Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nội dung cơ bản về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. phân tích tình hình đầu...

Tài liệu Nội dung cơ bản về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. phân tích tình hình đầu tư trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước

.PDF
31
221
67

Mô tả:

Lời nói đầu Hội nhập kinh tế quốc tế là quá hình tất yếu,khách quan không doanh nghiệp nào có thế tránh né.Tu tuởng bảo hộ trông chờ vào Nhà nuớc sẽ bị đào thải.Tất nhiên, thành công tới đâu còn tùy thuộc vào sức cạnh tranh,tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp.Do vậy các doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc,vì sự sống còn của mình,để đáp ứng yêu cầu khi việt nam đã và đang tham gia quá hình toàn cầu hóa. Đảng ta cũng chỉ rõ:”Chính sách tài chính quốc gia huớng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội,tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân”.Vì vậy,vấn đề nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doang nghiệp nhà nuớc(DNNN) đuợc đặt ra hết sức cấp bách. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu một buớc ngoặc đối với chính sách và cơ chế kinh tế nói chung, thị trường và Sản xuất kinh doanh nói riêng:Xóa bỏ cơ chế bao cấp(nhà nước chịu hoàn toàn trách nhiệm),thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần;cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Các DNNN được quyền tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng cùng với nó, DNNN phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Các DNNN đều phải chịu trách nhiệm trước đồng vốn mình bỏ ra, làm sao cho có lãi đế tồn tại và phát triển được. DNNN là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc gia, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Nhà nước. Có ý nghĩa quyết định đến sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện Đại hoá đất nước và trong quá trình hội nhập. Đầu tư phát triển tác động đến cả tốc độ và chất lượng tăng trưởng , tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Chỉ có trên cơ sở đầu tư đúng , trọng tâm , trọng điểm và đồng bộ cơ cấu đầu tư họp lý.. .mới làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH . Đầu tư tác động đến sự phát triển của khoa học và công nghệ . Không thể có công nghệ hiện đại, phù hợp nếu không đầu tư tương ứng hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay DNNN cũng đang đứng trước một số khó khăn bất lợi về vốn, bộ máy chậm thích ứng với sự biến đổi của thị trường, lắm tầng nấc, trung gian, nhiều sự ràng buộc lẫn nhau, phần lớn cán bộ rất thụ động. Do đó, đi tìm lời giải về vấn đề nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cho khu vực DNNN là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực. Qua nghiên cứu và đuợc sự huớng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Từ Quang Phuơng, em quyết định chọn đề tài “Nội dung cơ bản về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình đầu tư trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước. ” Song do kinh nghiệm thực tế chua nhiều nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong đuợc sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy giáo đế việc nghiên cứu của em ngày càng hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I.NỘi dung cơ bản về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. l/Khái niệm chung: a/khái niệm: Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư,là việc chi dùng vốn trong hiện tại đế tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất(nhà xuởng thiết bị...) và tài sản trí tuệ(tri thức, kỹ năng...) gia tăng năng lực sản xuất,tạo thêm việc làm và tìm mục tiêu phát hiến. Theo nghĩa hẹp nguồn lực sử dụng trong đầu tư phát hiển là vốn. Theo nghĩa rộng,nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn đất đai,lao động,máy móc,thiết bị,tài nguyên.Nhu vậy,khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia. b/Đối tuợng: Là tập họp các yếu tố đuợc chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. -Trên quan điểm phân công lao động xã hội, có hai nhóm đối tuợng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và theo lãnh thổ. -Trên góc độ tính chất và mục đích của đầu tư,đối tuợng của đầu tư chia thành 2 nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công hình phi lợi nhuận. -Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng,đối tượng đầu tư chia thành: loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư. -Từ góc độ tài sản,đối tượng đầu tư chia thành: những tài sản vật chất(tài sản thực:là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động) và tài sản vô hình( phát minh sang chế,uy tín thương hiệu...) c/ Mục đích: Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phat triển bền vững, vì lợi ích quốc gia cộng đồng và nhà đầu tư.Trong đó ,đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,tăng thu nhập quốc dân,góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiếu chi phí,tối đa lợi nhuận nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực.... d/ Chủ đầu tư Đầu tư phát triển ttrường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao quản lý, sử dụng vốn đầu tư(luật đầu tư 2005). Chủ đầu tư chiụ trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu tư, chịu trach nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi trường môi sinh do đó có ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Thực tế quản lý còn có những nhận thức không đầy đủ về chủ đầu tư. e/ Nguồn lực đầu tư: Là bao gồm tất cả tiền vốn ,đất đai lao động,máy móc ,thiết bị,tài nguyên... là tất cả những gì có thế tham gia vào quá trình sản xuất,kinh doanh.. f/Yếu tố thời gian Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình diễn ra trong thời kỳ dài và tồn tại vấn đề”độ hễ thời gian”.