Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những yếu tố văn học dân gian trong truyện cổ phật giáo của thích minh chiếu...

Tài liệu Những yếu tố văn học dân gian trong truyện cổ phật giáo của thích minh chiếu

.PDF
154
64
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- ĐỖ THỊ THÚY NHỮNG YẾU TỐ VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO CỦA THÍCH MINH CHIẾU LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Văn học dân gian HÀ NỘI-2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- ĐỖ THỊ THÚY NHỮNG YẾU TỐ VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO CỦA THÍCH MINH CHIẾU Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 60.22.01.25 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bích Hà Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: bản luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện trên nghiên cứu lý thuyết, khảo sát trên tác phẩm cụ thể, không sao chép của ai. Số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Đỗ Thị Thúy LỜI CẢM ƠN Để luận văn được hoàn thành, trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Bích Hà – người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cho tôi trong suốt quà trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn đã dạy bảo tôi trong suốt thời gian vừa qua. Trân trọng cảm ơn các thầy cô phản biện và các thầy cô giáo trong Hội đồng đã đọc, nhận xét và góp ý về luận văn. Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đế gia đình, bạn bè... những người đã tạo điều kiện thuận lợi và cổ vũ, động viên tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện luận văn này. Dù đã có nhiều cố gắng song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ, những ý kiến đóng góp quý báu của Quý thầy cô và các bạn! Đỗ Thị Thúy MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa Phật giáo và yếu tố dân gian. .................... 2 3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 3 4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 4 5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 4 6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................... 4 7. Kết cấu của luận văn .............................................................................................. 4 NỘI DUNG ............................................................................................................... 5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO, PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO DO THÍCH MINH CHIẾU SƯU TẦM. .................. 5 1.1. Khái lược về Phật giáo ........................................................................................ 5 1.2. Phật giáo tại Việt Nam ........................................................................................ 7 1.2.1. Phật giáo trong quá trình du nhập vào Việt Nam............................................. 7 1.2.2. Đặc điểm riêng của Phật giáo Việt Nam ........................................................ 11 1.3. Phân loại trong Truyện cổ Phật giáo do Minh Chiếu sưu tầm ......................... 19 1.3.1. Truyện cổ thuần Phật giáo trong “Truyện cổ Phật giáo” ............................... 21 1.3.2. Truyện mang yếu tố dân gian trong “Truyện cổ Phật giáo” .......................... 23 Tiểu kết Chương 1 .................................................................................................... 26 CHƯƠNG 2: YẾU TỐ VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG CỐT TRUYỆN, NHÂN VẬT CỦA TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO DO THÍCH MINH CHIẾU SƯU TẦM ... 28 2.1. Yếu tố dân gian trong cốt truyện ....................................................................... 28 2.1.1. Yếu tố cổ tích trong mở đầu và kết thúc truyện ............................................. 