Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, nguồn vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Nguồn vốn
này thường phân thành đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII) và
các nguồn vốn khác. Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc
đẩy sản xuất, thì FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát
triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng
tính minh bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp
cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng
quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ
kinh tế.
Hiện nay, các nước đang tiến tới tự do hóa tài chính hoàn toàn, mở
rộng đầu tư ra nước ngoài. Nhưng việc thu hút các nguồn vốn này cũng
có mặt trái của nó, khi các nguồn vốn đổ vào ồ ạt hay tháo chạy cùng
một lúc sẽ để lại những tác động không lường. Điều này đã gây ra rất
nhiều tranh luận là nên hay không nên kiểm soát vốn. Và nếu có kiểm
soát vốn thì nên áp dụng như thế nào để phát huy hết các lợi ích của các
luồng vốn nước ngoài.
Và trong bài nghiên cứu này, nhóm chúng tôi cũng đã đưa ra một số
tranh luận và các chứng cứ thực nghiệm để làm rõ vấn đề này.
Trong quá trình nghiên cứu có gì sai sót mong cô và bạn đọc góp ý.
Xin chân thành cảm ơn !
1
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VỐN
1. Các luồng vốn nước ngoài:
1.1 Nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development
Assistance - ODA):
* Khái niệm:
Đây là nguồn vốn thuộc chương trình hợp tác phát triển do chính
phủ các nước ngoài hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp thông qua các tổ chức
liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ cho một nước tiếp nhận.
Nguồn vốn ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại, các khoảng cho
vay với điều kiện ưu đãi về lãi suất, khối lượng vốn vay và thời hạn
thanh toán, nhằm hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ các chương trình, dự
án…
* Ưu điểm của ODA:
- Lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm)
- Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới
phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm).
- Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại,
thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA.
* Bất lợi khi nhận ODA:
- ODA là khoản cung cấp có vay có trả, gắn với những ràng buộc
của nước, tổ chức cung cấp viện trợ. Mỗi nước cung cấp ODA đều có
2
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
chính sách riêng của mình và những quy định ràng buộc khác nhau như
về kinh tế, chính trị và các điều kiện khác đối với nước nhận, nhiều khi
những ràng buộc này rất chặt chẽ.
1.2 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Foreign Direct
Investment - FDI):
* Khái niệm:
Đây là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào một
nước để đầu tư trực tiếp thông qua các hình thức như: hợp đồng hợp tác
kinh doanh, thành lập doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài.
* Lợi nhuận từ FDI của nước nhận được nguồn đầu tư:
- Khác với nguồn vốn ODA, FDI không chỉ đưa vốn vào nước sở tại,
mà còn kèm theo chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và
khả năng tiếp cận thị trường thế giới…
-Giảm bớt hoặc xoá bỏ tính không thống nhất về khoảng cách giữa
đầu tư và trao đổi ngoại hối, như trong trường hợp của bất cứ dòng chảy
vốn nào.
- Thúc đẩy kinh tế phát triển.
-Cung cấp việc làm cho người dân các nước nhận vốn.
-Cung cấp cả sự liên kết lạc hậu và tiên tiến (bằng cách cung cấp
vốn) tới các doanh nghiệp của nước nhận vốn.
Tiếp nhận FDI là lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước
đang phát triển. Song, điều quan trọng đặt ra cho các nước tiếp nhận là
phải khai thác triệt để các lợi thế co được của nguồn vốn này nhằm đạt
được những tổng thể cao về kinh tế. Bởi lẽ, FDI cũng có mặt trái của nó.
* Những bất lợi về FDI đối với các nước nhận vốn:
3
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
- Nguồn vốn FDI thực chất cũng là một khoản nợ, nó vẫn thuộc
quyền sở hữu và chi phối của nước sở tại. Ngày hôm nay, nhà đầu tư
nước ngoài đưa vốn vào và hết hạn họ lại rút ra, giống như các khoản nợ
- có vay có trả.