ĐỘ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả cho ở tương lai. Đặc điểm này của đầu tư cần dượng quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển. 2/ Đặc điểm của đầu tư phát triển: Qui mô tiền vốn, vật tư,lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển ttrường vốn rất lớn. vốn đầu tư lớn nằm khe đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.Qui mô vốn đầu lớn đòi hỏi phải có giải pháp huy động vốn và tọa vốn hơp lý,xây dựng chính sách ,qui hoạch ,kế hoạch đầu tư đúng đắn,quản lý chặt chẽ vốn đầu tư,thực hiện đầu tư trọng điểm. Lao đọng sử dụng cho các dự án rất lớn,đặc biệt đối với dự án trọng điểm quốc gia.Do đó công tác tuyển dụng,đào tạo,sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ mooyj kế hoạch định hước,sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư,đồng thời,hạn chế mức thấp nhất những ảnh huởng tiêu cực do “vấn đề hậu dự án”tạo ra nhu việc bố trí lại lao động,giải quyết lao động dôi du... Thời kì đầu tư kéo dài. Thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đua vào hoạt động.Nhiều công hình lớn lại năm kê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư,cần tiến hành phân kì đầu tư,bố trí vốn và các nguồn lực tập hung hoàn thành dứt điếm từng hạng mục công hình,quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư,khắc phục tình trạng thiếu vốn,nợ đọng vốn đầu tư trong xây dựng co bản. Thời gian vận hành các keets quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi công trình đua vào hoạt động cho đến khi phát huy tác động lâu dài,có thế tồn tại vĩnh viễn nhu kim tu tháp AI CẬP,nhà thờ La Mã ở Rôm,...Trong suốt quá trình vận hành,các thành quả đầu tư chịu tác động hai mặt,cả tích cực và tiêu cực,của nhiều yếu tố tụ nhiên,chính trị kinh tế xã hội.. .Đe thích ứng với đặc điểm này,công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý một số nội dung sau: -Thứ nhất,cần xây dựng co chế và phuong pháp dự báo khoa học cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô về nhu cầu htij trường đối với sản phẩm đầu tư tuong lai, dự kiến khả năng cung từng năm và vòng đời dự án. -Thứ hai,quản lý tốt quá tình vận hành,nhanh chóng đua các thành quả đầu tư vào sử dụng,hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn,tránh hao mòn vô hình. -Thứ ba, chú ý đúng mức đến yếu độ hễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nhung chua chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà tu năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đậc điếm riêng của nhiều lĩnh vực đầu tư,ảnh huởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thuong phát huy tác dụng ở ngay tại noi nó đuợc tạo dựng nên, do đó,quá trình thực jieenj đầu tư cũng hu thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh huởng lớn của yếu tố tu nhiên,kinh tế xã hội vùng.Không thế dễ dàng di chuyển các công trình đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung sau: Truớc tiên cần phải có chủ truong đầu tư và quyết đúngđịnh đầu tư đúng.Đầu tư cái gì ,sản xuất bao nhiêu là họp lý... cần phải nghiên cứu kĩ luông,dựa trên co sở khoa học.Ví dụ ,công suất xây dựng nhà máy tuyển than ở khu vực mỏ.Neu trữ luợng than của mỏ ít thì qui mô nhà máy sàng tuyến không nên quá lớn đế đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Lựa chọn địa điểm đầu tư họp lý.Để lựa chọn địa điểm thực hiên đầu tư đúng phải dựa trên những căn cứ khoa học,dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế,chính trị, xã hội,môi trường,văn hóa...cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau nhiều phương án so sánh đế lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điếm đầu tư cụ thể họp ly nhất,sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể,tạo điều kiện nâng cao hiêu quả vốn đầu tư. Đầu tư pháy hiển có độ rủi ro cao. Do qui mô vốn lớn,thời kì kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài.. .nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư Phát triển thương cao.Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân,trong đó nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém,chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu..có nguyên nhân chủ quan như giá nguyên liệu tăng,giá bán sản phẩm giảm,công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế.Như vậy để quản lý hoạt động đầu tưe phát triển hiệu quả,cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro bao gồm: -Thứ nhất ,nhận diện rủi ro đầu tư.Có nhiều nguyên nhân rủi ro,do vậy, xác định được đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp khăc phục phù họp. -Thứ hai, định giá mức độ rủi ro.Rủi ro xảy ra co khi rất nghiêm trọng,nhưng co khi chua đến mưc gây nên những thiệt hại về kinh tế. Đánh giá đúng mức độ rủi ro sẽ đưa ra những biện pháp phòng và chống phù họp. -Thứ ba, xây dựng các biên pháp phòng và chống rủi ro mỗi loại rủi ro và mức độ rủi ro nhiều hay ít sẽ có biện pháp phòng và chống tương ứng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại do rủi ro này gây ra. 3/Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp: Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm nhiều nội dung, tùy theo cách tiếp cận. Căn cứ vào lĩnh vực phát huy tác dụng, đầu tư phát triển bao gồm các nội dung: đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng-kĩ thuật chung của nền kinh tế, đầu tư phát triển văn hóa giáo dục, y tế và dich vụ xã hội khác, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật và những nội dung đầu tư phát triển khác.Cách tiếp cận này là căn cứ để xác định quy mô vốn đầu tư, đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động cho từng ngành, lĩnh vực trong nền kinh ế quốc dân. Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm:đầu tư những tài sản vật chất (tài sản thực) và đầu tư phát triển những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển những tài sản vật chất gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và đầu tư vào hàng tồn trữ. Đầu tư phát triển tài sản vô hình gôm các nội dung: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học, kỹ thuật, đầu tư xây dựng thuơng hiệu, quảng cáo.... Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố định của doanh nghiệp.Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính nhu:xây lắp và mua sắm máy móc thiết bị.Trong doang nghiệp, đặc biệt doang nghiệp sản xuất kinh doanh, để các hoạt động diễn ra bình thuờng đều cần xây dựng nhà xuởng, kho tàng, các công trình kiến trúc,mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị... Hoạt động đầu tư và đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị. Đầu tư bố sung hàng tồn trữ. Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên nhiên vật liệu, bán thàng phẩm và sản phẩm hoàn thành đuợc tồn trữ trong doanh nghiệp. Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng khác nhau.Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thế thiếu của doanh nghiệp sản xuất nhung lại không có trong doanh nghiệp thuơng mại dịch vụ. Tỷ trọng đầu tư vào hàng tồn trữ trong tống vốn đầu tư phát triến của doanh nghiệp thuơng mại thuờng cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác.Do vậy, xác định quy mô đầu tư hàng tồn trữ tối uu cho doanh nghiệp lại rất cần thiết. Đầu tư phát triến nguồn nhân lực .Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp.Chỉ có nguồn nhân lực chất luợng cao mới đảm bảo dành thắng lợi trong cạnh tranh.Do vậy,đầu tư nang cao chất luợng nhân lực là rất cần thiết.Đầu tư phát triến nguồn nhân lực bao gôm đầu tư cho hoạt động đào tạo (chính quy,không chính quy,dài hạn,ngắn hạn,bồi duỡng,nghiệp vụ...) đội ngũ lao động;đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe,y tế;đầu tư cải thiện môi truờng,điều kiện làm việc của nguời lao động....Trả luơng đúng và đủ cho nguời lao động cũng đuợc xem là hoạt động đầu tư phát triển. Đầu tư nghiên cứu và triến khai các hoạt động khoa học và công nghệ.Phát triến sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu,triển khai,ứng dụng công nghệ.Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao.Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triến khai khoa học và công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triến của kinh tế đất nuớc và doanh nghiệp,trong tuơng lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này ngày càng tăng,tuơng ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp. Đầu tư cho hoạt động marketing.Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp.Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo,xúc tiến thuơng mại,xây dựng thuong hiệu... Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp. Mục đích của cách tiếp cận này là xác định tỷ trọng,vai trò của từng bộ phận trong tổng đầu tư của đơn vị. Xuất phát từ quá trình hình thành và thực hiện đầu tư,nội dung đầu tư phát triển bao gồm:đầu tư cho các hoạt động chuẩn bị đầu tư,đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư và đầu tư trong giai đoạn vận hành.Nội dung đầu tư phát triến trong mỗi giai đoạn lại bao gồm nhiều nội dung chi tiết khác nhau. Chương II :THựC TRẠNG CHUNG CUA HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP NHÀ NỬỚC 1 CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đối mới và phát triến doanh nghiệp của Chính phủ, sau quá tfnh sắp xếp, đổi mới DNNN, đến nay cả nuớc hiện có 1.720 doanh nghiệp 100% vốn nhà nuớc đuợc tổ chức duới hnh thức tập đoàn kinh tế (7 đơn vị), tổng công ty nhà nuớc (86 đơn vị) và công ty nhà nuớc độc lập (1.099). Nhà nuớc giữ 100% vốn điều lệ ở 524 doanh nghiệp thành viên, giữ trên 50% vốn điều lệ ở 738 doanh nghiệp thành viên và duới 50% vốn điều lệ ở 672 doanh nghiệp đă cổ phần hóa. Từ 2001 Cố phần hóa các doanh nghiệp nhà nuớc là một trong những vấn đề đang đuợc đẩy mạnh ở nuớc ta, nhung việc thực hiện một cách có hiệu quả không đơn giản. Vì vậy, sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa, rất cần có sự nhìn lại thực trạng, đánh giá triến vọng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quá hình cố phần hóa doanh nghiệp nhà nuớc ở nuớc ta trong những năm tới. Theo báo cáo gần đây của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát hiển doanh nghiệp nhà nuớc (tháng 5-2006), trong 15 năm qua, nuớc ta đã thực hiện cổ phần hóa đuợc 2.935 doanh nghiệp nhà nuớc, trong đó có 80% số doanh nghiệp mới thực hiện cố phần hóa từ năm 2001 đến nay. Từ số liệu trong Báo cáo này, buớc đầu có thể phân tích thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp ở một số khía cạnh sau: Từ 2001 đến 2005 số doanh nghiệp nhà nuớc đã đuợc cổ phần hoá và trở thành các công ty cố phần có vốn nhà nuớc đã tăng lên khá nhanh cả về số luợng công ty, lẫn năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp hằng năm của Tống cục Thống kê từ năm 2000 cho thấy, từ số lượng công ty cổ phần có vốn nhà nước chỉ có 305 doanh nghiệp trong năm 2000 đã lên 470 doanh nghiệp trong năm 2001, tăng 54,1%; lên 557 doanh nghiệp trong năm 2002, tăng 18,7%; lên 669 doanh nghiệp trong năm 2003, tăng 19,9%; lên 815 doanh nghiệp trong 2004, tăng 21,8% và lên 1.096 doanh nghiệp trong năm 2005, tăng 34,5%. Sau 5 năm đã tăng thêm 791 doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, tăng gấp gần 3,6 lần và bình quân mỗi năm tăng 158 doanh nghiệp, tương ứng với tốc độ tăng bình quân là 29,8%/năm. Do số doanh nghiệp được cổ phần hoá ngày càng tăng cao và số doanh nghiệp nhà nước chưa cố phần hoá ngày càng giảm đi nên tỷ trọng các công ty cổ phần có vốn nhà nước đã chiếm ngày càng lớn, từ 5,3% vào thời điểm cuối năm 2000 đã lên chiếm 26,8% đến thời điểm cuối năm 2005 và ngược lại doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn đã từ chiếm 94,7% cuối năm 2000 xuống chỉ còn 73,2% đến cuối năm 2005 Đối tượng cổ phần hóa. Nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa chọn doanh nghiệp nhà nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh nghiệp cố phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cố phần hóa.sSự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cố phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ trương cố phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thế hiện được rõ những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần hóa đề ra. - Cơ cẩu vốn điều lệ. Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh nghiệp. Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cố phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%). Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiếu rõ hơn khái niệm cố phần “chi phối” của nhà nước. - Cơ cẩu cỗ đông. Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần. Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cố phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cố phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là hước sức ép cạnh hanh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tố chức Thương mại thế giới (WTO). Phân tích một số bài viết nghiên cứu về quá trình cổ phần hóa trên báo chí, chang hạn bài “Co phần hóa - quỹ đạo nào đế bảo toàn, phát then thị trường von?” đăng trên báo Tài chính; qua những thông tin từ Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, có thể nhận thấy việc đánh giá về hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có những ý kiến không giống nhau. Cụ thế như sau: Thứ nhất, sau khi cổ phần hóa, có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần tăng ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy động vốn xã hội cũng tăng lên, chấm dứt tình hạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm. Chỉ có 10% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kém hiệu quả vì trước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp này đã hoạt động rất kém, nội bộ mất đoàn kết, không thống nhất; mặt khác còn do sự can thiệp không đúng của chính quyền địa phương... Thứ hai, theo kết quả nghiên cứu, đến thời điểm này chưa có doanh nghiệp nhà nước nào sau khi cố phần hóa biến thành tư nhân hóa. Tuy nhiên, trong đánh giá của Phó Chủ nhiệm ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Đặng Văn Thanh - người tham gia đoàn giám sát của Quốc hội - bên cạnh việc công nhận một số kết quả do cổ phần hóa mang lại, cũng đã chỉ rõ: có tình trạng, một số doanh nghiệp nhà nước sau khi cố phần hóa đang dần chuyển hóa thành doanh nghiệp tư nhân do một số cổ đông đã bán, chuyển nhượng số cố phần của mình, hoặc làm trung gian thu gom cố phần cho tư nhân ngoài doanh nghiệp nắm giữ, có trường họp đã nắm hơn 50% tống giá trị cố phần danh nghĩa đế trở thành chủ nhân đích thực của doanh nghiệp. Theo ông Thanh, đây là điều trái với chủ trương cổ phần hóa của Đảng và Nhà nước. . Cồ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc điểm khác với tính quy luật chung ở các nước: - Cấc doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cố phần hóa được hình thành trong quá trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát hiển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu. - Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh nghiệp thực hiện cố phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triến trong cơ chế thị trường, cạnh tranh. - Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cố phần hóa ở các nước là tố chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường. - Lý do chính của chủ trương cố phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cố phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triến là chuyến từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh hanh. 2. Đầu tư tràn lan: Đầu tư nhiều, hiệu quả thấp . Với thế mạnh là... Nhà nước, các DNNN có lợi thế rất lớn về tài sản cố định (đặc biệt là đất đai), vốn đầu tư ngân sách, vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng,... trong so sánh với các thành phần kinh tế khác đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Thế nhưng đóng góp của DNNN cũng chỉ tương đương với khối này (xấp xỉ 40% GDP). Hoạt động sản xuất kinh doanh trong các DNNN vẫn mang theo một hình ảnh từ thời bao cấp đến nay, đó là trì trệ, kém năng động, ỷ thế độc quyền, đầu tư kém hiệu quả, sử dụng vốn lãng phí,... Bài báo đăng kết quả Kiếm toán của 19 đơn vị DNNN cho thấy có đến 21% đơn vị làm ăn thua lỗ trong năm 2004, 58% đơn vị lỗ luỹ kế đến cuối năm 2004. Một điều dễ nhận thấy nữa là các DNNN cũng là nơi diễn ra phần lớn các vụ tham nhũng, lãng phí nối cộm. Nhìn chung, khối DNNN đang làm chậm đà phát triến của cả nước một cách đáng kế. Tình trạng các doanh nghiệp đã đầu tư ra ngoài lĩnh vực chính quá lớn, đặc biệt là đầu tư vào các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bất động sản... Việc đầu tư ra ngoài của các tập đoàn, tổng công ty làm phân tán nguồn lực, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giữ vai hò chủ lực của nền kinh tế. Đặc biệt, việc 0 ạt đẻ non ra nhiều ngân hàng trong một thời gian ngắn luôn tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống tài chính và nền kinh tế. Việc các tập đoàn thành lập ngân hàng là rất dễ hỗ trợ đầu tư cho các dự án kém hiệu quả của tập đoàn. Đây là bài học đắt giá của nhiều nước mà Việt Nam cần tránh! Phần lớn các tập đoàn, tổng công ty khi thành lập đều xác định vốn điều lệ trên cơ sở vốn sổ sách. Vì vậy, không phản ánh được thực chất nhu cầu, biện pháp sử dụng vốn tại doanh nghiệp, số vốn huy động của 70 tập đoàn, tổng công ty đến 31/12/2007 lên đến 448.269 tỉ đồng, trong khi đó, vốn chủ sở hữu chỉ đạt 323.208 tỉ đồng. Việc tự huy động vốn đã dẫn đến tình trạng một số tổng công ty có hệ số vay nợ/vốn chủ sở hữu quá cao, rất đáng lo ngại. CHẠY THEO LỢI NHUẬN NHẤT THỜI Tại hội nghị sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp (23/4/2008), hầu hết các tập đoàn, tổng công ty đều cho rằng, nhà nước cần tạo điều kiện để họ đầu tư vào các lĩnh vực trên, vì có như thế mới xoay được vốn làm ăn(!). Ông Phạm Thanh Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinashin, lý