29 2.1.2. Yếu tố dân gian trong nội dung cốt truyện của Truyện cổ Phật giáo do Thích Minh Chiếu sưu tầm. ................................................................................................ 32 2.2. Yếu tố dân gian qua nhân vật trong Truyện cổ Phật giáo ................................ 63 2.2.1. Nhân vật mang đậm tính chất cổ tích ............................................................. 63 2.2.2. Sự tương đồng và dị biệt giữa nhân vật truyện cổ tích và “Truyện cổ Phật giáo” do Thích Minh Chiếu sưu tầm. ....................................................................... 68 Tiểu kết chương 2..................................................................................................... 79 CHƯƠNG 3: YẾU TỐ VĂN HỌC DÂN GIAN QUA MOTIF TRONG TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO DO THÍCH MINH CHIẾU SƯU TẦM ................. 81 3.1. Motif xuất thân thần kỳ ..................................................................................... 82 3.1.1. Sự sinh nở thần kỳ .......................................................................................... 82 3.1.2. Motif người đội lốt ......................................................................................... 89 3.2. Motif trừng phạt ................................................................................................ 90 3.2.1. Trừng phạt do thế lực siêu nhiên.................................................................... 92 3.2.2. Sự trừng phạt do thế lực trung gian là con người .......................................... 93 3.3. Motif sự chết, hóa thân (motif tái sinh) ............................................................ 96 Tiểu kết chương 3................................................................................................... 106 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 112 PHỤ LỤC .............................................................................................................. 115 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Đã từ lâu, Phật giáo trở thành một trong những tôn giáo phổ biến nhất tại Việt Nam, gắn liền với sự hình thành và phát triển của nước Việt. Tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam với dòng chảy xuyên suốt từ thời kỳ du nhập đến nay là một quá trình mà Phật giáo luôn hội nhập vào sức sống của cả dân tộc. Phật giáo đã trải qua các thời kỳ gắn liền với quá trình “du nhập”, với công cuộc dựng nước và giữ nước, sự hưng thịnh của các triều đại Phong kiến và trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của đất nước. Vì thế, Phật giáo đã và đang trở thành một trong những tôn giáo hàng đầu, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội, thế giới tâm linh, chính trị...của Việt Nam. Với sự hình thành phát triển của Phật giáo như vậy, một dòng văn học Phật giáo Việt Nam cũng đã được hình thành và trở thành ngọn cờ tiên phong trong công cuộc khai phóng văn hóa dân tộc. Phật giáo mang sức lan tỏa lớn lao, tư tưởng, quan niệm, yếu tố Phật giáo đã bao phủ trong nhiều yếu tố văn học đặc biệt văn học dân gian. Mối quan hệ qua lại giữa Phật giáo và văn học được cả thế giới thừa nhận. Mối quan hệ giữa văn học và Phật giáo là mối quan hệ qua lại hai chiều. Phật giáo ảnh hưởng đến văn học, dùng văn học để truyền phát tư tưởng và ngược lại văn học cũng đã vay mượn những yếu tố trong Phật giáo để phổ biến hóa, ly kỳ hóa.... Văn học dân gian chiụ sự ảnh hưởng, chi phối của tư tưởng Phật giáo. Ngược lại tư tưởng Phật giáo mang những yếu tố dân gian đậm đặc, với nhiều hình ảnh, biểu tượng, motif, type của văn học dân gian. Đồng thời theo quá trình bản địa hóa, khi tư tưởng Phật giáo lan truyền vào mỗi nước đều chịu ảnh hưởng của nền văn hóa bản địa, những phong tục tập quán của vùng miền đó, khiến cho tư tưởng Phật giáo bị ảnh hưởng và có sự biến đổi sao cho phù hợp với nhận thức của con người. Quá trình như vậy tạo ra cơ hội để cả văn học dân gian và tư