- Trong các khoản vay nợ, thông thường mức lãi suất do hai bên thỏa
thuận trước, còn trong đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư bao giờ cũng mưu
cầu lợi nhuận tối đa.
- Đối với các khoản nợ, người đi vay có toàn quyền sử dụng vốn
vay, còn trong FDI, chủ đầu tư vẫn toàn quyền sử dụng vốn nếu là hình
thức 100% vốn nước ngoài, còn nếu là liên doanh quyền đó cũng bị chia
sẻ dựa theo tỷ lệ góp vốn.
- Bên cạnh đó, các nước nhận đầu tư còn phải gánh chịu nhiều thiệt
thòi do phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư hay bị các nhà đầu
tư nước ngoài tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các nhân tố đầu
vào, cũng như bị chuyển giao những công nghệ cũ kỷ và lạc hậu, điều
này có thể dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường…
- Hiệu quả sử dụng: cần phải phân tích tỷ lệ % vốn thực hiện / vốn
đăng ký, đánh giá các dự án đầu tư thông qua ô nhiễm môi trường.
1.3 Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (Foreign Indirect Investment –
FII):
* Khái niệm:
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và
thông qua các định chế tài chính khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia đầu tư. Hình thức đầu tư mang tính đầu cơ nên nhà đầu tư có
4
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
thể thu lãi rất lớn thông qua biến động của thị trường tài chính và cũng
phải chịu những rủi ro khó lường.
* Thuận lợi: Góp phần giải quyết tình trạng khan hiếm vốn, tạo khởi
sắc cho thị trường tài chính.
* Bất lợi:
- Vốn đầu tư có thể là dài hạn hoặc ngắn hạn, do đó sẽ biến động
nhiều hơn FDI do nhà đầu tư có thể thêm hoặc rút vốn nhanh chóng hơn
FDI. Luồng vốn này tiềm ẩn nhiều rủi ro đảo chiều, nhất là trong điều
kiện các giao dịch vốn được tự do hóa ở mức cao. Mọi người đều ghi
nhớ rằng cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 cũng bắt nguồn từ
việc quản lý lỏng lẻo FII.
- Gây ra những lo ngại đối với ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là gia tăng
lạm phát, đẩy tỷ giá hối đoái lên cao, đe dọa xuất khẩu và làm mất cân
đối cán cân thanh toán quốc tế.
- Những biểu hiện dễ thấy nhất là tăng trưởng nền kinh tế quá nóng,
kéo theo lạm phát; làm biến động và thay đổi cơ cấu tài trợ, tiềm ẩn rủi
ro đối với sự ổn định cán cân thanh toán; đồng bản tệ có thể chịu sức ép
lên giá, dẫn đến tính cạnh tranh của nền kinh tế bị kém đi.
Vì vậy dòng vốn ngoại (bao gồm cả FDI, FII) mặc dù được đánh giá
là nguồn lực cho tăng trưởng nhưng nếu không kiểm soát và hướng
chúng theo chiều tích cực, sẽ để lại không ít "phiền toái". Trong xu thế
toàn cầu hóa, chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia tăng mạnh cả
về qui mô và tốc độ, mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp đối
phó thích hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền
vững.
5
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
2. Tự do hoá tài khoản vốn:
2.1 Khái niệm:
Tự do hóa tài khoản vốn là việc cho tự do tiến hành chuyển đổi các
tài sản tài chính trong nước thành tài sản tài chính ở nước ngoài và
ngược lại theo tỷ giá hối đoái do thị trường quy định
2.2 Vì sao phải tự do hóa tài khoản vốn:
Hình thành sự bình đẳng trong hoạt động đầu tư tài chính, các luồng
vốn luân chuyển linh hoạt và hiệu quả, tạo điều kiện tiếp cận các luồng
vốn quốc tế tăng vốn đầu tư trong nước, chuyển giao công nghệ và phát
riển thị trường tài chính;
Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp tiếp
cận nguồn vốn trong và ngoài nước với chi phí thấp, nâng cao tính tự chủ
của nhà đầu tư và khả năng phản ứng của thị trường, góp phần hoàn
thiện thể chế;
Việc mở cửa thị trường tín dụng làm tăng tính linh hoạt của các
doanh nghiệp trước những biến động về hàng hóa và lợi nhuận.