giải rằng, do đặc thù của ngành kinh doanh tàu thủy cần vốn lớn, Nhà nước không bố sung vốn nên Vinashin phải đầu tư vào tài chính, bất động sản để kiếm vốn đầu tư cho các dự án lớn hơn. Ông Bình cho rằng, tập đoàn đầu tư vào các công trình phúc lợi, khu nghỉ dưỡng, bệnh viện ngành là cần thiết đế “lấy ngắn nuôi dài”. Và rằng “chúng tôi đầu tư ra ngoài đâu chỉ vì chạy theo lợi nhuận”! Lý giải của ông Bình tại hội nghị đã không được sự đồng tình của các đại biểu. Kinh doanh tài chính, bất động sản thì hoàn toàn không thể “ngắn” và nếu không “chạy theo lợi nhuận” thì lấy gì để nuôi được “dài”? Tương tự, ngành điện cũng “lấy ngắn nuôi dài” khi đầu tư sang lĩnh vực khác. Nhiều đại biểu Quốc hội đã hết sức bức xúc trước việc tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đem số tiền lớn đầu tư xây dựng khu resort ở miền Trung - một lĩnh vực không liên quan gì đến ngành điện, một dự án rất... khả nghi, góp phần làm cho lạm phát gia tăng. Có thế nói, trong hai năm 2006, 2007, các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiếm và bất động sản phát triến mạnh và đem lại lợi nhuận cao nhất. Vì vậy, một số tập đoàn kinh tế đã thả phanh đầu tư vào “những ngành kinh tế béo bở” - nói theo cách của ông Chủ tịch Hội đồng quản trị EVN. Ngược lại, bước sang năm 2008, tình hình đã thay đối một cách nhanh chóng và không thế lường trước được. Đặc biệt, thời điếm hiện nay, các lĩnh vực trên đã và đang có độ rủi ro rất cao. 5 tháng đầu năm nay, lạm phát vẫn tiếp tục gia tăng, thị trường chứng khoán đang giảm sút mạnh, chỉ trong 5 tháng đầu năm 2008 đã mất hơn 50%. Trong bối cảnh chung như vậy, đa số các hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp nhà nước cầm chắc thua lỗ... Thị trường bất động sản đóng băng. Rồi, kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, bảo hiểm ngày càng khó khăn. Chính sách tiền tệ của nhà nước trong cuộc chống lạm phát luôn có nhiều thay đối... Nỗi lo doanh nhiệp nhà nước “đá nhầm sân”, “trật đường ray” đang lộ rõ. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, khi bong bóng tài chính/bất động sản vỡ mà lãi suất ngân hàng tăng cao thì rất dễ xảy ra vỡ nợ hàng loạt của các doanh nghiệp. 3. Doanh nghiệp nhà nước nợ đọng kéo dài,đang bên bờ vực phá sản: Các DNNN nợ đọng, nợ xấu kéo dài, đang bên bờ vực phá sản... chính là hệ lụy của nền kỉnh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Çu theo một chuyên gia kỉnh tế khác th các DN này là những "ngưòi khổng lồ" yếu bóng vía và đang làm kỉnh tế tụt hậu. Thực trạng những "con nợ” thuộc diện phải xử lý hiện ra sao? Những vướng mắc, rào cản đang tồn tại đó sẽ được xử lý như thế nào? DNNN nợ xấu bao nhiêu? Đây là câu hỏi mà có lẽ chưa cơ quan quản lư nào trả lời chính xác được; bởi lẽ cho đến nay, hệ thống các cơ quan quản lý chưa có thống kê đầy đủ nào về tnh trạng nợ xấu này. Tuy nhiên các cấp quản lư chỉ có thế đoán ước rằng: Đây là số tiền... khống lồ lên đến vài chục ngàn tỉ. Ngay từ năm 2005, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thống kê dư nợ cho vay DNNN đă chiếm đến 33,2% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Đặc biệt, NHNN đă có cảnh báo về tnh hạng nợ xấu đang có xu hướng tăng. Theo một chuyên gia kinh tế thuộc Bộ Công thương thi đă từ quá lâu rồi, hệ thống các NH, không ít các chuyên gia kinh tế và nhà quản ly đă cảnh báo về tính trạng nợ xấu, tinh trạng tiêu cực, làm ăn thua lỗ kéo dài dẫn đến nợ xấu của các DNNN. Cụ thể theo tài liệu kiểm toán năm 2005, cơ quan này đă nêu hàng loạt các đơn vị nợ xấu khó đi và chưa có biện pháp khắc phục như TCty lương thực Miền Nam, TCty Chăn nuôi, TCty Xây dựng công nghiệp, TCty Giấy... Bản thân các TCty này cũng được cảnh báo về tnh trạng làm ăn thua lỗ với số lỗ luỹ kế từ gần 200 tỉ đồng đến dưới 500 tỉ đồng. Đặc biệt, chỉ 16 DNNN đă có số nợ trong năm lên đến 21.000 tỉ đồng; tống nợ phải trả lên đến 47.000 tỉ đồng và chiếm tới hơn 80% tống nguồn vốn. Gần đây nhất, theo thống kê sơ bộ của riêng hệ thống các NH, th nhóm DNNN nợ xấu kéo dài gồm các TCty xây dựng công trnh giao thông thuộc Bộ Giao thông Vận tải. Đây là nhóm có số nợ kéo dài nhất, khó xử lu nhất. Theo uớc tính th số nợ của các TCty này lên tới trên 12.300 tỉ đồng. Khối DNNN nợ xấu ít hơn bao gồm các TCty thuộc nhóm dịch vụ và chế biến... Tuy nhiên, gọi là ít song số nợ của khối các DN này cũng lên tới trên duới 5.000 tỉ đồng. Neu tính cả số các DN nợ đọng thuế th con số này cũng thêm khoảng vài ngàn tỉ đồng nữa. Đối với các loại hnh DN khác, họ buộc phải tuân thủ nguyên tắc "ràng buộc ngân sách cứng". Các DN phải tự chịu trách nhiệm về tnh hnh DN với hnh thức lời ăn, lỗ chịu và rất khắt khe về kỷ luật tài chính. Trong cạnh tranh, nếu thua lỗ họ phá sản ngay, ẹn nếu có lăi th đó chính là sự hiệu quả và hách nhiệm của DN. Çn đối với DNNN, họ lại đuợc Nhà nuớc uu ái theo nguyên tắc "ràng buộc ngân sách mềm". Cứ khi nào DN khó khăn th đuợc hỗ trợ, thiếu vốn th cho vay, thậm chí là ban tặng cơ hội, họp đồng... Đặc biệt, có khi DN làm ăn thua lỗ th lại bơm thêm vốn; khoanh hoặc xóa nợ... tóm lại là với rất nhiều uu đăi bất họp lư. Chính cơ chế này đă hiệt tiêu khả năng cạnh tranh, tự vươn lên của DN; đồng thời rất nhiều DNNN ỷ lại và làm ăn theo kiếu "gà què ăn quẩn cối xay". Đồng thuận với quan điểm của TS Quang A, một chuyên gia kinh tế khác so sánh để thấy sự bất cập: Neu như các loại hnh DN khác rất sợ nợ xấu, nợ đọng..., bởi nếu "sức khoẻ tài chính" không lành mạnh th DN khó vay vốn, khó tiếp cận cơ hội làm ăn. Vì thế, họ tận dụng mọi khả năng tài chính, con người để tạo nguồn lực phát triển. Trong khi đó, rất nhiều DNNN được đầu tư tài sản, vốn nhưng lại sẵn sàng lăng phí; nhiều TCty hiệu suất sử dụng tài sản cố định chỉ đạt dưới 50%. Đặc biệt, nhiều lãnh đạo DNNN không hề có ý thức phấn đấu hả nợ, thậm chí ẹn có tư tưởng "đế lại món nợ" cho người kế nhiệm... Các chuyên gia trên cho rằng: Tnh hạng nợ xấu kéo dài của các DNNN chính là hệ lụy của sự quản lư kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Đặc biệt, hệ lụy trên cũng là lư do khiến rất nhiều DNNN tụt hậu, không bắt kịp với xu hướng đổi mới. Đồng thời đây cũng nguyên nhân năm 2007, việc cổ phần hoá chỉ đạt gần 20% kế hoạch. 