tưởng Phật giáo có sự trao đổi, giao lưu nhiều yếu tố lẫn nhau dẫn đến sự tiếp nhận văn hóa. 1.2. Trong những năm qua, giới nghiên cứu văn học dân gian có nhiều đề cập, luận bàn về “truyện cổ tôn giáo” đặc biệt là luận bàn về truyện cổ Phật giáo, cũng là 1 đặt truyện cổ Phật giáo dưới sự tương quan với truyện cổ dân gian để thấy được mối quan hệ qua lại hoặc trong nhau giữa hai thể loại đó. Tuy nhiên số lượng công trình nghiên cứu truyện cổ Phật giáo, cũng như văn học Phật giáo tại Việt Nam chưa nhiều. Trong khi đó, truyện cổ dân gian luôn là một tâm điểm nghiên cứu folklore trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Sự kỳ thú, những yếu tố, hiện tượng trong truyện cổ dân gian luôn chiếm được cảm tình, sự tò mò của người nghiên cứu. Vì thế truyện cổ dân gian luôn được mổ xẻ dưới nhiều góc độ khác nhau và để lại những dấu ấn lớn trong giới nghiên cứu. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa truyện cổ dân gian và truyện cổ Phật giáo lại là một chủ đề nóng hổi trong nghiên cứu văn học dân gian nhưng mối quan hệ, sự tương quan ảnh hưởng lẫn nhau đó vẫn là một bí ẩn. Một câu hỏi luôn đặt ra trong tất cả chúng ta, Phật giáo ảnh hưởng đến văn học dân gian hay ngược lại văn học dân gian chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Trong luận văn này, chúng tôi xin được minh chứng về mối quan hệ tương quan này. 1.3. Trên thực tế, chúng tôi đã có công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học Phật giáo và văn học dân gian trước kia với Báo cáo khoa học: Yếu tố dân gian trong Lục độ tập kinh của Lê Mạnh Thát và Khóa luận tốt nghiệp đại học So sánh 31 chức năng nhân vật hành động của V.Ia.Propp giữa truyện cổ tích Việt Nam và Lục độ tập kinh. Cả hai công trình nghiên cứu trước kia của chúng tôi đều đã hé mở về mối quan hệ giữa văn học phật giáo và văn học dân gian. Với luận văn thạc sĩ này, chúng tôi hy vọng đóng góp thêm một cái nhìn rõ hơn về mối quan hệ qua lại giữa Văn học Phật giáo và Văn học dân gian. 2. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa Phật giáo và yếu tố dân gian. Trong lịch sử nghiên cứu, chúng tôi thấy có khá nhiều công trình nghiên cứu về yếu tố dân gian trong các tác phẩm của văn học viết, cũng như là nghiên cứu hình thái học, thi pháp học của văn học dân gian nhưng rất ít công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa tư tưởng Phật giáo và văn học dân gian. Tiêu biểu ta có thể bắt gặp công trình nghiên cứu cuả Nguyễn Quang Lê trong bài: Thử tìm hiểu mối quan hệ giữa lễ hội cổ truyền với Phật giáo qua tín ngưỡng dân gian trên tạp chí văn hóa 2 dân gian số 4 năm 1992. Hay trên tạp chí Văn học số 5 năm 1993 có bài nghiên cứu của Lê Phong Văn hóa Phật giáo trong cổ tích. Cùng chủ đề đó ta cũng có công trình Cảm quan Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam của Lại Phi Hùng, Nguyễn Hữu Sơn đăng trên Tạp chí văn hóa dân gian số 2 năm 1994. Nguyễn Duy Đăng cũng có công trình nghiên cứu Phật giáo với văn hóa dân gian Việt Nam năm 1999. Rồi nghiên cứu của Thích Đồng Văn năm 2002 với tên Ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học dân gian Việt Nam trong chuyên san Lắng nghe, số 2 trên Website: thuvienhoasen.org. Trong sách của hòa thượng Thích Trí Quảng chúng ta cũng gặp công trình mang tên Tinh thần đạo Phật trong dân gian Việt Nam, trên Nguyệt san Giác Ngộ, số 3 năm 2003. Năm 2005, với luận văn thạc sĩ của Đỗ Văn Đăng cũng đã nghiên cứu mối quan hệ này trong công trình mang tên Truyện dân gian Việt Nam về Phật giáo nhìn từ góc độ loại hình. Gần đây vào năm 2010, Nguyễn Quang Vinh cũng đã nghiên cứu Về hình tượng Quan Âm Thị Kính trong đời sống văn hóa dân gian Việt Nam được đăng trên sách Hồn quê Việt như tôi thấy. Đặc biệt năm 2012, T.S Đặng Thu Hà đã nghiên cứu đề tài Truyện cổ Phật giáo trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Tất cả các công trình đó đã đưa ra một kết