2.3 Hạn chế của việc tự do hóa tài khoản vốn:
Tự do hóa giao dịch vốn tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng, cả
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương và hoạt động kinh doanh
của các tổ chức tín dụng, các tập đoàn và ngân hàng lớn ngày càng có
ảnh hưởng mạnh đến chính sách của các quốc gia. Quá trình tự do hóa
giao dịch vốn ảnh hưởng đến các NHTM – thành viên trực tiếp tham gia
các giao dịch vốn quốc tế và thông qua hoạt động của những khu vực
khác trong nền kinh tế, gây khó khăn về quản lý tài sản, nhất là trong
6
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
việc điều chỉnh tỉ giá, lãi suất, phòng ngừa rủi ro nhằm cân bằng lợi ích
giữa việc nắm giữ ngoại tệ và nội tệ cũng như cơ cấu tiền gửi và cho vay.
Trong quá trình tự do hóa giao dịch vốn, các luồng vốn vào ngày
càng tăng mạnh. Nếu chính sách vĩ mô không đủ mạnh và quản lý tài
chính yếu kém, việc gia tăng luồng vốn vào quá mức có thể dẫn đến tăng
trưởng kinh tế quá nóng, nếu tiền cung ứng tăng quá mức so với tăng
trưởng GDP thực tế sẽ làm tăng tổng phương tiện thanh toán (M2), gây
áp lực lạm phát và biến động về tỉ giá hối đoái, làm tăng thâm hụt cán
cân vãng lai, nhất là khi sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguyên liệu
nhập khẩu, làm thay đổi cơ cấu tài trợ và tiềm ẩn rủi ro cán cân thanh
toán và tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Trong xu thế toàn cầu hóa, chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc
gia tăng mạnh cả về qui mô và tốc độ, mỗi quốc gia cần có chính sách và
biện pháp đối phó thích hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng
trưởng bền vững. Đặc biệt là, cần xác định rõ liều lượng, lộ trình và thời
điểm áp dụng chính sách, trước hết cần dựa trên mục tiêu kinh tế của
nước thụ hưởng, cơ chế tỉ giá, các qui định về thể chế. Trong đó, cần xác
định được động cơ và nguyên nhân của luồng vốn vào, cơ cấu luồng vốn,
tác động của nó đến nền kinh tế và hệ thống tài chính. Nếu luồng vốn
vào do cầu tiền trong nước tăng lên, giá chứng khoán và bất động sản
giảm, dẫn đến điều chỉnh danh mục đầu tư và không cần can thiệp vì
việc mở rộng tiền sẽ không gây áp lực lạm phát. Trái lại, khi luồng vốn
vào do lãi suất thế giới thấp hơn, giá của tài sản tài chính và bất động sản
tăng lên, trường hợp này cần có biện pháp điều chỉnh.
7
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
Luồng vốn vào quá nhiều đòi hỏi phải can thiệp nhằm giảm áp lực
tăng M2, nhưng rất tốn kém, hiệu quả của biện pháp này tùy thuộc vào
trình độ phát triển thị trường tài chính trong nước, thậm chí có thể làm
nguồn vốn vào tăng trở lại, gây khó khăn cho các nhà tạo lập chính sách,
việc điều hành chính sách tiền tệ trở nên khó khăn nếu đồng thời phải
thực hiện mục tiêu ổn định tỉ giá, duy trì chính sách tiền tệ độc lập và tài
khoản vốn mở.