4. Đổi mói doanh nghiệp nhà nước: - Bước đầu đã thiết lập được hệ thống khung pháp lý tương đối đồng bộ theo hướng tạo môi trường bình đẳng, không biệt giữa các thành phần kinh tế, giảm thiếu các thủ tục gia nhập thị trường; hoàn thiện tố chức quản lý, quản trị doanh nghiệp, trong đó quyền và nghiã vụ của chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp đã được sửa đổi theo hướng Nhà nước chỉ thực hiện các quyền và nghiã vụ như các chủ đầu tư, sở hữu vốn góp vào doanh nghiệp như các chủ đầu tư, chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác tạo điều kiện để doanh nghiệp nhà nước nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hiệu quả sản xuất kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường nhằm giải phóng và phát huy tối đa các nguồn lực trong doanh nghiệp phát triến kinh tế xã hội đất nước, phù họp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế. Cụ thể là đã ban hành: - Tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tống công ty nhà nước làm cơ sở cho việc xây dựng đề án sắp xếp, tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước theo hướng thu hẹp ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần giữ 100% vốn tại doanh nghiệp, cổ phần hoặc vốn góp chi phối tại doanh nghiệp khi thực hiện cố phần hóa, đa dạng hóa sở hữu. - Các cơ chế, chính sách nhằm đổi mới cơ chế, tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước như quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước; quy định về giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; về quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác; về chuyến đối công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; về chuyển tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước quy mô lớn sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, hình thành các tập đoàn kinh tế,... nhằm đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của công ty nhà nước; quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, động lực cũng như trách nhiệm của bộ máy quản lý công ty nhà nước; đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động của tổng công ty nhà nước,... - Các cơ chế, chính sách về sắp xếp, chuyển đổi sở hữu nhu: (i) quy định về cổ phần hóa công ty nhà nuớc theo huớng thực hiện công khai minh bạch theo nguyên tắc thị truờng, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán, mở rộng đối tượng mua cổ phần, giá trị doanh nghiệp được xác định theo cơ chế thị trường, cho phép bán bớt cổ phần tại các doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối; (ii) quy định về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước theo hướng mở rộng quy mô doanh nghiệp áp dụng, mở rộng đối tượng tham gia mua công ty nhà nước cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài, nâng mức tỷ lệ tham gia góp vốn của các đối tượng này; (iii) quy định về phá sản doanh nghiệp đã được sửa đổi theo hướng đơn giản hóa trình tự, thủ tục tạo điều kiện cho các công ty nhà nước lâm vào tình trạng phá sản có thế thực hiện phá sản. - Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, chính sách khác cũng được ban hành tạo điều kiện cho quá trình sắp xếp, đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước như ban hành cơ chế quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước, thành lập Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp - công cụ hỗ trợ doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính, góp phần tách bạch chức năng quản lý và chức năng kinh doanh, chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước,... + Đã xây dựng và phê duyệt các đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước phù họp với vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương tiến hành tổ chức thực hiện. Cụ thể là theo các đề án sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước của các bộ, ngành và địa phương đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì số lượng doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước chỉ còn khoảng 40% so với hiện nay; cố phần hóa 43%; giao bán khoán kinh doanh và cho thuê 4,5%; còn lại sẽ giải thể, phá sản, chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu; tống số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp còn khoảng 84%; lao động trong doanh nghiệp nhà nước còn khoảng 950 nghìn người (giảm 30,4%). Điểm đáng chú ý là, tháng 11/2005 Quốc hội vừa thông qua Luật Doanh nghiệp, trong đó quy định trong thời hạn 4 năm kế từ ngày Luật Doanh nghiệp có hiệu lực (1/7/2006), tất cả công ty nhà nước phải chuyển sang công ty cố phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Đây là giải pháp quan trọng trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động bình đẳng trên cùng mặt bằng pháp lý với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. + Kết quả thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước: (i) Việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trong thời gian vừa qua đã giảm đáng kể số lượng doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp quy mô nhỏ hoặc doanh nghiệp không cần duy trì sở hữu Nhà nước) và đã có tác động góp phần nâng cao năng lực nói chung của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước, tập hung chủ yếu vào những ngành, lĩnh vực quan trọng. Tính đến 31/12/2005, cả nước chỉ còn 3067 công ty nhà nước (bằng 58,2% số lượng công ty nhà nước năm 2000) và 944 doanh nghiệp có cố phần chi phối của Nhà nước. Quy mô vốn trung bình của một doanh nghiệp nhà nước đã được nâng lên, so với thời điếm 1/1/2001, vốn nhà nước tại công ty nhà nước tăng hên 50%, quy mô