MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN....................................................2
A. AFTA............................................................................................
I. AFTA và quá trình tham gia của Việt Nam..................................3
II. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam....................6
B. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT
NAM THAM GIA VÀO AFTA......................................................
I. AFTA: Thử thách hội nhập đầu tiên của Việt Nam...................10
II. Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào
AFTA.............................................................................................11
C. QUÁ TRÌNH THAM GIA VÀ LỊCH TRÌNH GIẢM THUẾ
CỦA VIỆT NAM........................................................................14
KẾT LUẬN...................................................................................15
1
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
2
A. AFTA
I. AFTA và quá trình tham gia của Việt Nam
1. Nội dung cơ bản của AFTA
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái
đầu của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự
do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó,
sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần
các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài
hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước trong khối.
Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về
AFTA được ký kết tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4, tổ
chức vào tháng 1/1992 tại Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là
Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan
(gọi chung là ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và
Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi
được kết nạp vào khối này. Theo kế hoạch ban đầu, AFTA được
hoàn thành vào năm 2008 với mục đích cơ bản là "tăng cường khả
năng cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế nhằm cung
cấp hàng hóa ra thị trường thế giới". Tuy nhiên, trước sự phát triển
và cạnh tranh mạnh mẽ của các liên kết kinh tế toàn cầu khác, cũng
như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN, năm 1994, khối
3
này quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003. Gia nhập
ASEAN năm 1995, Việt Nam cũng tham gia AFTA từ năm 1996
với mục tiêu giảm thuế quan nhập khẩu từ các nước thành viên
xuống dưới 5% vào năm 2006 và 0% vào năm 2017.
Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff - CEPT). Về
thực chất, CEPT là một thỏa thuận giữa các nước thành viên
ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ khối xuống còn 0-5%
thông qua những kế hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5
năm sau khi đạt mức thuế ưu đãi cuối cùng, các nước thành viên sẽ
tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào phi
quan thuế khác.
Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là:
Với Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993
đến 2003.
Với Việt Nam: từ 1996 đến 2006
Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998 đến 2008.
Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải
phân loại tất cả hàng hóa của mình vào một trong các danh mục
sau:
Danh mục giảm thuế (IL)
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL)
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL)
Danh mục nhạy cảm (SL)
Danh mục nhạy cảm cao
Danh mục giảm thuế (IL) bao gồm những mặt hàng sẽ được cắt
giảm thuế quan để đến khi hoàn thành CEPT sẽ có thuế suất 0-5%.
Ngay sau khi ký CEPT, mỗi nước ASEAN phải đưa ra IL của mình
để bắt đầu giảm thuế quan từ năm 1993. Trên thực tế, không phải
mặt hàng nào trong IL cũng thực sự phải giảm thuế quan, vì có
những mặt hàng trước khi đưa vào IL đã có thuế suất dưới 5%,
thậm chí bằng 0%.
4
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm những mặt hàng chưa
đưa vào giảm thuế quan ngay, do các nước thành viên ASEAN
phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong nước thích
nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế gia tăng.
Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước ASEAN phải bắt
đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm
thuế quan đối với những mặt hàng này. Quá trình chuyển từ TEL
sang IL được phép kéo dài trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển
được 20% số mặt hàng. Điều đó có nghĩa là đến hết năm thứ tám
thì IL đã mở rộng bao trùm toàn bộ TEL, và TEL không còn tồn
tại.
Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch
trình giảm thuế quan của mặt hàng đó cho đến khi hoàn thành
CEPT.
Ví dụ: Khi tham gia CEPT vào năm 1993, IL của nước A bao gồm
50 mặt hàng, TEL của nước này có 100 mặt hàng. Từ năm 1996,
nước A phải bắt đầu chuyển TEL sang IL. Nếu mỗi năm chuyển
đều 20% thì năm 1996, IL của nước này có 50 + (100*20%) = 70
mặt hàng và TEL giảm đi còn 100 - (100*20%) = 80 mặt hàng.
Năm 1997, IL sẽ là 90 và TEL sẽ là 60. Ba năm tiếp sau đó, các
con số tương ứng sẽ là 110/40, 130/20 và 150/0. Đến năm 2000, IL
của nước A sẽ bao gồm cả 150 mặt hàng và TEL không còn mặt
hàng nào nữa.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) bao gồm những mặt hàng
không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước thành viên
ASEAN có quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này nhằm bảo vệ
an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khỏe con người, động
thực vật; bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử, khảo cổ...
GEL không phải là Danh mục các mặt hàng Chính phủ cấm nhập
khẩu (NK). Một số mặt hàng có trong GEL vẫn được NK bình
5
thường, nhưng không hưởng thuế suất ưu đãi như các mặt hàng
trong danh mục giảm thuế.
Ngoài cơ chế này, để hiện thức hóa AFTA, các nước ASEAN còn
ký kết hàng loạt các thỏa thuận về thống nhất và công nhận tiêu
chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy
xác nhận xuất xứ hàng hóa của nhau, tăng cường hợp tác trong lĩnh
vực hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển công nghiệp
và xây dựng Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area AIA).
2. Quá trình tham gia của Việt Nam
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7
của ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành
AFTA của Việt Nam năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ
trình giảm thuế quan tham gia AFTA từ ngày 1/1/1996, khi đưa
875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT. Tất cả những mặt hàng
này đều đã nằm ở khung thuế suất 0-5%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực
hiện AFTA vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002,
5.500 mặt hàng (chiếm khoảng 86% tổng số mặt hàng trong biểu
thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các
mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm trong
thời kỳ 2002-2006. Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%.
Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003,
mức thuế suất trung bình của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và
Việt Nam đang là nước có mức thuế suất trung bình thấp thứ 3
ASEAN, sau Singapore và Brunei.
6
Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được
áp dụng chính thức tại Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên,
ngày 10/1/2003, Bộ Tài chính đã thông báo việc cắt giảm đó sẽ
được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7.
Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL. Đa
số đó là những mặt hàng hiện đang được bảo hộ với mức thuế suất
rất cao (30-100%), hoặc đang được quản lý bằng hạn ngạch như xi
măng , giấy , hàng điện tử, điện gia dụng , cơ khí, vật liệu xây
dựng...
II. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam
Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như những tác động có thể có
của nó đối với các nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình
7
hình cụ thể và tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam, AFTA có
thể có những tác động trên các mặt chính sau:
1. Thương mại
1.1. Nhập khẩu:
Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam
chiếm khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu (NK), trong đó nguyên
vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn.
Các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5% trước khi thực hiện
CEPT. Vì vậy, AFTA không có tác động trực tiếp tới việc NK
những mặt hàng này.
Ngoài ra, một số hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như
xăng dầu, xe máy... chưa được đưa vào danh sách giảm thuế ngay
nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác động của AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ
danh mục loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm
ngay, và loại trừ dần các hàng rào phi thuế quan (nhất là những hạn
chế về số lượng nhập khẩu). Khi đó, rất có thể NK, nhất là những
mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng lên
nếu những mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước không cạnh
tranh lại được.
1.2. Xuất khẩu:
a. Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác:
Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh
tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm
thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Song trong vài
năm tới, khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu (XK) của
Việt Nam sang các nước này không lớn do các nguyên nhân sau:
Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu (XK):
Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng 20-23% kim
ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể.
8
Nhưng những mặt hàng được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm
gần 20% kim ngạch XK sang ASEAN, tương đương với dưới 4%
tổng kim ngạch XK của Việt Nam năm 2001. Và mức tăng XK của
những mặt hàng này sang các nước ASEAN khác cũng không lớn.
Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN khá tương
đồng. Với trình độ thua kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh
trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo của chủng loại, mẫu mã
và do đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước đối tác.
Xét về bạn hàng:
2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện
với Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ
được tái xuất sang các nước khác. Nhưng ở nước này, hệ thống
thuế xuất nhập khẩu trước AFTA vốn đã thấp, gần như bằng 0%.
Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối ASEAN, 1/3 kim ngạch
xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các nước ASEAN khác
sẽ chưa làm thay đổi nhiều XK Việt Nam nếu xét theo khía cạnh
được hưởng ưu đãi thuế NK thấp.
Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch
chuyển cơ cấu sản xuất và XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng
loại hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm trong danh mục cắt giảm
của CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm thuận lợi về
yếu tố giá cả khi muốn XK sang ASEAN.
b. Về phần XK sang các nước ngoài ASEAN:
Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK
của Việt Nam sang các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu
vào cho sản xuất XK với giá rẻ hơn từ các nước ASEAN. Mặt
khác, với tư cách một thành viên của AFTA, Việt Nam có điều
kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với
nước lớn.
Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
của Mỹ (General System of Preference - GSP). Bởi GSP quy định
"giá trị một sản phẩm được sản xuất tại một nước thành viên của
một hiệp hội kinh tế, khu vực thương mại tự do (như AFTA) thì
9
được coi là sản phẩm của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ
được hưởng GSP nếu "giá trị nguyên liệu NK để sản xuất ra nó
chiếm dưới 65% giá trị sản phẩm sau khi hoàn thành thủ tục hải
quan vào Mỹ".
Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ
các nước thành viên khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng
XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị nguyên liệu dưới 65% giá trị
sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường tiếp cận và
thâm nhập thị trường Mỹ - đất nước có kim ngạch NK vượt 1000
tỷ USD mỗi năm.
Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN
xuất ra thị trường thế giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ
cũng được hưởng những lợi ích tương tự. Do đó, tham gia AFTA,
Việt Nam tiếp tục phải chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với các
thành viên khác trong hiệp hội không chỉ trên thị trường khu vực.
Cũng cần nói thêm rằng, việc Việt Nam tham gia AFTA và tổ chức
Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ( APEC ) tháng
11/1998 là những sự chứng minh, là bước chuẩn bị, tập dượt để gia
nhập WTO.
2. Đầu tư nước ngoài
2.1. Đầu tư từ các nước ASEAN khác:
AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo
hướng hợp lý hóa. Khi không còn bảo hộ, một số ngành công
nghiệp của một số nước sẽ bộc lộ sự thua kém về khả năng cạnh
tranh, để tồn tại, hoặc để thu được nhiều lợi nhuận hơn, các nhà
kinh doanh trong những ngành này sẽ đầu tư sang các nước
ASEAN khác có các yếu tố thuận lợi hơn, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN
(AIA), các nhà đầu tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước
ngoài nói chung sẽ có nhiều thuận lợi về thủ tục hành chính và tâm
lý khi đầu tư vào Việt Nam.
2.2. Đầu tư nước ngoài từ các nước khác:
10
Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ
ngoài khu vực. Đó là bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa
tại một hay một số nước và đưa ra tiêu thụ ở tất cả các nước thành
viên với mức thuế thấp và hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ. Khi
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nước, họ sẽ có một thị
trường tiềm năng rộng lớn hơn nhiều lần nước đó.
Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư
nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một
thị trường với 80 triệu dân, mà còn tính đến cả thị trường ASEAN
với trên 500 triệu người.
Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được
xem xét để đi đến quyết định đầu tư. Thuế thấp sẽ mất đi ý nghĩa
thu hút đầu tư nước ngoài nếu không đi kèm với sự ổn định chính
trị, xã hội, luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, nguồn lao động
giá rẻ và có tay nghề cao... Có thể lấy ví dụ đơn cử là Indonesia
hiện nay. Mặc dù Indonesia đã hoàn thành AFTA, nhưng rất nhiều
nhà đầu tư nước ngoài như Sony , Matsushita... đã và đang rời bỏ
nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay Việt Nam vì lo ngại và
thất vọng trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất ổn quyền lực
và tham nhũng...
Đó cũng thách thức chung cho tất cả các thành viên của AFTA. Vì
nếu như trước đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là thành
viên của AFTA, để vượt qua hàng rào thuế quan và các hạn chế
NK vào thị trường Indonesia hay Việt Nam, các nhà đầu tư nước
ngoài buộc phải đầu tư tại nước sở tại. Nhưng nay Việt Nam đã là
thành viên AFTA, nếu môi trường đầu tư vào Việt Nam không hấp
dẫn, thì thay vì đầu tư Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có thể
sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác, hoặc đơn giản hơn, chỉ cần
mở rộng hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có tại các
nước AFTA, đặc biệt là đối với các dây chuyền sản xuất đã gần hết
khấu hao nhưng vẫn vận hành tốt, rồi từ đó bán hàng sang Việt
Nam.
Như vậy, để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các
nước khác mà AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện
một cách đồng bộ và toàn diện môi trường đầu tư.
11
3. Công nghiệp:
Về lâu dài, khi các ngành công nghiệp của những nước thành viên
không còn được bảo hộ, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp
khu vực theo hướng chuyên môn hóa và phân bổ các nguồn lực
một cách hợp lý hơn. Nhưng đây là sự thay đổi và phân bổ mang
tính động và phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn và nỗ lực chủ
quan của từng nước.
Singapore sẽ đẩy mạnh phát triển các ngành hóa chất, trang thiết bị
vận tải và linh kiện điện tử, trong khi đó sẽ bỏ ngỏ các ngành cần
nhiều lao động và khoáng sản. Malaysia thì có sự sắp xếp ngược
lại. Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu
như công nghiệp giấy, chế biến gỗ, may mặc và dệt sẽ tăng nhanh.
Trong khi đó, các ngành thiết bị vận tải, hóa chất, đồ gỗ, thực
phẩm đã qua chế biến sẽ giảm mạnh.
Cũng giống như tại các nước ASEAN, ở một mức độ nào đó,
AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Trong
đó, một số ngành sẽ phát triển, một số ngành sẽ bị thu hẹp.
Tuy vậy, AFTA cũng tạo cho chúng ta điều kiện và thời gian để
chuẩn bị và vươn lên để có thể đứng vững và phát triển vì:
Thứ nhất, mọi thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA/CEPT đối
với Việt Nam được cộng thêm 3 năm;
Thứ hai, cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần
phải đưa ngay một lúc tất cả các danh mục hàng hóa vào chương
trình giảm thuế. Những mặt hàng nào có tỷ trọng NK cao và có
khối lượng giá trị tiêu thụ lớn trên thị trường nội địa có thể sẽ đưa
vào giảm thuế chậm hơn;
Thứ ba, sau khi một mặt hàng được giảm thuế, các hàng rào phi
thuế quan (nếu có đối với mặt hàng đó) sau đó 5 năm mới phải xóa
bỏ;
12
Thứ tư, việc cắt giảm thuế NK đối với một số nguyên liệu, sản
phẩm đầu vào sẽ làm giảm chi phí sản xuất và do vậy, góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh cho một số sản phẩm công nghiệp.
Vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như các
nhà kinh doanh là làm thế nào để tận dụng được những cơ hội và
thời gian một cách có hiệu quả, định hướng cơ cấu công nghiệp và
mặt hàng kinh doanh như thế nào để có thể phát huy được lợi thế
so sánh của Việt Nam trong phân công lao động khu vực.
Trên cơ sở định hướng phát triển công nghiệp theo cơ chế kinh tế
mở, Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi và đầu tư thích đáng,
đồng thời áp dụng các biện pháp bảo hộ hợp lý trong thời gian cho
phép để các ngành có tiềm năng phát triển có thể cạnh tranh không
những trên thị trường trong nước mà còn trong khu vực và trên thế
giới.
Tuy nhiên, mọi sự bảo hộ của Nhà nước đều có giới hạn. Để đứng
vững và phát triển, các doanh nghiệp cần phải khẩn trương nghiên
cứu nhu cầu thị trường trong nước và khu vực, khả năng cạnh tranh
của các nước ASEAN trong cùng lĩnh vực để kịp thời điều chỉnh
cơ cấu sản xuất, đổi mới trang thiết bị và công nghệ, nâng cao năng
lực quản lý khi sự bảo hộ không còn nữa, đặc biệt trong bối cảnh
hiện nay khi Việt Nam về cơ bản sẽ hoàn thành AFTA vào năm
2005.
4. Ngân sách nhà nước
Tham gia AFTA và thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan
theo CEPT chắc chắn sẽ tác động tới nguồn thu cho ngân sách, ít
nhất là trong giai đoạn đầu khi Việt Nam thực sự cắt giảm thuế
quan, tức là từ 1/7 năm nay. Theo số liệu những năm gần đây, NK
từ các nước ASEAN chiếm khoảng 20-23% kim ngạch NK của
Việt Nam, trong khi đó, thuế NK (trừ dầu thô) đóng góp khoảng
13
25% tổng số thu ngân sách. Như vậy, về mặt số học đơn thuần, khi
cắt giảm thuế quan, rõ ràng nguồn thu ngân sách sẽ bị giảm.
Về dài hạn, AFTA sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước. Như
vậy, cơ sở để tính toán rằng, về dài hạn, phần giảm của thuế NK do
thực hiện CEPT sẽ được bù lại bằng tăng thu do kim ngạch buôn
bán tăng và tăng thu từ các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập công ty...
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là lý thuyết, thực tế còn phụ thuộc vào sự
phát triển của sản xuất trong nước, hiệu quả của hệ thống thuế và
bộ máy thu thuế.
B. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT
NAM THAM GIA VÀO AFTA:
I. AFTA: Thử thách hội nhập đầu tiên của Việt Nam
Các cam kết của Việt Nam được tiến hành nhanh từ giữa năm
2003. Vào giữa năm 2004, Việt Nam đã đưa hơn 10.000 dòng thuế
(chiếm khoảng 95% tổng số các dòng thuế) vào danh mục các mặt
hàng sẽ được cắt giảm thuế (gọi là Inclusion List, IL) theo Chương
trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective
Preferential Tariffs, CEPT) của AFTA, trong đó gần 7.500 dòng
thuế đã được cắt giảm xuống dưới 5%. Tư liệu mới hơn cho thấy
vào năm 2005 số dòng thuế được cắt giảm sẽ tăng lên 8.459 và vào
năm 2006 sẽ tăng lên 10.443. Con số này lớn hơn sau tháng 6-2004
vì một số danh mục mới được đưa vào IL. Về tư liệu trước năm
2003, xem Bộ Tài chính (2000) và Bộ Thương mại (2001). Thông
tin mới hơn lấy từ tư liệu của Viện Quản lý kinh tế trung ương. .
Cho đến giữa năm 2003, các hàng công nghiệp được đưa vào danh
mục giảm thuế trên nguyên tắc được chọn theo tiêu chuẩn không
hoặc ít ảnh hưởng đến các ngành mới bắt đầu phát triển trong nước
và đang được bảo hộ. Những ngành này được nằm trong danh mục
loại trừ tạm thời (Temporary Exclusion List, TEL) ra khỏi khuôn
14
khổ CEPT. Tuy nhiên, từ năm 2004, trừ một vài ngoại lệ, tất cả các
mặt hàng công nghiệp đều được đưa vào chương trình giảm thuế
xuống dưới 5% chậm nhất là năm 2006.
Những mặt hàng tiêu biểu được chuyển sang danh mục giảm thuế
IL từ năm 2001 là thép xây dựng, chế phẩm kính, bộ phận và linh
kiện tivi, máy phát điện, v.v.. Những ngành chuyển từ TEL sang IL
vào năm 2002 là máy giặt, tủ lạnh, đồng hồ, linh kiện đồng hồ,
rượu vang, nước hoa, v.v.. Năm 2003, những ngành chuyển từ
TEL sang IL là bia, rượu, xăng dầu, xe hơi, xe máy, phân bón, hoá
chất, v.v.. Hầu hết đây là những mặt hàng hiện được sản xuất ở
trong nước, trong đó một số do công ty có vốn nước ngoài sản xuất
như xe hơi, xe máy và các loại đồ điện gia dụng.
Thuế suất nhập khẩu của các mặt hàng này cho đến năm 2003 là
khá cao, trên dưới 50%, đủ để bảo hộ với hàng nhập khẩu cùng
loại. Dù vậy, chênh lệch giá giữa hàng nhập và hàng sản xuất trong
nước không lớn. Điều này cho thấy sau khi các cam kết AFTA
được thực hiện hoàn toàn (năm 2006), các mặt hàng này khó giữ
vững vị trí hiện nay trên thị trường trong nước. Chẳng hạn, vào đầu
năm 2001, với máy giặt cỡ 4KG giá bán của hàng sản xuất trong
nước là 3,7 triệu đồng, trong khi hàng nhập kể cả thuế là 3,8 triệu.
Tủ lạnh 150 lít giá hàng nội là 4,31 triệu và hàng nhập là 4,85 triệu
đồng11. Theo Market & Prices, ngày 2-1-2001. . Dù thông tin này
tương đối cũ, nhưng như Chương 9 phân tích, tình hình sau đó về
căn bản không thay đổi lớn (quy mô sản xuất nhỏ, thuế nhập linh
kiện quá cao, v.v.) nên có thể nói giữa Việt Nam và Thái Lan vẫn
còn một sự cách biệt lớn về năng lực cạnh tranh. Trong phần sau
đây, ta thử đưa ra một đánh giá tổng hợp hơn về khả năng đối phó
với thách thức hiện nay của Việt Nam.
15
II. Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia
vào AFTA
1. Thuận lợi :
- Khi gia nhập AFTA , hàng hoá của Việt nam sẽ được hưởng thúê
suất ưu
đãi thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN dành
cho các
nước thành viên WTO, từ đó có điều kiện thuận lợi hơn để hàng
hoá Việt
nam có thể thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên
ASEAN.
- Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại
trong nội bộ
khối , khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán
thương mại
song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các
tổ chức
thương mại quốc tế lớn như Mỹ, nhật, EU hay WTO..
- Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có
nhiều lĩnh
vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như
VN có thế
mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng
có nhu
cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ
các khu
vực khác trên thế giới.
- Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được khả năng cạnh
tranh so với
các nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dùng được
hưởng lợi
do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn.
- Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử
dụng
vốn và kỹ thuật cao trong khu vực
16
2. Khó khăn :
- Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế
xuất
nhập khẩu giảm.
- Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi
quan
thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh
nghiệp,
buộc các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chới cạnh
tranh
khốc liệt trên thị trường khu vực : cạnh tranh thúc đẩy sản cuất
phát
triển, nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt
các
doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay đổi cơ
cấu
kinh tế.
Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt nam.
Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế
và các
doanh nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới
rộng lớn
và đầy sự cạnh tranh hơn.
Thách thức nào Việt Nam phải đương đầu khi gia nhập
AFTA?
Trước mắt, cùng với quan hệ với Trung Quốc, Khu vực thương
mại tự do ASEAN (AFTA) là thách thức trực tiếp đối với công
nghiệp hoá Việt Nam.
Về AFTA, các cam kết của VN đương được tiến hành. Cho đến
giữa năm 2001, VN đã
17
đưa gần 5000 dòng thuế (chiếm độ 80% tổng số các dòng thuế)
vào danh mục các hàng sẽ được cắt giảm thuế (gọi là Inclusion
List, IL) theo Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(CEPT) của AFTA. Khoảng 65% trong số 5000 dòng thuế đó đã
được cắt giảm xuống dưới 5% (khoảng 40% trong số 5000 dòng
thuế đã giảm xuống 0%). Theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ vào tháng 12 năm 2000, vào năm 2002 sẽ đưa thêm 510 dòng
thuế và năm 2003 đưa thêm 716 dòng thuế vào IL. Mục tiêu là đến
năm 2006, tất cả 6210 dòng thuế trong danh mục cắt giảm thuế sẽ
có mức thuế dưới 5%.
Cho đến nay, các hàng công nghiệp đuợc đưa vào danh mục giảm
thuế trên nguyên
tắc được chọn theo tiêu chuẩn không hoặc ít ảnh hưởng đến các
ngành mới bắt đầu phát
triển trong nước và đương được bảo hộ. Nhiều ngành đương được
bảo hộ nầy hiện nay
vẫn nằm trong danh mục loại trừ tạm thời (Temporary Exclusion
List, TEL) ra khỏi khuôn khổ CEPT. Tuy nhiên trong danh mục IL
cũng có nhiều ngành hiện đuơng được bảo hộ với thuế suất cao
nhưng sẽ phải giảm xuống dưới 5% chậm nhất là năm 2006.
Những mặt hàng trong TEL cũng sẽ phải được đưa vào IL để cắt
giảm thuế từ năm 2003.
Như vậy cho đến thời điểm hiện nay, những mặt hàng được tự do
nhập khẩu trong khuôn khổ AFTA không ảnh hưởng gì đến các
ngành công nghiệp trong nước. Tuy nhiên trong 3,4 năm tới, chậm
nhất là năm 2006, việc tiếp tục thực hiện các cam kết với AFTA sẽ
có tác động lớn đến các ngành công nghiệp đương trên đường phát
triển của VN. Ta thử bàn về sức cạnh tranh của một số mặt hàng
tiêu biểu.
Những mặt hàng nguyên ở trong TEL nhưng đuợc chuyển sang Il
năm 2001 là thép
xây dựng, chế phẩm kính, bộ phận và linh kiện TV, máy phát điện,
v.v... Những ngành dự định chuyển từ TEL sang IL vào năm 2002
18
là máy giặt, tủ lạnh, đồng hồ, linh kiện đồng hồ, rượu vang, nước
hoa, v.v...Năm 2003, những ngành chuyển từ TEL sang IL dự kiến
sẽ là bia, rượu, xăng dầu, xe hơi, xe máy, phân bón, hoá chất, v.v...
Hầu hết đây là những mặt hàng hiện đuơng sản xuất ở trong nước,
trong đó một số do công ty có vốn nước ngoài sản xuất như xe hơi,
xe máy và các loại đồ điện gia dụng.
Thuế suất nhập khẩu của các mặt hàng nầy hiện nay khá cao, trên
dưới 50%, đủ để
bảo hộ với hàng nhập khẩu cùng loại. Dù vậy chênh lệch giá giữa
hàng nhập và hàng sản
xuất trong nước không lớn. Điều nầy cho thấy sau khi các cam kết
AFTA được thực hiện
hoàn toàn (năm 2006), các mặt hàng nầy khó giữ vững vị trí hiện
nay trên thị trường
quốc nội. Chẳng hạn vào đầu năm 2001, máy giặt cỡ 4KG giá bán
của hàng sản xuất
trong nước là 3,7 triệu đồng trong khi hàng nhập kể cả thuế là 3,8
triệu. Tủ lạnh cỡ 150
L giá hàng quốc nội là 4,31 triệu và hàng nhập là 4,85 triệu đồng
(theo Market & price,
2/1/2001).
Những mặt hàng vừa kể, đặc biệt là đồ điện gia dụng, bộ phận xe
hơi, linh kiện điện tử,
hầu hết là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực hiện nay của Thái
Lan, Malaysia,... Do đó,
từ năm 2006, nhập khẩu của VN từ các nước nầy sẽ tăng đáng kể.
Mặt khác, nhìn cơ cấu
xuất khẩu hiện nay của VN sang các nước ASEAN ta thấy khả
năng thâm nhập thị trường
ASEAN của hàng công nghiệp VN quá yếu. Vào năm 2000, hàng
nông lâm thuỷ sản và
các nguyên liệu thô chiếm tới 70% tổng xuất khẩu của VN sang
các nước nầy (riêng dầu
19
thô chiếm tới 45%). Hàng công nghiệp xuất khẩu sang ASEAN
chủ yếu là bộ phận, linh
kiện điện tử mà phần lớn là nhờ công ty Fujitsu xuất khẩu sang
công ty con của họ ở Philippines, còn lại là quần áo, giầy dép và
hàng thủ công mỹ nghệ.
Từ những phân tích trên đây, ta có thể thấy những thách thức mà
VN sẽ đương đầu
sau khi thực hiện hoàn toàn các cam kết với AFTA như sau:
Thứ nhất là ảnh hưởng từ chiến lược tái cấu trúc của các công ty đa
quốc gia. Như đã
nói ở trên, nhiều mặt hàng công nghiệp hiện nay do các công ty có
vốn nước ngoài sản
xuất và được bảo hộ bằng thuế nhập khẩu. Khi hàng rào quan thuế
bị triệt hạ, các công
ty đa quốc gia sẽ tập trung sản xuất tại những nước có phí tổn thấp
nhất trong khu vực
AFTA. Do đó, từ nay đến năm 2006, thách thức của VN là làm sao
giữ chân các cơ sở sản xuất hiện có của các công ty đa quốc gia
đồng thời tạo cơ hội để các công ty nầy đầu tư mới hoặc chuyển
những cơ sở sản xuất ở các nước ASEAN khác sang VN.
Thứ hai, trong số các xí nghiệp quốc doanh và công ty tư nhân
trong nước cho đến nay
hoạt động được chủ yếu là nhờ chính sách bảo hộ, sau năm 2006,
nhiều doanh nghiệp
có khả năng bị đẩy ra khỏi thị truờng. Nhà nước và xí nghiệp cần
có đối sách gì từ bây
giờ?
Thứ ba, gia nhập AFTA chủ yếu là để mở rộng thị trường xuất
khẩu, đẩy nhanh quá
20
- Xem thêm -