Tự do hóa giao dịch tài chính quốc tế mà trọng tâm là giao dịch vốn
là vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp và cần được tiến hành một cách
có trật tự và thận trọng, tùy thuộc và điều kiện của mỗi nước, những lợi
ích tiềm năng và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính.
Tự do hóa giao dich vốn cần được thực hiện từ từ và chỉ khi đã có đủ
những điều kiện cơ bản sau đây:
- Hệ thống ngân hàng đã phát triển mạnh, có khả năng hấp thụ và
phân bổ hiệu quả các nguồn vốn vào. Đồng thời, có qui định pháp lý đầy
đủ và đồng bộ nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng và hạn
chế độc quyền.
- Cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh cao, có khả năng thích
ứng với những thay đổi kinh tế trong và ngoài nước, các công ty được
sắp xếp lại và đổi mới công nghệ nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn vay.
- Môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh để tránh thâm hụt ngân sách,
thể hiện qua các chỉ tiêu tăng trưởng GDP, tỉ lệ lạm phát, thất nghiệp,
cán cân thanh toán.
8
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
- Xây dựng hệ thống qui định thận trọng và đủ mạnh, đảm bảo thực
hiện hệ thống kế toán, kiểm toán và chế độ báo cáo phù hợp. Cơ chế thị
trường phát triển đồng bộ và có hiệu quả, có khả năng huy động mọi
nguồn lực cho tăng trưởng.
- Đảm bảo hiệu lực của các chính sách kinh tế vĩ mô và cơ chế điều
hành tỉ giá hối đoái, đảm bảo mức dự trữ ngoại hối phù hợp, có khả năng
đối phó với những biến động trên thị trường ngoại hối và tỉ giá hối đoái,
đáp ứng đủ ngoại tệ cho nhu cầu của đất nước.
- Tạo lập hạ tầng cơ sở cho thị trường trong nước trước khi tự do hóa
các GDV, đặc biệt là cơ sở hạ tầng cho hoạt động đầu tư gián tiếp vào cổ
phiếu và các công cụ nợ, góp phần giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng
ngân hàng.
3. Kiểm soát vốn (controlled capital) :
3.1
Khái niệm:
Kiểm soát vốn chính là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính
phủ dưới nhiều hình thức khác nhau để tác động (hạn chế) lên dòng vốn
nước ngoài chảy vào và ra khỏi một quốc gia để nhằm đạt “mục tiêu nhất
định” của chính phủ.
3.2
Các biện pháp kiểm soát vốn của chính phủ:
Tranh luận về các mục tiêu của kiểm soát:
- Thông qua hạn chế cán cân tài khoản vốn để cải thiện phúc lợi kinh tế.
- Điều hoà những mục tiêu chính sách.
- Bảo vệ sự ổn định về tài chính và tiền tệ.
Lý thuyết bộ ba bất khả thi:
9
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
- Chính sách tiền tệ độc lập.
- Ổn định tỷ giá.
- Hội nhập tài chính hoàn hảo.
Kiểm soát hoàn toàn
tài khoản vốn
Chính sách
tiền tệ độc lập
Thả nổi tỷ giá
hoàn toàn
Ổn định tỷ giá
Dỡ bỏ hạn chế
vệ tài chính
Hôi nhập tài
chính hoàn toàn
Cố định tỷ giá
hoàn toàn
Đây là mô hình lý thuyết rất phổ biến, gọi là mô hình MundellFleming được Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển trong
những năm 1960. Và vào những năm 1980 khi vấn đề kiểm soát vốn bị
thất bại ở nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn giữa việc neo giữ tỷ giá và
chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng thì Lý thuyết bộ ba bất khả
thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế mở.
Trên thực tế không thể đạt được cùng lúc cả ba mục tiêu: chính sách
tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá, hội nhập tài chính hoàn toàn. Một quốc gia
chỉ có thể đạt được tối đa hai trong ba mục tiêu này và việc áp dụng
chính sách nào cũng phải trả giá. Do đó, tuỳ từng tình hình cụ thể và tuỳ
10
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
vào mục tiêu của từng quốc gia sẽ áp dụng chính sách nào trong bộ ba
bất khả thi này.