vốn của công ty nhà nước tăng 1,08 lần, đầu tư tài sản cố định tăng 15,8%/ năm.. Ket quả sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu cơ bản như doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục có sự tăng trưởng; cụ thế là: số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 79,4%, hòa vốn chiếm 5,4% và thua lỗ là 15,2%; doanh thu tăng bình quân 11,2%/ năm trong giai đoạn 2001-2005, tỷ suất lợi nhuận hên vốn năm 2005 đạt 15,4%. Căn cứ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty nhà nước, theo báo cáo chưa đầy đủ thì kết quả phân loại năm 2004 đối với 2.848 công ty nhà nước gồm: 42% xếp loại A, 41% xếp loại B và 17% xếp loại c. Đồng thời, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và vẫn là “lực lượng quan trọng trong thực hiện các chỉnh sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phấm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, anh ninh” (Nghị quyết Trung ương ba khoá IX). (ii) Cho đến nay, nhiều tỉnh thành phố đã hoàn thành cơ bản mục tiêu sắp xếp lại công ty nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 và Trung ương 9. Theo số liệu của Ban Chỉ đạo Đối mới và phát hiến doanh nghiệp, từ năm 2001 đến cuối năm 2005, cả nước đã sắp xếp lại được 4.011 DNNN. Trong đó cổ phần hóa 2.697 doanh nghiệp; giao, bán 257 doanh nghiệp; sáp nhập, họp nhất 447 doanh nghiệp, giải thể, phá sản 184 doanh nghiệp; và các hình thức khác: 426 doanh nghiệp. Đây là kết quả của nỗ lực sắp xếp, tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước của Nhà nước, của doanh nghiệp. Đồng thời, quá trình này đã góp phần đối mới mạnh mẽ cơ cấu khu vực DNNN, đưa nền kinh tế nước ta đáp ứng dần những yêu cầu của nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế. Mặt khác, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp sau cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu đã được cải thiện rõ rệt, thế hiện ở các chỉ tiêu tài chính, thu nhập và việc làm của người lao động tăng khá so với trước khi đa dạng hóa sở hũu Hơn nữa, việc áp dụng các hình thức giao, bán công ty nhà nước quy mô nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ cố phần hoặc không cố phần hóa được đã tránh phải giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp, khắc phục được tình trạng người lao động mất việc làm, đời sống khó khăn ttrường thấy trong các doanh nghiệp giải thể, phá sản; năng lực sản xuất của doanh nghiệp được phát huy. Bên cạnh đó, việc sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản DNNN cũng là những giải pháp được quan tâm trong thời gian qua, nhằm giảm thiếu những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, đã lâm vào tình trạng giải thể, phá sản hoặc tăng cường quy mô hoạt động của doanh nghiệp. (ii) Việc chuyến công ty nhà nước sang công ty hách nhiệm hữu hạn một thành viên không chỉ là sự chuyến đối về hình thức pháp lý mà quan trọng hơn là thông qua sự chuyển đổi tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp 100% vốn thuộc sở hữu Nhà nước phát huy đầy đủ quyền chủ động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và cùng chịu sự điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Theo số liệu của Bộ Ke hoạch và Đầu tư, tính đến cuối tháng 6 năm 2005, cả nước có 417 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên với tống số vốn đăng ký là 5.706 tỷ đồng; trong đó có khoảng 250 doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi theo hình thức này. Kết quả bước đầu cho thấy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau chuyển đổi đã dần đi vào ổn định và đã cải thiện hơn so với nhiều năm trước, đã mở rộng ngành nghề, đầu tư đạt hiệu quả tích cực, mức độ tăng trưởng và lợi nhuận đều cao hơn năm trước chuyển đổi. (iv) về việc chuyển tổng công ty, công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và hình thành một số tập đoàn kinh tế: Tính đến cuối năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép 52 doanh nghiệp thí điếm mô hình công ty mẹ - công ty con, trong đó 47 đơn vị đã được phê duyệt Đe án chuyển đổi với các phương thức khác nhau và 4 tập đoàn được thành lập; ngoài ra, còn nhiều doanh nghiệp khác không thuộc danh sách do Thủ tướng Chính phủ quyết định nhưng cũng đang hoạt động theo mô hình này. Nhìn chung, cơ cấu tố chức trong mô hình công ty mẹ - công ty con khá đa dạng về loại hình pháp lý của doanh nghiệp. Cơ cấu đa dạng này với sợi dây liên kết chủ yếu về vốn, công nghệ, thị trường,... bước đầu đã phát huy hiệu quả, lợi thế so sánh về vốn, công nghệ, thương hiệu và khả năng cạnh tranh, phù họp với yêu cầu thích ứng linh hoạt trong cơ chế kinh tế thị trường. Ket quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị sau khi chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ - công ty con nhìn chung đều tăng trưởng. Những tập đoàn mới được hình thành đều có quy mô lớn; quan hệ liên kết về tài chính, khoa học công nghệ, thông tin, mạng lưới kinh doanh; đa dạng về sở hữu, lĩnh vực, ngành nghề hoạt động; cơ cấu doanh nghiệp thành viên và lấy mô hình công ty mẹ - công ty con là liên kết chủ đạo trong cơ cấu tập đoàn. *Những vấn đề và thách thức Mặc dù, khu vực doanh nghiệp nhà nước đã có những chuyến biến và tiến bộ nhất định như đã nêu ở phần trên nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, cần có những giải pháp phù hợp để đáp ứng được những thách thức, yêu cầu nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, hội nhập về kinh tế quốc tế; đó là: + Cho đến nay vẫn chưa có các tiêu chí cụ thể và thống nhất để xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đánh giá về hiệu quả doanh nghiệp nhà nước nên nhận định chưa đúng về tác dụng của các chủ hương và biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước và các định hướng tiếp theo. Biếu hiện là vẫn còn có tình trạng sử dụng rất nhiều tiêu chí như tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong tống sản phẩm quốc nội, tốc