luận giữa văn học dân gian và văn học Phật giáo có sự tác động, mối quan hệ khăng khít lẫn nhau. Đặc biệt là tư tưởng Phật giáo đã ảnh hưởng lớn đối với văn học dân gian và văn hóa dân gian. Và công trình này của chúng tôi muốn tìm hiểu sự tiếp nhận những yếu tố dân gian trong một công trình đồ sộ về truyện Phật giáo để thấy được rằng Văn học Phật giáo đã tiếp thu từ văn học dân gian và thấy được sự gần gũi giữa hai loại hình văn học cổ này. 3. Mục đích nghiên cứu Với công trình này, mục đích nghiên cứu của chúng tôi muốn chỉ rõ ra được những yếu tố dân gian ẩn chứa trong từng mẩu chuyện về Phật giáo trong Truyện cổ Phật giáo do Thích Minh Chiếu sưu tầm. Thông qua luận văn, chúng tôi thấy được mối quan giữa văn học Phật giáo và văn học dân gian, sự tiếp nhận những yếu tố dân gian của truyện Phật giáo để thấy được sự gần gũi giữa hai thể loại. Đồng thời hé mở thấy được vị trí thể loại của các truyện cổ Phật giáo trong văn học dân gian Việt Nam. 3 4. Phạm vi nghiên cứu Tài liệu chủ yếu chúng tôi sử dụng là những câu chuyện về Phật giáo trong Truyện cổ Phật giáo do Thích Minh Chiếu sưu tập với 2 tập. Ngoài ra có sử dụng đối chiếu với Kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam do Nguyễn Đổng Chi và Truyện cổ tích người Việt do GS.TS Chu Xuân Diên và GS. TS Lê Chí Quế sưu tầm. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, để nắm chắc được nguồn tư liệu chúng tôi dùng các phương pháp như: - Phương pháp loại hình học - Phương pháp so sánh loại hình 6. Đóng góp của luận văn Trong luận văn, chúng tôi phân chia, lập bảng so sánh tần số xuất hiện, các yếu tố dân gian trong những mẩu truyện Phật giáo trong Truyện cổ Phật giáo. Đồng thời, luận văn sẽ phân tích kỹ lưỡng từng yếu tố dân gian ấy trong Truyện cổ Phật giáo do Thích Minh Chiếu sưu tầm. Luận văn chỉ ra được sự ảnh hưởng qua lại văn học dân gian đậm nét trong những câu chuyện của Phật giáo. Từ đó chúng tôi nhận thấy vai trò của văn học dân gian đối với văn học Phật giáo và mối quan hệ giữa hai thể loại. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Tổng quan về Phật giáo, Phật giáo ở Việt Nam và Truyện cổ Phật giáo do Thích Minh Chiếu sưu tầm. Chương 2: Yếu tố văn học dân gian trong cốt truyện, nhân vật của Truyện cổ Phật giáo do Thích Minh Chiếu sưu tầm. Chương 3: Yếu tố văn học dân gian qua những motif trong Truyện cổ Phật giáo do Thích Minh Chiếu sưu tầm. 4 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO, PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO DO THÍCH MINH CHIẾU SƯU TẦM. 1.1. Khái lược về Phật giáo Những tiếng chuông, hình ảnh của những ngôi chùa, những pho tượng, những tín đồ Phật giáo đã trở nên quen thuộc, gần gũi trên toàn thế giới. Phật giáo đã tạo nên sức ảnh hưởng sâu sắc tới toàn thể dân chúng các nước. Phật giáo nhanh chóng trở thành một trong ba tôn giáo lớn của thế giới. Phật giáo ra đời khoảng thế kỷ thứ VI, trước Công nguyên (TCN) ở Ấn Độ. Thế kỷ III, II TCN Phật giáo được coi là quốc giáo ở Ấn Độ, sau đó được truyền bá, lan tỏa sang các nước lân cận và khu vực. Ngày nay Phật giáo đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Phật giáo ra đời trong hoàn cảnh kinh tế xã hội Ấn Độ có sự chuyển biến sâu sắc. Chế độ đẳng cấp khắc nghiệt của Ấn độ cổ đại ảnh hưởng tới cuộc sống của người bình dân Ấn Độ, khiến những con người ấy bất lực, bế tắc trong cuộc sống. Sự phân hóa đẳng cấp tạo nên mâu thuẫn xã hội gay gắt và là nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc đấu tranh chống lại sự phân hóa đó, chống lại với đẳng cấp cao nhất. Tình trạng đó tạo nên cơ sở cho sự ra đời của Phật giáo. Phật giáo ra đời nhằm đem lại sự bình đẳng cho con người, sự bình đẳng về tinh thần. Khai sinh ra Phật giáo tương truyền do vị Thái Tử Tất Đạt Đa (624 – 544TCN), con vua Tịnh Phạm, trị vì nước Ca tỳ la vệ (Nê Pan ngày nay). Tất Đạt Đa - một vị hoàng tử sinh ra kỳ lạ, lớn lên tuấn tú, là kỳ vọng lớn của một đất nước. Ông sống trong cuộc sống giàu sang nơi cung vàng điện ngọc nên không biết những nỗi khổ cực, bất hạnh ngoài xã hội. Sau bốn lần trực tiếp ra ngoài thành, tận mắt chứng kiến nỗi khổ của những người nô lệ, sự bất lực của con người trước vòng trầm luân của sinh lão bệnh tử nên ông đã từ bỏ ngai vàng, cuộc sống giàu sang quyền quý, bỏ vợ 5 bỏ con lại để đi tìm đạo lý cứu đời, độ người. Lúc đầu ông đi theo con người ẩn tu, ngồi thiền tu khổ hạnh, mặc vải thô hoặc khoác da hươu, tiết giảm ăn uống, không tắm giặt... Sau nhiều năm tu luyện, Thái tử chưa thu được kết quả nào, lối tu đó không thể giải thoát con người khỏi nỗi đau sinh, lão, bệnh, tử. Cuối cùng, Người nghiệm ra rằng cần có một thân thể khỏe mạnh mới có thể tư duy để tìm ra chân lý nên ăn uống bình thường, Người đến thiền dưới gốc cây Tất – Bà la. Ông đã kiên trì theo con đường “trung đạo” ấy để có thể dẫn tới sự giải thoát. Sau 49 ngày đêm, Tất – đạt – đa đã hiểu ra được quy luật cuộc đời, nguyên nhân của nỗi đau khổ của chúng sinh và phương cách tiêu diệt nỗi khổ đau đó. Từ đó, ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni – người giác ngộ chân lý đầu tiên. Đức Phật bắt đầu sự nghiệp hoằng bá của mình, thu nạp đệ từ, thành lập các tăng đoàn Phật giáo, truyền đạo khắp lưu vực Sông Găng ở Bắc và Trung Ấn trong suốt 40 năm cho tới ngày về cõi Niết Bàn – năm 80 tuổi. Sau khi, Phật giáo ra đời ở Ấn Độ và đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Phật giáo từ chỗ một trào lưu tư tưởng bị coi là tà giáo đã phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành tôn giáo lớn, có tính chất quốc tế và được truyền bá rộng rãi. Trong quá trình phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều bộ phái khác nhau do sự bất đồng quan điểm giáo pháp và giới luật giữa các tăng đoàn Phật giáo; sự khác nhau về triết học và giáo lý trong nội bộ Phật giáo; sự tác động của các trường phái triết học khác đối với Phật giáo; sự thay đổi của đời sống xã hội Ấn Độ đương thời. Tất cả nguyên nhân chủ quan và khách quan trên dẫn tới sự phân phái của Phật giáo, nổi lên là hai tông phái chính: Thứ nhất là phái Thượng tọa bộ (Tiểu thừa) bao gồm các vị trưởng lão chủ trương bám sát kinh điển, giữ nghiêm báo luật, phái này chỉ thờ Phật Thích cao, chủ trương Phật tử phải tự giác ngộ cho bản thân mình và chỉ tu tới bậc La Hán. Phái thứ hai là Đại chúng bộ – Đại Thừa chủ trương không cố chấp theo kinh điển, khoan dung trong thực hiện giáo luật. Phái này chủ trương thờ nhiều Phật, thu nạp tất cả những người muốn quy y, tự giải thoát cho mình và giúp giải thoát cho nhiều người có thể tu thành Phật. 6 Giáo lý mà Phật Thích Ca và các đệ tử của Ngài truyền bá đến quần chúng nhân dân có nội dung đề cập đến các vấn đề về “Tứ diệu đế” và “Niết Bàn”... Đó là quá trình xoay quanh nguồn gốc của nỗi khổ, sự diệt khổ dẫn đến cõi Niết Bàn. “Tứ diệu đế” cắt nghĩa bản chất và nguyên nhân gây ra đau khổ và con đường khắc phục sự đau khổ, bao gồm tứ đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Khổ đế: bản chất của nhân sinh là khổ, nỗi khổ do con người tự gây nên, gồm “bát khổ” sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, sở cầu bất đắc khổ, ái thụ biệt khổ, oán tăng hội khổ, ngũ uẩn khổ. Tập đế giải thích nguyên nhân đau khổ do vô minh, ái dục của con người vì thế con người sống suy nghĩ và hành động không đứng đắn nên thấy được thực tướng của vạn vật là giả, là huyễn hoặc... Diệu đế là kết quả của hạnh phúc, giải thoát và an lạc. Đạo đế là con người tu dưỡng để trở thành đạo, gồm tám con đường lớn gọi là “Bát chánh đạo”. Giáo lý nhà Phật được tập trung trong cả Tam tạng gồm có Kinh tạng (ghi lại những lời thuyết pháp của Phật và một số đệ tử), Luận tạng (những lời bàn luận về kinh sách nhà Phật) và Luật tạng (lời Phật dạy về giới luật và nghi thức sinh hoạt của chúng tăng). Ngoài ra Phật giáo luôn hướng tới cõi “Niết bàn”, vậy “Niết bàn” theo quan điểm của Phật giáo là trạng thái vắng lặng, tịch diệt, nếu con người đạt tới thì sẽ sống an nhiên tự tại, vô ngã vị tha, đây là trạng thái lý tưởng. Niết bàn có thể được hiểu là một thế giới sau khi con người chết, nếu tu hành đắc đạo linh hồn sẽ được siêu thoát về thế giới lý tưởng đó. Niết bàn cũng có thể tồn tại ngay trong thế giới trần tục, con người có thể đạt tới khi loại bỏ được “tham, sân, si” thoát khỏi vô minh, sống ung dung tự tại, vô ngã vị tha. Với tư tưởng từ bi hỉ xả, vô ngã vị tha, giáo lý hướng thiện, giàu tính nhân bản, Phật giáo đã nhanh chóng lan tỏa ra nhiều nước trên phạm vi thế giới. Đạo Phật có sự ảnh hưởng rất lớn trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Đông Nam Á đạo Phật có vai trò lớn trong tôn giáo, tín ngưỡng và văn hoá. Một trong số nước chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo là Việt Nam. 1.2. Phật giáo tại Việt Nam 1.2.1. Phật giáo trong quá trình du nhập vào Việt Nam Phật giáo và Việt Nam một cách tự hiên, đi vào đời sống con người Việt một cách hòa bình, tự nguyện. Đây là sản phẩm của các thương gia Ấn Độ mang tới chứ 7 không phải từ những nhà truyền giáo như Thiên Chúa Giáo. Theo Nguyễn Lang thì những thương gia đó “không phải là những nhà truyền giáo, và mục đích của họ khi đến xứ ta là để buôn bán chứ không phải là để truyền đạo. Trong thời gian lưu lại ở giao Chỉ, họ thờ Phật, đốt trầm, đọc kinh và cúng dường những pháp Phật nho nhỏ mà họ mang theo. Người Giao chỉ ta đã áp dụng những điều hay về canh nông và về y thuật đó có những người Giao Chỉ theo đạo Phật thì đạo Phật đây cũng mới chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ cho người ốm đau đói khổ mà thôi, chứ chưa có sự học hỏi kinh điển và chế độ tăng sĩ” [27, tr. 25-26]. Thời điểm Phật giáo du nhập vào nước ta không được xác định chính xác cụ thể, các nhà nghiên cứu đều thống nhất là khoảng đầu Công Nguyên. Trong Thiền Uyển Tập Anh, tác giả có ghi chép câu chuyện thiền sư Trí Không (Thông Biện quốc sư) trả lời câu hỏi của Phù Thánh Cảm Linh Nhân hoàng thái hậu (Nguyên phi Ỷ Lan) về lịch sử truyền thừa Phật giáo ở Việt Nam. Trong câu trả lời của mình, thiền sư Trí Không có dẫn lời của pháp sư Đàm Thiên ở Trung Quốc trả lời Tùy Văn Đế về việc nhà vua muốn làm chùa tháp ở Giao Châu và đưa danh tăng sang đây hoằng hóa Phật pháp rằng: “Xứ Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có tới mười lăm quyển kinh rồi” [39; tr.89]. Điều đó phần nào chứng tỏ rằng Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng đầu Công Nguyên. Quan điểm của dã sử cho rằng Phật giáo được truyền từ Ấn Độ vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ thứ III TCN, hay cuối thời đại Hùng Vương (2879 – 258TCN), dựa trên sự kiện lịch sử trong truyện “Chử đồng tử” – trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp chép lại: “...Tiên Dung bảo Chử Đồng Tử rằng” - Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho, bây giờ nên lấy một thỏi vàng, cùng với người nhà buôn đi ra biển mà mua hàng đen về làm kế sinh nhai. Đồng Tử bèn cùng đi với nhà bán buôn; ngoài biển có một hòn núi tên là Quỳnh Viên sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ (chùa nhỏ), người đi buôn ghé thuyền ở đấy mà lấy nước ngọt. Đồng Tử lên chơi trên am, có một Tăng Sĩ tên là Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử mới lưu lại am nghe thuyết pháp, trao vàng cho 8 người đi buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về, thì nghé lại am để chở Đồng Tử cùng về. Nhà sư mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng: Linh thông ở tại những vật này đó. - Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói với Tiên Dung. Từ đó, giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, và đem nhau đi tìm thầy học đạo”. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trụ sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189. Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt", từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa [3], Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật”. Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến thế kỷ XX , mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu. Theo đường biển, các nhà sư Ấn Độ tới Giáo Châu để truyền đạo lập nên trung tâm Phật giáo lớn ở Luy Lâu. Các nhà sư đầu tiên tới truyền đạo được sử sách ghi lại gồm có bốn nhà sư: Ma-ha-kì-vực; Khâu-đà-la; Mâu Tử và Khương Tăng Hội. Theo đường bộ, Phật giáo từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam với ba tông phái chính Thiền tông, Mật tông và Tịnh độ tông. Thiền tông là tông phái do Bồ đề đạt ma (Boddidhama) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỉ VI. “Thiền” là cách gọi tắt của “Thiền na” (Dhyana), có nghĩa là “Tĩnh tâm”, chủ trương tập trung trí tuệ để quán định (thiền) nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của đạo Phật. Theo Thiền tông, "thiền" không phải là "suy nghĩ" vì suy nghĩ là “tâm vọng tưởng”, làm phân tâm và 9 mầm mống của sanh tử luân hồi. Cách tu theo Thiền tông đòi hỏi phải tập trung toàn bộ công sức và thời gian cộng với phải có khả năng đốn ngộ. Yêu cầu đó chỉ có những kẻ căn cơ cao mới có được nên người tu thiền thì nhiều nhưng người chứng ngộ quả thật rất là hiếm hoi. Thiền tông Việt Nam đề cao cái “tâm”: “Phật ở tại tâm”, tâm là Niết Bàn, hay Phật. Trần Nhân Tông viết trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo: “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” dịch: “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”. Tịnh độ tông là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu dựa trên tha lực của Phật A Di Đà là chủ yếu, tuy nhiên vẫn có tự lực. Phật Thích Ca Mầu Ni có lần thuyết giảng: “Một viên đá dù nhỏ đến mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi”. Phép tu Tịnh độ khá đơn giản, chú trọng việc đi lễ chùa, tụng niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Mục đích tu tập là đạt tới cõi Niết Bàn, tức là miền cực lạc nơi Phật A-diđà ngự. Vì vậy Tịnh Độ tông là tông phái phổ biến khắp cõi Việt Nam. Đi đến đâu ta cũng gặp người dân tụng niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật” (có nghĩa là “Nguyện quy y đức Phật A Di Đà”). Tượng Phật A Di Đà là tượng có mặt ở khắp mọi nơi và có mặt từ rất lâu đời. Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh,... Với hai con đường trên, Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ khoảng đầu Công nguyên. Với việc sử dụng những phương pháp thuyết phục, dẫn dụ để truyền bá cùng với việc giáo lý của Phật giaó không đối kháng với tín ngưỡng bản địa nên Phật giáo được người dân Việt Nam thu nhận và phạm vi ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng trở nên sâu rộng. Và dần dần, Phật giáo chiếm vị thế quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam đúng như lời của Lê Quát sống vào cuối đời nhà Trần đã nói: “Từ trong kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin, hễ nơi nào có nhà ở 10 là ắt có chùa chiền... Dân chúng quá nửa nước là sư...” [31, tr.106-107] . Trong đời sống tinh thần của người Việt Nam thì “đạo Phật thân thiết đến nỗi dường như một người Việt Nam nếu không theo một [39, tr.248] tôn giáo nào khác thì ắt là theo đạo Phật hoặc chí ít là có cảm tình với đạo Phật . Có lẽ vì vậy, chúng ta không hề ngạc nhiên khi Phật giáo trở thành tôn giáo chính thống đời Lý – Trần và để rồi: “…Phật giáo với tư cách là quốc gia, là biểu tượng tinh thần của dân tộc Việt Nam thời Lý Trần, một trong những đặc trưng văn hóa của văn hóa Việt Nam truyền thống, là một khuôn mẫu ứng xử của phép “đối nhân xử thế” Việt Nam và đạo đức Việt Nam cổ truyền...” [31, tr.106-107]. 