Một quốc gia có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải
hi sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn, nó có thể chọn
một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song
phải để tỷ giá thả nổi hoặc có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính
sách tiền tệ , nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy
thoái.
Một kiểu khác của lý thuyết bộ ba bất khả thi rất được chú ý - với
một chính sách ổn định tỷ giá hoàn hảo, với một tài khoản vốn mở
(không bị kiểm soát) hoàn hảo, nhưng một quốc gia vẫn hoàn toàn không
thể tự chủ chính sách tiền tệ. Những ví dụ lặp lại trên thế giới cho thấy ở
những nơi và thời điểm mà tài khoản vốn bắt đầu được tự do , thì cùng
lúc xuất hiện một chính sách tỷ giá cứng nhắc hơn và sự tự chủ về chính
sách tiền tệ cũng giảm đi.
Song song với sự phát triển thương mại và dịch vụ trong thế giới
hiện đại, kiểm soát vốn rất dễ bị lãng quên. Thêm nữa, vấn đề kiểm soát
vốn còn thể hiện những thay đổi của quốc gia không đúng thực tế. Do
vậy rất khó để một quốc gia có được một hệ thống kiểm soát vốn thật sự
hiệu quả. Lý thuyết bộ ba bất khả thi khẳng định rằng: trong điều kiện
ngày nay, một quốc gia phải lựa chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ
giá hoặc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập ổn định. Nó không thể
có đồng thời cả hai.
Về phương diện lý thuyết, có hai phương thức kiểm soát vốn:
11
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
- Kiểm soát vốn trực tiếp (hay còn gọi là kiểm soát mang tính hành
chính) là việc hạn chế những giao dịch vốn, những khoản thanh toán liên
quan đến giao dịch vốn và việc chuyển ngân quỹ bằng những ngăn câm
triệt để, những hạn chế mang tính số lượng. Thông thường, loại kiểm
soát này áp đặt những nghĩa vụ hành chính lên hệ thống ngân hàng để
kiểm tra dòng vốn.
- Kiểm soát vốn gián tiếp (dựa trên cơ sở thị trường) là việc hạn chế
những biến động của dòng vốn và những giao dịch khác thông qua các
biện pháp thị trường, chủ yếu là làm cho các giao dịch vốn phải tốn kém
nhiều chi phí hơn, từ đó hạn chế các giao dịch này.
Việc kiểm soát như thế có thể xảy ra dưới các hình thức khác nhau
mà điển hình nhất là đánh thuế cao trên các dòng vốn ngắn hạn, đi liền
với việc miễn thuế đối với các dòng vốn mang tính dài hạn,hoặc xếp
hạng tín nhiệm. Đây chính là những phương thức mà chúng ta cần phải
thực hiện trong thời gian tới.
Trong hai biện pháp trên, cần phải hạn chế đến mức thấp nhất biện
pháp kiểm soát mang tính hành chính. Ngoại trừ một số ngành nghề và
lĩnh vực nhạy cảm, việc dừng lại chủ trương mở (kiểm soát trực tiếp)
đồng loạt cho các lĩnh vực như trong thời gian qua là điều mà Chính phủ
cần phải xem xét lại bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương thu hút vốn
hiện nay.
Chính sách đối với dòng vốn vào :
- Can thiệp vô hiệu hóa.
- Nâng tỷ giá.
- Các chính sách tiền tệ.
Chính sách đối với dòng vốn ra :
12
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
- Nhằm mục đích kiềm chế đầu cơ tiền tệ và ổn định thị trường ngoại
hối
- Kiểm soát dòng vốn ra trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính chỉ
tạm thời mang tính đối phó của chính phủ.