độ tăng trưởng hàng năm, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước, chỉ tiêu về tăng quy mô về vốn, mức doanh thu, nộp ngân sách, lãi hoặc lỗ; lãi trên doanh thu, lãi trên tổng vốn hoặc vốn nhà nước.... Vì vậy, trong thời gian tới cần quan tâm hơn đến công tác phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước. + Để thực hiện được định hướng “điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu họp lý,... không nhất thiết phải chiếm tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế” (Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba - Khoá IX) và thời hạn 4 năm phải chuyến đối các công ty nhà nước sang hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp thì thách thức đối với việc sắp xếp, cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước là rất to lớn. Những thách thức đó là: - Thứ nhất là, tuy số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhiều nhưng các doanh nghiệp chuyến đối sở hữu chỉ chiếm khoảng gần 10% tống số vốn của toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu trong thời gian qua phần nhiều mang ý nghĩa sắp xếp, điều chỉnh trong nội bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước (giảm bớt doanh nghiệp quy mô nhỏ, doanh nghiệp lỗ, doanh nghiệp không cần nắm giữ, giảm bớt đầu mối, chuyển từ cấp quản lý này sang cấp quản lý khác...), mà chưa tạo được cơ cấu họp lý và chưa điều chỉnh được cơ cấu tương quan giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. - Thứ hai là, việc sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chưa được thực hiện theo một đề án tống thế kết họp giữa ngành và địa bàn mà lại được thực hiện theo từng đề án của từng bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nên còn có sự chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, giữa doanh nghiệp hung ương và doanh nghiệp địa phương trên cùng một địa bàn. - Thứ ba là, phần lớn các ngành, các cấp vẫn có tư tưởng giữ lại nhiều doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc có cổ phần chi phối của Nhà nước. Cụ thể là có tới gần 60% số doanh nghiệp được xác định là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn tại các đề án sắp xếp đã được phê duyệt không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty nhà nước. - Thứ tư là, việc triển khai thực hiện sắp xếp lại, cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua còn chậm so với tiến độ đã đề ra và chủ yếu là đối với các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ; trong khi đó, các doanh nghiệp cần chuyển đổi sở hữu trong thời gian tới lại tập trung vào các doanh nghiệp quy mô lớn, tống công ty, ngân hàng thương mại nhà nước có cơ cấu tổ chức phức tạp bao gồm nhiều pháp nhân, chi nhánh hoạt động trên các địa bàn trong cả nước lại phải vừa sắp xếp, tổ chức lại vừa phải hiến khai cố phần hóa toàn bộ tống công ty hoặc cố phần hóa một bộphận các doanh nghiệp thành viên vừa hình thành công ty mẹ có 100% vốn điều lệ do Nhà nước sở hữu trong thời hạn 4 năm như Luật định là điều không dễ dàng trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, có thể nói đây là thách thức to lớn, đòi hỏi phải có Chương trình mang tính tổng thể với những điều chỉnh quyết liệt hơn của các ngành, các cấp, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế, thực hiện các cam kết quốc tế và đàm phán gia nhập Tố chức thương mại thế giới. + Nhìn chung, quy mô của nhiều công ty nhà nước chưa đạt được yêu cầu “ỡại bộ phận doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn” như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 xác định (vẫn còn gần 40% số công ty nhà nước có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng). Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triến; chưa giảm được nhiều tình trạng xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ, bù lỗ.... ; cụ thể là: - Năm 2005, mặc dù số doanh nghiệp có lãi chiếm tới 79,4% nhưng số có mức lãi bằng hoặc cao hơn lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại chỉ khoảng 40%. Neu tính đủ chi phí phát sinh trong kỳ như khấu hao tài sản cố định, các khoản trích dự phòng phải thu khó đòi, giảm giá tồn kho, xử lý nợ khó đòi thì lãi thực tế sẽ thấp hơn rất nhiều. Tuy tống số nộp ngân sách của khu vực doanh nghiệp nhà nước khá lớn nhưng chủ yếu là thuế gián thu. - Nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước tuy đã có xu hướng giảm so với những năm hước nhưng vẫn còn lớn, trong khi khả năng thanh toán nợ rất hạn chế. Không ít đối với doanh nghiệp nhà nước kinh doanh rất kém hiệu quả, không có khả năng thanh toán nợ, ảnh hưởng đến tình hình tài chính của cả khu vực đối với doanh nghiệp nhà nước nói chung, trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước. - Năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước so với doanh nghiệp nước ngoài còn ở mức độ yếu, chi phí sản xuất, giá thành cao, nhất là các chi phí về quản lý, tiêu hao nguyên vật liệu, chi phí khấu hao, lãng phí, thất thoát lớn. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước có trình độ trang thiết bị, công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới, công suất huy động thấp dẫn đến chi phí khấu hao trên đơn vị sản phẩm cao; nhiều doanh nghiệp chỉ đạt hiệu suất sử dụng tài sản cố định 50-60%. Tỷ lệ lao động dôi dư (khoảng 20%) và lao động gián tiếp lớn, thiếu lao động tay nghề cao, năng suất lao động thấp. - Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2005 của khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp hơn nhiều so với khu vực dân doanh, chưa tương xứng với các nguồn lực Nhà nước đã đầu tư và những thuận lợi so với các thành phần kinh tế khác. Đồng thời kết quả hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu cho thấy, hầu hết các chỉ tiêu về lợi nhuận, doanh thu, đầu tư, thu nhập của người lao động đều tăng hơn so với trước khi cố phần hoá.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan