵn có và từ nhu cầu của cư dân lúc
nông nhàn, cùng với kinh nghiệm mang theo trong hành trang, là
những yếu tố tiên quyết để người dân có thể làm ra các vật dụng thiết
yếu phục vụ đời sống hàng ngày. Theo thời gian, các sản phẩm nghề
thủ công ngày một nổi tiếng và trở thành hàng hóa thương mại trong
nước và nước ngoài.
Nhiều lớp thợ, nghệ nhân từ miền Bắc, miền Trung vào định cư
có tay nghề cao, điêu luyện trong lĩnh vực làm đồ sơn, chạm trổ,
khảm xà cừ… Cộng với lớp nghệ nhân, họa sĩ được đào tạo có hệ
thống về kỹ năng và kiến thức tại các trường Mỹ thuật Bình Dương,
trường Mỹ thuật Đông Dương, trường vẽ Gia Định… đã trở thành
13
đội ngũ chuyên nghiệp để giảng dạy, truyền bá các kỹ thuật chế tác
và sáng tác bằng chất liệu sơn ta.
Bên cạnh nguồn sơn ta từ miền Bắc, tỉnh Bình Dương có đường
biên giới với Campuchia nên chất sơn từ Nam Vang (Phnôm Pênh)
được đưa về đây một cách nhanh chóng và dễ dàng. Nguồn chất liệu
phong phú đã giúp cho sơn mài thêm điều kiện phát triển, đa dạng về
nghệ thuật thể hiện với nhiều chủng loại, thể loại.
2.1.3. Làng nghề sơn mài Bình Dương
Những cuộc di dân đến huyện Bình An lập nghiệp từ giữa thế
kỷ XVII – XVIII, các cư dân đã dần hình thành và phát triển nghề từ
quê cha đất tổ để định hình thành làng nghề sơn mài tại đây. Trên địa
bàn rộng lớn, từ Thủ Dầu Một chạy dài theo bờ sông Sài Gòn ở phía
Tây là nơi các cư dân tập trung làm nghề nhiều nhất, như: Tương
Bình Hiệp, Phú Cường, Tân An, Bến Thế… Trong đó, có xã Tương
Bình Hiệp và Phú Cường là hai nơi quy tụ đông và mạnh những hộ
và cơ sở làm nghề, trở thành làng nghề sơn mài tiêu biểu tại Bình
Dương: làng sơn mài Tương Bình Hiệp nổi tiếng khắp cả nước và
được xem là chiếc nôi của ngành sơn mài Bình Dương và làng sơn
mài Phú Cương với xưởng sơn mài Thành Lễ (thành lập năm 1943),
có quy mô lớn mạnh nhất tại Bình Dương thời bấy giờ, đồng thời quy
tụ nhiều nghệ nhân, họa sĩ và các hộ dân gia công.
2.2. Chất liệu sơn mài Bình Dương
2.2.1. Các loại chất liệu
Chất liệu sơn mài ứng dụng Bình Dương ngoài nền tảng sơn
Phú Thọ truyền thống, còn là sự kết hợp pha trộn với sơn Nam Vang
theo một tỷ lệ nhất định (thường thì 7 phần sơn Phú Thọ và 3 phần
sơn Nam Vang), được các nghệ nhân quan tâm và thể nghiệm, đã đáp
ứng được yêu cầu của thị trường mà vẫn giữ được chất lượng gần
14
như sơn ta, phù hợp với yêu cầu và tính chất của các sản phẩm trang
trí.
Cách pha chế sơn của các nghệ nhân và họa sĩ sơn mài Bình
Dương không khác nhiều so với cách pha chế sơn cổ truyền của các
nghệ nhân, họa sĩ miền Bắc. Tuy nhiên, do nguồn sơn sống được lấy
từ nhiều nơi, chủng loại và mẫu mã đa dạng nên ngoài các loại sơn
được pha chế theo truyền thống như: sơn cánh gián, sơn then (đen),
sơn phủ, còn có các loại sơn đặc trưng của Bình Dương đó là:
Sơn cầm sắc (người dân địa phương hay gọi lệch âm là sơn
“cẩm sách”) – được pha chế từ lớp mật dầu trên cùng sau khi để lắng
các lớp nhựa sơn sống, pha thêm nhựa thông, đánh chín, dùng để phủ
lên bề mặt sản phẩm hoặc tranh có dát (thếp) vàng, bạc.
Sơn marông – một màu son đặc trưng của Bình Dương, có sắc
đỏ nâu trầm, ấm, được pha từ bột chu đỏ với bột chu hồng cánh sen
và sơn cánh gián theo một liều lượng phù hợp.
2.2.2. Quy trình xử lý chất liệu
Bên cạnh việc thể nghiệm các chất liệu trên, để có một sản
phẩm hay một bức tranh sơn mài đạt hiệu quả và có giá trị nghệ
thuật, người thợ làm tranh cần phải tuân thủ theo trình tự 25 công
đoạn trong quy trình thể hiện, với những quy định khắt khe từ khâu
kỹ thuật làm cốt (nền), làm vóc đến khi hoàn chỉnh sản phẩm cho
từng loại vật liệu phối hợp trong các chủng loại sản phẩm, đã được
các nghệ nhân Bình Dương đúc kết như sau: mài gỗ (xử lý cốt mộc),
trét, trám lỗ thủng (nghè gỗ), lót sớ gỗ (sơn bó), phất vải (nải vải),
mài nhám vải (mài bó), hom sớ vải, hom chu (hom bó), mài hom chu
(mài hom), lót, mài lót, quang (sơn thí), mài sơn quang (mài thí), vẽ
hình, phủ (toát), mài phủ và sửa chữa, đánh bóng.
Một số tranh và sản phẩm đặc biệt, ngoài việc tuân thủ theo
những quy trình trên thì còn thêm một số công đoạn và yêu cầu kỹ
15
thuật khác nữa, như: đối với sản phẩm cẩn ốc, cẩn vỏ trứng, vừa cẩn
ốc, vừa cẩn vỏ trứng, sản phẩm cẩn tre, cẩn lá cây, vỏ cây, sản phẩm
bình soa, đĩa soa, sản phẩm dát vàng, bạc lá.
Với nhiều nguyên vật liệu mới hiện có trên thị trường, sơn mài
ứng dụng Bình Dương ngày nay hầu hết được thực hiện qua quy trình
công nghệ khép kín dựa trên nhiều loại máy móc chuyên dụng. Trong
thể hiện, xu hướng kết hợp các chất liệu cũ, mới khá phổ biến. Nền
cốt, vóc cũng đa dạng, đồng thời đội ngũ thợ ngày một chuyên
nghiệp, mang tính công nghiệp cao trong gia công chế tác và vận
hành thiết bị.
2.3. Nghệ thuật thể hiện
Từ vốn kỹ thuật sơn mài truyền thống đã qua nhiều thế kỷ, hiện
nay ở Bình Dương không chỉ tồn tại kỹ thuật sơn son thếp vàng hay
sơn then mà còn xuất hiện nhiều loại sản phẩm sơn mài với hình thức
phát triển khá độc đáo, được các nghệ nhân, họa sĩ dày công nghiên
cứu và giữ gìn trong quá trình thể hiện, như: sơn lộng, vẽ lặn (vẽ
chìm) mỏng, vẽ phủ mài, vẽ phấn keo, khoét trũng (còn gọi là sơn
khắc - coromandel), đắp nổi, cẩn ốc (xà cừ), cẩn vỏ trứng, vẽ lặn
phức tạp.
Qua thực tế, có một số hình thức thể hiện ít được áp dụng hoặc
có những kỹ thuật gần giống nhau nên dần dần được các nghệ nhân,
họa sĩ chọn lựa và định hình trong bốn tên gọi cho các hình thức thể
hiện được sử dụng nhiều nhất hiện nay, đó là: vẽ lắc (laque), đắp nổi,
vẽ vàng, Vẽ công-trơ-dua (contre-jours).
Ngày nay sơn mài ứng dụng Bình Dương đã có nhiều thay đổi
cơ bản. Để đáp ứng thị hiếu mới, đòi hỏi sản phẩm sơn mài phải đạt
giá trị thẩm mỹ – ứng dụng cao, vừa đẹp, bền nhưng lại phải tiết
kiệm nguyên liệu, thời gian, công lao động, quy trình sản xuất phải
16
đơn giản nhưng vẫn bảo đảm được hiệu quả tối ưu về mặt kinh tế,
nghệ thuật và môi trường.
Tiểu kết
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, sơn mài Bình Dương
đã từng là thú tiêu khiển lúc nông nhàn của cư dân Việt xưa trên
vùng đất có nhiều thuận lợi về thiên nhiên, địa lý, có mối giao lưu và
cộng cư nhiều dân tộc. Do đó, nghề sơn mài ở đây sớm định hình và
phát triển cao qua nghệ thuật thể hiện phong phú và đa dạng với quy
trình xử lý chất liệu cổ truyền hết sức nghiêm ngặt.
Nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt và những đổi
thay nhanh chóng, liên tục trong chất liệu và hình thức thể hiện của
sơn mài ứng dụng Bình Dương cũng là tất yếu của thời đại. Điều
quan trọng đó là xác lập quy trình công nghệ trong sản xuất nhưng
không làm mất đi chất lượng sản phẩm, không làm mất đi nét đẹp đặc
trưng và các giá trị nghệ thuật vốn có của nó.
Chương 3
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA
NGHỆ THUẬT SƠN MÀI BÌNH DƯƠNG
3. 1 Những giá trị của nghệ thuật sơn mài Bình Dương
3.1.1 Giá trị kinh tế, văn hóa và xã hội
Các sản phẩm sơn mài ứng dụng không chỉ mang lại giá trị kinh
tế trong nước mà còn đem lại giá trị cao trong việc xuất khẩu. Đồng
thời giải quyết việc làm cho một số cư dân lao động trong tỉnh và các
vùng lân cận.
Ngoài vai trò về kinh tế – xã hội, sơn mài Bình Dương còn có
vai trò hết sức to lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân.
Mỗi một làng nghề là một địa chỉ văn hóa, phản ánh nét văn hóa độc
đáo của từng địa phương, từng vùng miền. Lịch sử phát triển nghề
17
- Xem thêm -