3.3 Hạn chế của kiểm soát vốn:
Có nhiều quan điểm lầm tưởng rằng nếu như áp dụng các biện pháp
kiểm soát vốn gián tiếp thì sẽ không phải trả giá. Trên thực tế, đã gọi là
kiểm soát vốn thì cho dù là áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn như thế
nào cũng phải trả một giá nhất định. –
Cái giá chung nhất chính là sẽ làm chậm lại các cơ hội thu hút vốn
đầu tư khi mà các quốc gia ngày càng cạnh tranh quyết liệt để thu hút
dòng vốn toàn cầu. Đi vào từng lĩnh vực cụ thể thì kiểm soát vốn sẽ có
những tác động nhất định.
Kiểm soát vốn không khéo có thể mâu thuẫn với chủ trương tự do
hóa các giao dịch ngoại hối.
Kiểm soát vốn làm chi phí giao dịch vốn (tính trên tổng qui mô dòng
vốn) tăng cao và sẽ làm cho dòng vốn chuyển hướng sang các quốc gia
khác. Theo nhiều khảo sát, chi phí giao dịch tại Trung Quốc hiện là
1,2%, Việt Nam là 2%; trong khi Hong Kong chỉ là 0,013%. Nếu áp đặt
thêm các biện pháp kiểm soát vốn nặng về hành chính, có khả năng dòng
vốn đang chảy vào Việt Nam sẽ chuyển huớng ngược trở về các nước có
chi phí giao dịch vốn thấp hơn như Trung Quốc chẳng hạn. Đây là cái
giá phải trả cần phải đuợc cân nhắc thấu đáo trước khi ban hành các biện
pháp kiểm soát vốn chính thức.
13
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
Kiểm soát vốn là cần thiết tuy nhiên vì sự phát triển ổn định và lành
mạnh của hệ thống tài chính, các biện pháp cần phải theo nguyên tắc bất
hồi tố, rõ ràng và có thể dự đoán được.
Làm chậm tiến trình hội nhập của một quốc gia.
Làm tăng nhận thức xấu về thị trường.
14
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
CHƯƠNG II: NHỮNG TRANH LUẬN VỀ CÁC QUAN ĐIỂM
KIỂM SOÁT VỐN :
Song song với sự phát triển thương mại và dịch vụ trong thế giới
hiện đại, kiểm soát vốn rất dễ bị lãng quên. Mỗi quốc gia có một chính
sách kiểm soát vốn khác nhau tùy theo tình hình kinh tế chính trị của
nước đó. Thêm nữa, vấn đề kiểm soát vốn còn thể hiện những thay đổi
của quốc gia không đúng thực tế. Do vậy rất khó để một quốc gia có
được một hệ thống kiểm soát vốn thật sự hiệu quả. Đã có rất nhiều ý kiến
quan điểm trái ngược nhau của các nhà kinh tế học về vấn đề kiểm soát
vốn.Có nên hay không nên kiểm soát vốn,và nếu có thì kiểm soát như thế
nào thì hiệu quả.
1/ Những quan điểm trái ngược nhau nên hay không nên kiểm
soát vốn :
1.1/ Về lý thuyết :
Có các bất đồng về những lợi ích của việc kiểm soát vốn đầu tư:
- Những nhà nghiên cứu ủng hộ việc tự do hóa vốn đầu tư đã chỉ ra
rằng chính các tài khoản vốn có tính khả hoán sẽ thu hút vốn cho các
hoạt động đầu tư, mà điều này đóng vai trò quyết định đối với một nền
kinh tế mới nổi. Ngoài ra, kiểm soát vốn sẽ tạo ra một thị trường méo
mó, ngăn cản tiến trình phân phối các nguồn lực một cách hiệu quả.
15
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
Allen và Gale (1998), thậm chí đã chứng minh rằng, theo một số điều
kiện nhất định, khủng hoảng tài chính được tối ưu, thì nó cũng có nghĩa
là thị trường tự kỷ luật mình.
- Các tác giả khác, những người ủng hộ việc kiểm soát vốn, thì lại
trình bày 3 tranh luận khác :
+Trước tiên, tự do hóa nguồn vốn sẽ dễ đẩy quốc gia vào tình trạng
của sự tấn công từ việc đầu cơ.
+Thứ hai, nó thúc đẩy những tiềm ẩn của rủi ro đạo đức do sự dễ
dàng trong việc khuếch trương tín dụng cùng với các khoản tiền gửi hoặc
cho vay bảo đảm.
+Cuối cùng, trong một cuộc khủng hoảng, thì mục tiêu ngắn hạn sẽ
là điều hòa, và làm ổn định thị trường tài chính của một quốc gia, chứ
không phải lo lắng về mặt hiệu quả.
1.2/ Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn trong cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á năm 1997:
“Việc xem kiểm soát vốn như là một phương thuốc cho cuộc khủng
hoảng”, điều này được chứng minh bằng cuộc khủng hoảng kinh tế Châu
Á năm 1997.(còn được gọi là Khủng hoảng tiền tệ Đông Á hay Khủng
hoảng IMF )
Khủng hoảng tiền tệ Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu
từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng
16
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước
châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông
Á" như : Malaysia, Hàn Quốc, Inđônêxia... Còn Đại lục Trung Hoa, Đài
Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng
không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật
phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" nhưng ảnh hưởng
của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên
toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga,
Brasil và Hoa Kỳ.
Thái Lan :
Khi các nhà đầu tư lần lượt rút tiền ra khỏi Thái Lan, trước sự kiện
đó đã buộc Thái Lan phải cầu cứu IMF. Và IMF đã hứa cho Thái Lan
một khoản vay tuy nhiên để có khoản vay này Thái Lan phải chấp nhận
một vài điều kiện, trong đó có những điều kiện rất khắc nghiệt như :
- Thắt chặt tiền tệ bằng cách nâng cao lãi suất ngân hàng, lãi suất
mua bán chứng khoán… để ngăn chặn dòng vốn chạy ra khỏi Thái lan.
- Người nước ngoài được phép sở hữu một cách hoàn toàn các tổ
chức tài chính ở Thái lan trong vòng 10 năm với các điều khoản ưu đãi
mang tính ngoại lệ nhằm thu hút ngoại tệ từ nước ngoài . Chính sách này
bị các doanh nghiệp Thái Lan, công đoàn lao động có nhiều lời chỉ trích.
17
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
- Tư nhân hóa các công ty tư nhân nhưng cũng được xem là không
hợp lý trong lúc này vì giống như đang bán tháo tài sản quốc gia cho đầu
tư nước ngoài.
- Buộc 58 trong số 91 công ty tài chính phải ngưng hoạt động
Kết quả là đồng Bath bị mất giá nghiêm trọng. (đồng baht đang ở
mức 30 baht/USD, tụt xuống 32 ngày 28/7/1997 khi chính phủ loan báo
sẽ nhờ IMF trợ giúp. Sau khi công bố các biện pháp của IMF, đồng baht
tụt giá xuống 35 vào ngày 11/9/1997, và xuống đến mức 56 baht mới đổi
được 1 dollar Mỹ vào tháng 1 năm 1998.), thặng dư thương mại ngày
càng gia tăng.
Bàn về việc IMF buộc đóng cửa các công ty tài chính, Giáo sư
Augustine Tan thuộc Đại học Quốc gia Singapore, một nhà kinh tế rất
am hiểu tình hình trong vùng đã phê bình rằng: "Tại sao lại cứ cho rằng
tất cả Ngân hàng và tổ chức tài chính là dở, là thối nát, mà phải dẹp đi
hết để làm lại từ đầu?". Ông cho rằng: “IMF đã phạm một lỗi lầm khi
đem những phương thuốc áp dụng ở Nam Mỹ ra dùng lại ở châu Á mặc
dầu căn bệnh ở đây khác hẳn”. Vì việc ra lệnh đóng cửa ngân hàng trong
giai đoạn khủng hoảng chỉ làm mọi người thêm sợ hãi, vội vã rút tiền ra
khỏi ngân hàng không kể tốt xấu, và làm mất lòng tin của tất cả. Trong
khi vấn đề chính là việc nhiều công ty thiếu tiền trả nợ ngắn hạn thì IMF
không những không đứng ra giúp điều đình hoãn nợ, mà lại cho tăng lãi
suất khiến tình hình trở nên khó khăn hơn.
Trong bài diễn văn tại Madras, Ấn Độ vào tháng 1/1998, ông
Jeffrey Sachs cho rằng “IMF đã không biết đưa ra một chương trình giải
18
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
cứu phù hợp với những nhu cầu của Đông Nam Á và chính họ "đã góp
phần vào cuộc khủng hoảng!"”. Ông chỉ trích “IMF là đã làm một điều
"thiếu suy nghĩ" khi buộc các ngân hàng phải đóng cửa, đưa đến sự sụp
đổ toàn bộ của guồng máy tài chính và khiến mọi người kinh hoàng!”
Nhà kinh tế Steve Radelet thuộc đại học Harvard cũng phê bình
rằng: "Thật hoàn toàn phi lý khi bắt những nước này phải thắt lưng buộc
bụng khi họ hiện có thừa khả năng sản xuất và mức tiết kiệm đã lên tới
30% tổng số thu nhập".
Từ Washington, chủ báo nổi tiếng và là cựu ứng cử viên Tổng
thống Mỹ, Steve Forbes cũng đã phê bình rằng: "... những phương thức
như trên chỉ làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á càng trầm trọng
thêm".
Trong một bài báo trên tờ FEER, nhà kinh tế Martin Khor, Giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu chính sách quốc tế của nhóm Third World
Network cũng đã kết luận rằng: "IMF thiếu hiểu biết về châu Á".
Trước những phản ứng chống đối từ mọi phía, IMF đã nhiều lần
lên tiếng bào chữa về những quyết định của mình. Ông Stanley Fisher,
phó chủ tịch IMF tuyên bố: "Tôi không đồng ý về điều cho rằng việc
đồng tiền ở châu Á bị phá giá nặng nề trong những tháng vừa qua là do
IMF gây ra... Nếu không có sự trợ giúp của IMF... thì những đồng tiền
này đã còn mất giá hơn nữa. Để lật ngược tình thế, các nước này phải
19
Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn
làm sao để nội tệ tăng giá trị khiến người ta chuộng hơn, và điều đó có
nghĩa là phải tạm thời nâng cao lãi suất, mặc dầu điều này sẽ đưa tới
nhiều khó khăn cho các ngân hàng và các công ty yếu".
Năm 1997, IMF liên tục cảnh báo Malaysia đề phòng hậu quả của
kiểm soát vốn, thậm chí phải đối mặt với việc vốn bị rút ra nhanh chóng.
Nhưng hiện nay, khi dòng vốn ngoại đổ vào Việt Nam quá nhiều IMF
cũng lo ngại khi đưa ra những biện pháp kiểm soát vốn phù hợp cho Việt
Nam. Điều này cho thấy IMF đang ngày càng tiến gần đến quan điểm
của Stiglitz.
Maylaisia :
Một quốc gia cũng chịu ảnh hưởng mạnh từ cuộc khủng hoảng. Thủ
tướng Mahathir Mohamad đã nhận thấy rằng thay vì thả nổi đồng tiền
(trong thời gian dài trước đây, Chính phủ Malaysia đã thực hiện chính
sách tự do hóa) và cầu cứu IMF thì đã sử dụng biện pháp kiểm soát vốn
gắt gao như :
- Ấn định tỷ giá ở mức 3,8 Ringgit/USD.
- Tập trung thị trường thứ cấp vào thị trường chứng khoán Kuala
Lumpur.
- Hạn chế các giao dịch tiền tệ và vốn của người không thường trú.
20
- Xem thêm -