1.2.2. Đặc điểm riêng của Phật giáo Việt Nam Phật giáo Việt Nam mang đầy đủ các đặc điểm của đạo Phật nói chung. Nhưng cũng như các tôn giáo khác khi vào một đất nước lạ, do quá trình thích nghi với địa bàn, người bản địa sẽ có sự thay đổi phù hợp với môi trường. Chính vì vậy, Phật giáo khi được truyền vào Việt Nam, đặc điểm Phật giáo ở Việt Nam sẽ khác so với Phật giáo các nước khác. Phật giáo đã hòa nhập, thích nghi và kết hợp với đời sống tâm linh, văn hóa của người dân Việt nên có những đặc điểm riêng biệt làm cho Phật giáo ở Việt Nam linh hoạt, phong phú hơn so với các nước khác rập khuôn theo Đạo Phật xuất phát từ Ấn Độ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm của Phật giáo ở Việt Nam. Trong đó có cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm đã tổng hợp một cách khá rõ ràng về đặc điểm chính của Phật giáo Việt Nam với bốn đặc điểm như sau: tính tổng hợp, khuynh hướng thiên về nữ tính, tính linh hoạt, sự cải biến linh hoạt trên cơ sở tổng hợp đạo Phật với đạo ông bà (thờ cúng tổ tiên) [37, tr. 248-255] Cả bốn đặc điểm của Nhà nghiên cứu đều dựa vào đặc trưng về tư duy, tín ngưỡng, sinh hoạt của cư dân lúa nước nên tôn giáo bị địa phương hóa, bản địa hóa và mang tính bản địa. Vì thế, tính bản địa là một thuộc tính có tính chất bao trùm, một đặc điểm đặc trưng của Phật giáo Việt Nam so với bản gốc Phật giáo của Ấn Độ. Đồng thời ta thấy Phật giáo có sự hòa lẫn với các tín ngưỡng truyền thống khác của người Việt Nam như thờ cúng Tổ Tiên, thờ mẫu...Vì thế, đặc điểm thứ hai của Phật giáo tại Việt Nam chính là tính hỗn dung tôn giáo. Cuối cùng, do quá trình tiếp 11 thu theo cách truyền miệng, truyền giáo, dần dần Phật giáo trở nên quen thuộc với mỗi người dân nó trở thành một nét văn hóa dân gian của con người, vì vậy Phật giáo tại Việt Nam mang đặc điểm tính dân gian. Tóm lại, có thể nói Phật giáo Việt Nam có ba đặc điểm chính là: tính bản địa, tính dân gian và sự hỗn dung tôn giáo. [20, tr.26]. 1.2.2.1. Tính bản địa Phật giáo du nhập vào Việt Nam trở thành một tôn giáo gắn bó giữa đạo và đời, thể hiện tinh thần nhập thế. Cũng như các tôn giáo ngoại lai khác như Thiên chúa giáo, Đạo giáo, đạo Khổng Tử...Phật giáo du nhập vào nước ta cũng có sự biến đổi sao cho phù hợp, “nhập thế” với dân tộc, con người có sự chọn lọc. Việt Nam ta luôn mang chủ trương học hỏi những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác để học tập, chắt lọc cho mình. Có lẽ vì thế, Phật giáo khi vào Việt Nam cũng đã được thanh lọc một cách vô tình nhờ sự biến đổi cho phù hợp với quan niệm, với hoàn cảnh thực tế, đời sống của nhân dân, nó được dung hòa với các tín ngưỡng bản địa khác tạo nên những đặc điểm riêng, độc đáo riêng rất Việt Nam. Không chỉ ở Việt Nam, Phật giáo mới có đặc điểm khác biệt các nước khác mà Phật giáo của Trung Quốc, Phật giáo của Ấn Độ, Phật giáo của Campuchia cũng sẽ vừa mang những nét chung lại mang những đặc điểm cá thể mà tính bản địa này quy định, tác động và tạo nên. Một số các nhà nghiên cứu đã cho rằng ngay từ buổi đầu Phật giáo vào Việt Nam, tuy ở Luy Lâu, Phật giáo đã “ không hoàn toàn giống với Phật giáo của đức Thích ca, cũng không hoàn toàn giống với Phật giáo của Ấn Độ đương thời. Nó đã bị biến dạng đi do truyền thống tư tưởng và tín ngưỡng của người Châu Giao, người Á đông”. [39, tr. 38]. Có nhiều yếu tố tác động, dẫn đến sự khác biệt trong Phật giáo, tính bản địa sẽ bao gồm các yếu tố về đời sống của từng vùng miền, tư tưởng nhập thế của những con người nơi đây, cùng theo đó là ngưỡng kiến thức của họ khi họ tiếp thu, đồng thời họ có sự giao thoa văn hóa với các tín ngưỡng dân gian, tự giao thoa với các loại tôn giáo ngoại lai. Tất cả những cái đó sẽ tạo ra tính bản địa, chi phối đến Phật giáo khi vào Việt Nam. Không chỉ có tính bản địa hóa, Phật giáo Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nhỏ hơn bởi tính khu vực hóa, vùng miền hóa. Ứng với mỗi vùng miền, 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất