TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
* TÊN ĐỀ TÀI :
NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ô TÔ TẠI
THỊ TRƯỜNG TP.HCM VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA.
Đề tài của nhóm gồm 47 trang 4 chương. Được trình bày từ trang 1 đến trang 49:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về rủi ro.
Được trình bày từ trang 01 đến trang 15.
Chương 2: Giới thiệu sơ lược về thị trường ô tô Việt Nam và xu hướng trên thị trường
trong thời gian tới.
Trình bày những diễn biến chính trên thị trường ô tô của nước ta từ năm 2000 cho
đến nay, nhận định xu hướng của thị trường trong thời gian sắp tới khi chúng ta đã là
thành viên chính thức của tổ chức WTO, xác định những tác động chính khi nước ta bắt
đầu mở cửa ngành công nghiệp ô tô vào năm 2006 đối với đối tượng nghiên cứu.
Được trình bày từ trang 16 đến trang 23.
Chương 3: Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ô tô tại thị trường TP.HCM.
Đây là chương quan trọng nhất vì là chương trình bày một cách hệ thống chuỗi
các rủi ro trong hoạt động kinh doanh ở lĩnh vực ô tô. Từ đó nhận diện nguyên nhân của
các rủi ro mà những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này hiện đang mắc phải.
Được trình bày từ trang 24 đến trang 37.
Chương 4:Các giải pháp và kiến nghị cho hoạt động kinh doanh ô tô tại TP.HCM.
Các giải pháp được nhóm xây dựng nhằm hạn chế các rủi ro được trình bày trong
Chương 3. Đề xuất các kiến nghị giúp các doanh nghiệp cải tiến chất lượng hoạt động
kinh doanh nhằm phòng tránh các rủi ro mà họ đã từng mắc phải
Được trình bày từ trang 38 đến trang 49.
LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Kể từ khi gia nhập WTO, đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn và thách
thức. Nền công nghiệp ô tô cũng không là một ngoại lệ. Hàng loạt chính sách bảo hộ nền
sản xuất trước kia đều phải điều chỉnh theo lộ trình hội nhập. Các doanh nghiệp kinh
doanh đang đứng trước những cơ hội to lớn nhưng cũng có không ít rủi ro trong lĩnh vực
hoạt động của mình. Thị trường ô tô Việt Nam không nhỏ dù rằng mới chỉ là tiềm năng,
thu nhập của người dân ngày càng tăng (đặc biệt là do sự tac động của thị trường tài
chính trong nước), đối tượng khách hàng ngày càng mở rộng. Việc kinh danh xe ô tô tại
Việt Nam nói chung và Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng trong tương lai sẽ là cơ hội rất
lớn cho các nhà đầu tư. Chính vì vậy, nghiên cứu các hình thức kinh doanh và những rủi
ro phát sinh trong quá trình hoạt động sẽ giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực này có
biện pháp phòng tránh và đưa ra những giải pháp thích hợp.
Cùng với sự đam mê và sự theo dõi những biến động trong ngành ô tô tại Việt
Nam, nhóm đã có những bước tiếp cận để tìm hiểu thông tin và đề tài này chính là cơ hội
để nhóm áp dụng những kiến thức quản trị rủi ro đã được học vào thực tế. Đồng thời
nâng cao sự hiểu biết về lĩnh vực mà các thành viên trong nhóm yêu thích.
Mục tiêu nghiên cứu:
Nắm bắt tình hình tổng quan và những xu hướng trên thị trường ô tô.
Nắm bắt được tình hình kinh doanh các sản phẩm trong ngành công nghiệp ô tô.
Tìm hiểu hình thức kinh doanh ô tô cũng như quy trình mua bán một sản phẩm ô tô lắp
ráp tại Việt Nam.
Từ đó nhận diện và phát hiện ra các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp trong lĩnh vực này và đề xuất những giải pháp, kiến nghị phù hợp.
Phạm vi – đối tượng nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xe ô tô
tại thị trường TP.HCM. Do khuôn khổ giới hạn của đề tài, nhóm chỉ tập trung nghiên cứu
các đối tượng kinh doanh dòng sản phẩm xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi – dòng sản phẩm chiếm
sự quan tâm nhiều nhất của người tiêu dùng hiện nay - bao gồm :
Doanh nghiệp là đại lý của những liên doanh sản xuất ô tô tại Việt Nam (đối
tượng nghiên cứu chính).
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ô tô đã qua sử dụng ( nguồn từ nhập
khẩu và trong nước).
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu mà nhóm thực hiện ở đề tài này là theo phương pháp điều
tra và quan sát, thông qua kết quả khảo sát có được, nhóm tiến hành phân tích bằng các
phương pháp quy nạp, diễn dịch từ đó nhận diện ra chuỗi các rủi ro tiềm ẩn trong hình
thức kinh doanh của đối tượng nghiên cứu.
Giai đoạn 1: xác định đối tượng diều tra. Dưa trên việc quan sát những biến
động của thị trường xe ô tô hiện nay, nhóm đã xác định dòng xe tiêu dùng (dưới
chín chỗ ngồi) hiện đang tạo sự chú ý rất nhiều trên thị trường. Các thông tin bất
lợi về các đại lý kinh doanh xe của các liên doanh lắp rắp ô tô trong nước ngày
càng nhiều. Khách hàng ngày càng thể hiện sự mất tin tưởng vào các liên doanh
lắp ráp ô tô tại Việt Nam, điều đó sẽ là rào cản lớn cho sự phát triển nền công
nghiệp ô tô nước ta. Những câu hỏi như: Các rủi ro dó có nguyên nhân từ đâu ?
Vì sao lại xuất hiện nhiều thông tin xấu dồn dập như thế ?... đã thôi thúc các thành
viên nhóm tiến hàng thực hiện đề tài. Căn cứ vào quy mô và uy tín của thương
hiệu, nhóm đã chọn ra 25 đại lý kinh doanh ô tô của 7 liên doanh bao gồm: FORD,
VINASTAR, TOYOTA, VIDAMCO, HONDA, VMC và MERCEDES BENZ ( Phục lục 1:
Danh sách các đại lý khảo sát) và tiến hành điều tra 1 nhân viên tư vấn sản
phẩm/1 đại lý theo bảng câu hỏi (Phục lục 2: Bảng Câu Hỏi Điều Tra Nhân Viên
Tư Vấn).
Giai đoạn 2: tiến hành điều tra, có thể nói việc điều ra những rủi ro trong lĩnh
vực kinh doanh ô tô đối với thành viên nhóm là khó. Ngay từ những đối tượng
khảo sát đầu tiên nhóm đã bị từ chối trả lời vì họ không có thời gian. Việc khảo
sát gặp trở ngại trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên với sự quyết tâm và lòng
đam mê mà nhóm đã có thay đổi trong hình thức khảo sát: khảo sát gián tiếp
thông qua vai trò người tiêu dùng tìm hiểu về các sản phẩm. Kết quả điều tra có
giá trị hơn, tuy nhiên, những thông tin về nguồn gốc rủi ro cũng như tần xuất suất
hiện của các rủi ro đối với các công ty là tuyệt mật và rất khó khai thác, một số
câu hỏi về rủi ro trong Bảng Câu Hỏi khi nhóm đề cập không nhận được sự phản
hồi (ví dụ câu 14, 15,18, 19) chính vì thế, để có thể thu thập những thông tin về
quy trình mua bán xe, chính sách mua bán xe của các liên doanh đòi hỏi thành
viên nhóm phải tiếp xúc mỗi một nhân viên của một đại lý nhiều lần (ít nhất là 3
và nhiều nhất là 8 lần) thông qua điện thoại, gặp gỡ trực tiếp, mail v..v… và kết
quả là nhóm đã tìm ra được một chuỗi các rủi ro liên quan trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của các đại lý tại thị trường Thành Phố Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 3: xử lý thông tin. Như đã đề cập ở giai đoạn 2, có rất ít sự phản hồi
về những thông tin của nguồn gốc rủi ro (4/25 đại lý) cũng như tần xuất suất hiện
của các rủi ro (3/25 đại lý), hoặc không đưa ra nhật định về đo lường mức độ ảnh
hưởng của các rủi ro dựa trên thang Likert. Nên khi nhóm xử lý chéo bằng SPSS
thì không thể hiện được mối tương quan nào giữa các yếu tố này, cũng như không
nói lên được mức độ ảnh hưởng chung trên toàn thị trường. Chính vì vậy, thành
viên nhóm quyết định sẽ trình bày phần các rủi ro trong chương 3 đi theo một quy
trình mua bán xe ô tô dưới chín chỗ ngồi với những rủi ro tiềm ẩn rất lớn từ chính
sách phân phối của hãng cũng như chính sách bán hàng của chính các liên doanh.
Sau đây là một số số liệu sơ cấp mà nhóm xử lý được sau giai đoạn khảo sát :
Số đại lý cùng lúc làm đại diện cho các hãng liên doanh hoặc cho các thương
hiệu xe khác nhau là 3/25.
100% các liên doanh liên quan đến đối tượng mà nhóm khảo sát áp dụng hình
thức phân phối mua đứt – bán đoạn.
100% các liên doanh áp dụng hình thức phân phối đảm bảo đầy đủ các chủng
loại khác nhau cho cùng một dòng sản phẩm đối với các đại lý.
Số các đại lý có nguồn vốn hỗ trợ từ công ty liên kết là 4/26 (VMC - C.Ty Cơ
Điện XD Nông Nghiệp & Thủy Lợi MÊKONG, HONDA - ôtô Kim Thanh,
FORD - Xí Nghiệp CN & DV ôtô Isamco Hiệp Hưng,VINASTAR - C.Ty CP
Và Đầu Tư Thương Mại A.M.C)
Số các đại lý phải vay ngân hàng và huy động nguồn vốn từ hoạt động kinh
doanh khác nhằm thanh toán trước chi phí xe cho liên doanh là 22/26.
LÔØI NOÙI ÑAÀU
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 :
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO:
1.1.1 Khái niệm rủi ro:...................................................................................................................1
1.1.2 Phân loại rủi ro:....................................................................................................................1
1.1.2.1 Theo nguồn rủi ro:.................................................................................................1
1.1.2.2 Theo đối tượng rủi ro :...........................................................................................3
1.1.3 Phương pháp nhận dạng, phân tích, kiểm soát và phòng ngừa rủi ro :
1.1.3.1 Phương pháp nhận dạng rủi ro:..............................................................................4
1.1.3.2 Phân tích rủi ro:.....................................................................................................4
1.1.3.3 Đo lường rủi ro :.....................................................................................................5
1.1.3.4 Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro:..............................................................................7
1.2 NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
NÓI CHUNG :
1.2.1 Theo nguồn rủi ro:................................................................................................................9
1.2.1.1 Rủi ro về chính trị:.................................................................................................9
1.2.1.2 Rủi ro về kinh tế:....................................................................................................9
1.2.1.3 Rủi ro pháp lý:......................................................................................................10
1.2.1.4 Rủi ro về văn hóa:.................................................................................................10
1.2.1.5 Rủi ro về tài chính:...............................................................................................11
1.2.2 Theo quá trình nhập khẩu:..................................................................................................11
1.2.2.1 Rủi ro trong quá trình thu thập thông tin, lựa chọn đối tác:................................11
1.2.2.2 Rủi ro trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng:...............................................11
1.2.2.2.1 Rủi ro trong đàm phán:..........................................................................11
1.2.2.2.2 Rủi ro trong khâu ký kết hợp đồng:.......................................................13
1.2.2.3 Rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng:..............................................................14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2:
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG Ô TÔ VIỆT NAM
VÀ XU HƯỚNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1 Tổng quan thị trường ô tô tại việt nam và hành vi của người tiêu dùng trong thời gian qua.
........................................................................................................................................................16
2.2 Dự báo xu hướng của thị trường và hành vi của người tiêu dùng trong thời gian tới.........20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3:
NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ô TÔ
TẠI THỊ TRƯỜNG TP.HCM
3.1.
NHÓM CÁC RỦI RO ĐẾN TỪ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ PHÂN PHỐI :
3.1.1. Rủi ro trong chính sách “Mua Đứt – Bán Đoạn” của các liên doanh sản xuất
ô tô trong nước...............................................................................................................................24
3.1.2. Nhóm các rủi ro trong quá trình giao dịch với khách hàng..................................26
3.1.3. Rủi ro bắt nguồn tự việc cạnh tranh nội bộ giữa các đại lý ủy quyền của nhà
phân phối :.....................................................................................................................................29
3.1.4. Rủi ro trong chính sách kinh doanh & xúc tiến sản phẩm của nhà phân phối......
........................................................................................................................................................30
3.2. NHÓM CÁC RỦI RO KHI KINH DOANH Ô TÔ ĐÃ QUA SỬ DỤNG :
3.2.1. Đối với xe nhập khẩu:.............................................................................................33
3.2.2. Xe đã qua sử dụng trong nước...............................................................................34
3.3. CÁC RỦI RO KHÁC :
3.3.1. Rủi ro từ sự thay đổi chính sách bảo hộ nền công nghiệp ô tô Việt Nam:............34
3.3.2. Rủi ro từ tuy duy của người tiêu dùng:..................................................................36
3.3.3. Rủi ro từ việc hệ thống hạ tầng không đáp ứng được nhu cầu lưu thông bằng ôtô
và đến từ quy mô và tốc độ phát triển của thị trường:..................................................................36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4 :
CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ô TÔ
TẠI TP.HCM
4.1. GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO ĐỐI VỚI ĐẠI LÝ THÔNG QUA VIỆC TĂNG CƯỜNG
MỐI QUAN HỆ VỚI KHÁCH HÀNG: “CHIỀU LÒNG KHÁCH ĐẾN – VỪA LÒNG KHÁCH
ĐI”
4.1.1 Biện pháp giảm thiểu rủi ro thông qua việc sửa đổi chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp: nên “Tập trung vào công việc bán hàng thứ cấp – đào tạo kỹ nhân viên”:...................40
4.1.2 Giải pháp hạn chế rủi ro thông qua việc thành lập bộ phận marketing - dịch vụ, hỗ trợ
và cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết cho họat động kinh doanh của đại lý................43
4.2 GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO ĐỐI VỚI ĐẠI LÝ THÔNG QUA VIỆC CỦNG CỐ NỘI
LỰC, ĐỀ XUẤT HỖ TRỢ HÃNG THAY ĐỔI BIỆN PHÁP KINH DOANH:.......................45
4.3 GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO CỦA LIÊN DOANH THÔNG QUA VIỆC TĂNG
CƯỜNG MỐI QUAN HỆ VỚI CHÍNH QUYỀN VÀ GIỚI TRUYỀN THÔNG:...................46
4.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ..................................................................................................48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC 1:Danh sách các đại lý được khảo sát
PHỤ LỤC 2: Bảng câu hỏi phỏng vấn nhân viên kinh doanh
DANH MỤC HÌNH, DANH MỤC BẢNG
BẢNG 1: Cân đối năng lực, nhu cầu , và bổ sung sản lượng ô tô đến năm 2010.......................17
BẢNG 2 :Mức thuế suất tiêu thụ đặc biệt trong ngành công nghiệp ô tô......................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương 1 :
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO
1.1 NHƯNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO:
1.1.1 Khái niệm rủi ro:
Khi nói đến rủi ro người ta thường hay nghĩ ngay đến những tổn thất, những thiệt hại
"rủi ro " tồn tại trong tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của con người. Khi rủi ro xảy ra, thường làm cho hoạt động của con người trong lĩnh vực đó gặp
khó
khăn, không ít thì nhiều gây tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh. Không ai muốn rủi ro nhưng
nó có thể xảy ra bất cứ khi nào. Vậy rủi ro là gì? Theo một số chuyên gia về quản trị rủi ro thì
"rủi ro là những tổn thất ngẫu nhiên hay một khả năng gây tổn thất hoặc khả năng xuất hiện
những biến cố không mong đợi ". Một cách tổng quát có thể nói rằng rủi ro là khả năng một kết
quả có lợi hoặc không có lợi sẽ xảy ra từ hiểm họa hiện hữu.
Tóm lại, rủi ro là điều kiện trong đó khả năng một sự bất lợi sẽ xuất hiện so với dự đoán
khi có biến cố xảy ra. Rủi ro đi với bất ổn, lo lắng, tổn thất. Đây là khái niệm có thể nói là tổng
quát nhất, nó bao quát tất cả mọi lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu. Tuy nhiên, trong lĩnh vực kinh
doanh nhập khẩu thì rủi ro có thể được khái niệm như sau: "Rủi ro trong kinh doanh nhập khẩu
là những gì tồn tại khách quan và chủ quan trong môi trường kinh doanh nhập khẩu tạo ra
những tổn thất, mất mát hoặc bỏ qua những cơ hội mất đi những gì đáng ra phải có trong tương
lai đối với các nhà kinh doanh nhập khẩu trong quá trình thực hiện thương vụ nhập khẩu "
1.1.2 Phân loại rủi ro:
Tùy thuộc vào việc chọn tiêu chí khác nhau mà có nhiều loại rủi ro khác nhau và cũng tạo ra
nhiều cách phân loại khác nhau: theo nguồn rủi ro, đối tượng rủi ro, quá trình nhập khẩu,...
1.1.2.1 Theo nguồn rủi ro:
Đây là tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất trong việc phân loại rủi ro và có thể phân
thành các loại rủi ro sau:
Môi trường thiên nhiên: rõ ràng, một trong những nguồn rủi ro cơ bản nhất là môi trường
vat chất xung quanh chúng ta. Động đất, hạn hán, bão lụt, đều có thể dẫn đến tổn thất. Sự bất lực
của chúng ta trong việc hiểu biết môi trường chúng ta đang sống, sự ảnh hưởng của nó đối với
chúng ta và ngược lại là nguyên nhân chủ yếu của rủi ro này.
Môi trường văn hoá: là những rủi ro dosự thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, lối sống, nghệ thuật, đạo đức, …. Của dân tộc khác, từ đó dẫn đến cách hành xử không
phù hợp , gây ra những thiệt hại, tổn thất và mất cơ hội kinh doanh.
Môi trường xã hội: Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi của con người, cấu trúc xã
hội, các định chế,... là rủi ro thứ hai. Nhiều nhà kinh doanh trên thế giới đã gặp phải những thất
bại ê chề khi bước vào môi trường kinh doanh quốc tế. Chẳng hạn như sự khác biệt về các chuẩn
mực
xã hội ở Nhật đã cho thấy đây là một nguồn bất định quan trọng đối với các danh nhân ở các
nước trên thế giới.
Môi trường chính trị: Trong một đất nước, môi trường chính trị có thể là một nguồn rủi
ro rất quan trọng. Chính sách của một tổng thống có thể ảnh hưởng nghiêm trọng lên các tổ chức
chẳng hạn như việc cắt giảm ngân sách địa phương, ban hành các qui định mới.... Trên phương
diện quốc tế, môi trường chính trị còn phức tạp hơn do đó sẽ tạo ra nhiều rủi ro hơn. Không phải
tất cả các quốc gia điều dân chủ trong cách điều hành, nhiều nơi có thái độ và chính sách khác
nhau về kinh doanh. Tài sản nước ngoài đôi khi có thể bị nước chủ nhà "quốc hữu hóa " hay việc
thay đổi liên tục về chính sách thuế, các qui định về kinh doanh xuất nhập khẩu.... Môi trường
chính trị cũng có thể tác động tích cực thông qua các chính sách tài chính và tiền tệ, việc thực thi
pháp luật, giáo dục cộng đồng.
Môi trường luật pháp: có rất nhiều sự bất định và rủi ro phát sinh từ hệ thống pháp luật.
Luật pháp không chỉ để ra các chuẩn mực và các biện pháp trừng phạt. Vấn đề là bản thân xã hội
có sự tiến hóa và các chuẩn mực này có thể không tiên liệu được hết. Ơ phạm vi quốc tế còn
phức tạp hơn vì các chuẩn mực luật pháp có thể thay đổi rất nhiều từ nơi này sang nơi khac cụ
thể là thị trường Hoa kỳ.
Môi trường kinh tế. Mặc dù môi trường kinh tế thường vận động theo môi trường chính
trị nhưng sự phát triển rộng lớn của thị trường toàn cầu đã tạo ra một nền kinh tế chung cho tất
cả các nước. Mặc dù các hoạt động của chính phủ có thể ảnh hưởng tới thị trường vốn thế giới
nhưng hầu như một quốc gia không thể kiểm soát nổi thị trường này. Tình trạng lạm phát, suy
thoái, đình đốn là các yếu tố của hệ thống kinh tế mà không một quốc gia nào có thể kiểm soát
nổi.
Môi trường hoạt động: Quá trình hoạt động của tổ chỉ có thể làm phát sinh rủi ro và bất
định. Các hoạt động của tổ chức có thể gây tổn hại cho môi trường. Kinh doanh quốc tế có thể
gặp các rủi ro và bất định do hệ thống giao thông vận chuyển không tin cậy.
Vấn đề nhận thức: Khả năng của một nhà quản trị rủi ro trong việc xem xét, đo lường,
đánh giá chưa phải là hoàn hảo. Một nguồn rủi ro quan trọng đối với hầu hết các tổ chức là sự
nhận thức và thực tế hoàn toàn khác nhau. Môi trường nhận thức là nguồn rủi ro đầy thách thức
trong việc nhận diện và phân tích rủi ro. Vì những phân tích đó đòi hỏi trả lời những câu hỏi
như: "làm sao hiểu được ảnh hưởng của sự bất định lên tổ chức ? " hay "làm sao biết được cái
mình nhận thức là đúng với thực tế? "
1.1.2.2 Theo đối tượng rủi ro :
Theo đối tượng rủi ro cũng có thể phân chia rủi ro thành các loại:
Nguy cơ rủi ro về tài sản: là khả năng được hay mất đối với tài sản vật chất, tài sản tài
chính hay tài sản vô hình và các kết quả này xảy ra do các hiểm họa hoặc rủi ro. Tài sản có thể
bị hư hỏng, bị hủy hoại hay tàn phá, mất mát hoặc giảm giá theo nhiều cách khác nhau. Việc
không sử dụng tài sản trong một thời gian - tổn thất về mặt thời gian - là một ví dụ cho một loại
tổn thất thường bị bỏ qua.
Nguy cơ rủi ro về trách nhiệm pháp lý: là các nguy cơ có thể gây ra các tổn thất về trách
nhiệm pháp lý đã được quy định chi tiết trong các bộ luật dân sự và hình sự. Nguy cơ rủi ro về
trách nhiệm pháp lý thực chất là một bộ phận của nguy cơ rủi ro về tài sản nhưng nó cũng có
những đặt trưng khác hẳn các nguy cơ rủi ro về tài sản vì nó là nguy cơ rủi ro thuần túy
Nguy cơ rủi ro về nguồn nhân lực: là nguy cơ rủi ro có liên quan đến "tài sản con người"
của tổ chức. Rủi ro có thể gây tổn thương hay tử vong cho các nhà quản lý, công nhân viên hay
các đối tượng có liên quan đến tổ chức như khách hàng, người cung cấp, người cho vay, các cổ
đông,....
Các yếu tố mạo hiểm và mối nguy hiểm phát sinh từ các nguồn rủi ro và đối tượng rủi ro
này nhiều vô kể. Một số có thể tưởng tượng được, một số thì không. Một vài mối nguy hiểm có
thể phát sinh từ nhiều nguồn rủi ro khác nhau như cháy nổ hàng hóa chẳng hạn nó có thể phát
sinh do môi trường vật chất (sét đánh) hay do môi trường xã hội (bạo động).... Dựa vào những
cách phân loại này người ta có thể hình dung được các loại rủi ro có thể xảy ra trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, từ đó tìm
ra những phương pháp nhận dạng, phân tích, kiểm soát và phòng ngừa chúng.
1.1.3 Phương pháp nhận dạng, phân tích, kiểm soát và phòng ngừa rủi ro :
1.1.3.1 Phương pháp nhận dạng rủi ro:
Là quá trình nhận biết, xác định một cách liên tục và có hệ thống những nguy cơ rủi ro
tiềm năng đối tài sản, trách nhiệm pháp lý và nguồn nhân lực... mà những hiểm họa và mối nguy
hiểm đó sẽ dẫn đến những tổn thất của một tổ chức trong hoạt động kinh doanh. Các hoạt động
nhận dạng nhằm phát triển thông tin về nguồn gốc rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa, đối
tượng rủi ro, và các loại tổn thất. Nhận dạng bao gồm các công việc nghiên cứu, xem xét môi
trường hoạt động của công ty kinh doanh nhằm theo dõi các rủi ro đang có, nhận dạng rủi ro mới
để có thể đề ra các biện pháp phòng tránh rủi ro cho công ty kinh doanh.
Thông thường một nhà quản trị rủi ro khó mà xác định được hết các rủi ro của tổ chức, từ
đó không thể có những biện pháp quản lý đối với các rủi ro chưa phát hiện được, thành ra tổ
chức vô tình giữ lại những rủi ro
này. Vì vậy, một phương pháp nhận dạng rủi ro có hệ thống là rất cần thiết.
Để xác định được tất cả các khả năng được và mất, trước tiên cần một phương pháp
nhằm tìm hiểu tất cả các kết quả có thể xảy ra đối với nhà kinh doanh. Phương pháp thường
dùng hiện nay hay được các nhà quản trị rủi ro sử dụng đó là dùng bảng liệt kê. Một bảng liệt kê
các tổn thất tiềm năng hầu như luôn luôn hình thành từ một bảng câu hỏi được thiết kế để phục
vụ cho mục đích rộng hơn. Thông thường bảng câu hỏi yêu cầu các thông tin cần thiết để nhận
dạng và xử lý các đối tượng rủi ro.
Ví dụ : người ta có thể hỏi xem công ty đã gặp rủi ro nào, tổn thất bao nhiêu, các tổn thất
tiềm năng... thông tin thu thập được cũng hữu ích cho việc xây dựng các biện pháp phòng tránh
rủi ro sau này. Chúng thường bao gồm các câu hỏi được thiết kế để nhắc nhà nhập khẩu các tổn
thất có thể có, thu thập thông tin diễn tả cách và mức độ doanh nghiệp gặp phải các tổn thất tiềm
năng đó.
1.1.3.2 Phân tích rủi ro:
Việc liệt kê các rủi ro mới chỉ là bước khởi đầu trong quá trình nghiên cứu phòng ngừa
rủi ro. Một bước quan trọng tiếp theo đó là phân tích các rủi ro. Bất cứ rủi ro nào cũng phải được
phân tích. Dan Peterson một chuyên gia hiện đại còn lưu ý rằng đằng sau một rủi ro không phải
chỉ có một mà gồm nhiều yếu tố cấu thành, có nguyên nhân gần, nguyên nhân xa và thông tin là
các nguyên nhân chủ yếu thường có liên hệ đến hệ thống quản lý. Việc tìm ra các nguyên nhân
có vai trò quan trọng xác định xây dựng các biện pháp phòng tránh rủi ro.
Phân tích tổn thất: đó là quá trình mành quản trị rủi ro ước lượng các điều kiện tạo nên
rủi ro, mối nguy hiểm cùng với những hiểm họa có thể gây ra những tổn thất, phân tích tổn thất
sẽ thấy được rất nhiều chi tiết, hiểu thêm về nguyên nhân rủi ro và tầm quan trọng của việc kiểm
soát chúng. Một kỹ thuật tỏ ra ngày càng hữu dụng trong việc phân tích các nguyên nhân tai nạn
là phương pháp truy lỗi. Kỹ thuật này có thể được dùng trong phân tích tổn thất để .xác định
nguyên nhân và hậu quả rủi ro. Nó chỉ ra nhiều nguyên nhân rủi ro và có phải là tất cả hay chỉ
cần một nguyên nhân phải có để tạo nên rủi ro. Từ đó cung cấp cơ sở để ngăn ngưa các rủi ro
này. Một phương pháp khác cũng thường được sử dụng như một công cụ để phân tích tổn thất
đó là chuỗi rủi ro, nó sẽ cung cấp một cấu trúc phân tích để xem xét mối quan hệ giữa hiểm họa
và tổn thất. Phương pháp này xem xét các mối hiểm họa, môi trường, tương tác giữa các mối
hiểm họa và môi trường, kết quả của sự tương tác và hậu quả lâu dài của sự tương tác. Đây là
phương pháp rất hữu dụng trong đánh giá rủi ro và đề xuất các công cụ kiểm soát rủi ro phù hợp.
1.1.3.3 Đo lường rủi ro :
Nhận dạng rủi ro và các kết quả có thể có là bước khởi đầu trong quá trình đánh giá rủi
ro. Tuy nhiên bước này cung cấp ít thông tin để đo lường mức độ quan trọng của rủi ro đối với
doanh nghiệp. Sự đo lường là quan trọng vì nó cho ta thấy mức độ nghiêm trọng của rủi ro ảnh
hưởng tới doanh nghiệp từ đó nhận biết được rủi ro nào cần phải được quan tâm nhiều và doanh
nghiệp cần phải đầu tư chú trọng tới việc quản trị và kiểm soát rủi ro.
Để đo lường rủi ro nhà quản trị cần phải xây dựng thước đo mức độ nghiêm trọng của rủi
ro đối với doanh nghiệp và áp dụng thước đo này vào các rủi ro đã được xác định. Đồng thời nhà
quản trị cũng phải kết hợp với việc nghiên cứu yếu tố về tần suất xuất hiện của rủi ro đó là việc
nghiên cứu về số lần xảy ra tổn thất hay xác suất xảy xảy ra một biến cố nguy hiểm trong một
đơn vị thời gian. Các số liệu thu thập được từ việc nghiên cứu này rất hữu ích trong việc xác
định phương pháp tốt nhất để quản lý các nguy cơ rủi ro chẳng hạn nó như giúp cho các nhà
quản trị có thể ước lượng được giá trị trung bình của tổn thất, biên độ của tổn thất hay ước lượng
được mức độ biến động của tổn thất.
Người ta thường dùng ma trận sau đây để đo lường mức độ nghiêm trọng và tần suất
xuất hiện rủi ro:
Ma trận đo lường rủi ro:
Tần suất
Mức ñộ
xuất hiện
nghieâm trọng
Cao
Thấp
(Nguồ
ng 78
trình
trị rủi
n:Tra
Cao
I
II
Giáo
Thấp
III
IV
quản
ro và khủng hoảng–PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân)
Trong đó:
o Tần xuất xuất hiện của rủi ro là số lần xảy ra tổn thất hay khả năng xảy ra biến cố nguy
hiểm đối với tổ chức trong một khoảng thời gian nhất định (thường là tháng, quý...)
o Mức độ nghiêm trọng của rủi ro đo bằng những tổn thất mất mát, nguy hiểm
Ô số I diễn tả các rủi ro có tần số và độ nghiêm trọng đều cao, tổn thất xảy ra thường
xuyên và mỗi lần đều nghiêm trọng.
Ô số II diễn tả các rủi ro có tần số thấp và độ nghiêm trọng cao, rủi ro ít khi xảy ra
nhưng nếu xảy ra thì nghiêm trọng.
Ô số III diễn tả các rủi ro có tần số cao và độ nghiêm trọng thấp tổn thất thường xảy
ra nhưng từng tổn thất tương đối thấp.
Ô số IV diễn tả các rủi ro có tần số và độ nghiêm trọng thấp, những rủi ro này ít khi
gây ra tổn thất, và nếu tổn thất có xảy ra cũng tương đối thấp.
Cả hai số liệu về tần số và mức độ nghiêm trọng của tổn thất đều cần thiết để đánh giá
mức độ quan trọng tương đối của một nguy cơ rủi ro đối với tổn thất tiềm năng. Sự quan trọng
của một nguy cơ rủi ro thường phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tổn thất chứ không phải
của tần số Một rủi ro có thể gây ra thiệt hại to lớn dù hiếm khi xảy ra, đáng quan tâm hơn nhiều
so với rủi ro thường gây ra những tổn thất nhỏ và không có tổn thất lớn.
Để xác định mức độ nghiêm trọng của tổn thất, nhà quản trị phải đánh giá tất cả các loại
tổn thất là hậu quả trực tiếp của một sự cố cũng như toàn bộ hậu quả về tài chính mà tổ chức
phải gánh chịu. Thông thường hai đại lượng phổ biến được dùng để đo mức độ nghiêm trọng
của tổn thất là tổn thất lớn nhất có thể có và tổn thất lớn nhất có lẽ có. Tổn thất lớn nhất có thể
có là giá trị thiệt hại lớn nhất có thể xảy ra, có thể nhận thức được Còn tổn thất lớn nhất có lẽ có
là giá trị thiệt hại lớn nhất nhà quản trị tin là có thể xảy ra. Nói cách khác, thiệt hại khó vượt quá
tổn thất có lẽ có, trong khi thiệt hại không thể vượt quá tổn thất lớn nhất có thể có. Trong hai đại
lượng này, tổn thất lớn nhất có lẽ có thông thường khó. xác định nhất, nhưng cũng có ích nhất.
Như trong trường hợp đo lường tần số tổn thất, ước lượng của tổn thất lớn nhất có lẽ có phụ
thuộc rất nhiều vào toàn bộ các thông tin nhà quản trị có được về bản chất rủi ro.
1.1.3.4 Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro:
Kiểm soát rủi ro là những nỗ lực trong việc né tránh rủi ro, ngăn ngừa rủi ro hoặc giảm
thiểu ảnh hưởng xấu của rủi ro đến doanh nghiệp.
Kiểm soát rủi ro bao gồm các kỹ thuật, công cụ, chiến lược hoặc tiến trình nhằm tìm cách
để né tránh, ngăn ngừa hay là sự kiểm soát về tần suất và mức độ tổn thất hoặc những ảnh hưởng
không mong muốn khác của rủi ro đến doanh nghiệp. Mặt khác, kiểm soát rủi ro còn bao gồm cả
những phương pháp hoàn thiện các kiến thức và sự hiểu biết trong hành vi của doanh nghiệp có
tác động đến rủi ro.
Mỗi doanh nghiệp lại có những rủi ro khác nhau và họ cũng có những chương trình kiểm
soát rủi ro khác nhau và bất cứ một rủi ro cụ thể nào đó đều có thể được quản lý thông qua
những kỹ thuật khác nhau dựa vào kết quả của tính sáng tạo và sự đổi mới. Tuy nhiên, vẫn có sự
phân loại về công cụ và phương pháp kiểm soát rủi ro. Những công cụ và kỹ thuật kiểm soát rủi
ro có thể được phân nhóm theo các hình thức sau:
Né tránh rủi ro: Đây là việc né tránh những hoạt động, con người, tài sản những điều
kiện làm phát sinh tổn thất có thể có bởi không thừa nhận nó ngay từ đầu hoặc bởi loại
bỏ nguyên nhân dẫn tới tổn thất đã được thừa nhận. Có 2 biện pháp:
Thứ nhất là chủ động né tránh trước khi rủi ro xảy ra.
Thứ hai là né tránh rủi ro bằng cách loại bỏ những nguyên nhân gây rủi ro: việc
này không hoàn toàn phổ biến như chủ động né tránh trước khi rủi ro xảy ra.
Ngăn ngừa tổn thất: bằng cách giảm bớt số lượng tổn thất xảy ra tức là giảm tần suất tổn
thất hoặc loại bỏ chúng hoàn toàn hay làm giảm mức thiệt hại khi tổn thất xảy ra. Các
hoạt động ngăn ngừa rủi ro tập trung vào:
Thay thế hoặc sửa đổi mối hiểm họa.
Thay thế hoặc sửa đổi môi trường nơi mối nguy hiểm tồn tại.
Can thiệp vào quy trình tác động lẫn nhau giữa sự nguy hiểm và môi trường.
Một số ví dụ về hoạt động ngăn ngừa tổn thất:
Hoạt động ngăn ngừa tổn thất tập trung vào mối hiểm họa:
Nguy hiểm
Hoạt động ngăn ngừa tổn thất
o Chìm tàu
o Mua bảo hiểm
o Lừa đảo
o Tìm hiểu kỹ đối tác
o Cháy nổ hàng hóa lưu kho
o Thường xuyên kiểm tra kho bãi,
trang bị các phương tiện Phòng
cháy, chữa cháy
Hoạt động ngăn ngừa rủi ro tập rung vào môi trường rủi ro:
Môi trường
Hoạt động ngăn ngừa tổn thất
o Ngân hàng yếu kém gây nhiều bất
o Lựa chọn ngân hàng uy tín
lợi cho nhà nhập khẩu
o Lực lượng cán bộ ngoại thương
o Đào tạo tuyển chọn cán bộ phù
được đào tạo không Phù hợp
hợp chuyên môn
o Kho bãi ẩm ướt
o Kiểm tra thường xuyên, trang bị
các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ
Hoạt động ngăn ngừa tổn thất tập trung vào sự tương tác giữa mối nguy hiểm và môi
trường:
Sự tương tác
Hoạt động ngăn ngừa tổn thất
o Tỷ giá ngoại tệ thay đổi
o Sử dụng phương pháp mua ngoại
tệ kỳ hạn
o Theo dõi sát các thay đổi chính
o Thay đổi chính sách
sách
Giảm thiểu rủi ro: Để giảm được các loại rủi ro ta phải nghiên cứu bản chất của từng
loại rủi ro. H.W.Henrich là người đã phát minh ra phương pháp Domino Seprence có ý
nghĩa chỉ dẫn cho con người về các rủi ro và cách phòng ngừa rủi ro bằng cách: ông cho
rằng rủi ro là kết quả của các hiện tượng ngẫu nhiên và nếu một trong các hiện tượng
này thay đổi thì rủi ro sẽ không xảy ra nữa.
1.2 NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
NÓI CHUNG :
1.2.1 Theo nguồn rủi ro:
1.2.1.1 Rủi ro về chính trị:
Rủi ro chính trị được định nghĩa như là những khả năng mà các cơ quan chính phủ có thể
tạo nên những thay đổi trong môi trường kinh doanh của quốc gia mà tác động đến lợi nhuận và
những mục tiêu khác của công ty kinh doanh. Đây là rủi ro rất quan trọng đối với các nhà nhập
khẩu Mỗi nước đều có hệ thống pháp lý, chính sách qui định về kinh doanh ngoại thương. Khi
môi trường chính trị thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của hệ thống pháp lý, các qui định, chính
sách... làm ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hoá .
Các chính sách thuế thay đổi cũng gây khó khăn rất nhiều cho các nhà nhập khẩu. Việc
tăng thuế các mặt hàng đã ký hợp đồng nhập khẩu chắc chắn dẫn đến sự phá vỡ phương án kinh
doanh mà chắc chắc kết quả không được như mong muốn, thiệt hại phát sinh bởi thuế nhập hẩu
cao làm cho giá tăng, hàng không bán được trong khi nhà nhập khấu vẫn phải chịu lãi suất ngân
hàng, tiền thuê kho bãi...
1.2.1.2 Rủi ro về kinh tế :
Sự phát triển rộng lớn của thị trường toàn cầu đã tạo ra một môi trường kinh tế chung
cho tất cả các nước. Tình trạng lạm phát, suy thoái đến tình trạng hiện nay là các yếu tố của các
hệ thống kinh tế mà không một quốc gia nào kiểm soát nổi.
Khi lạm phát xảy ra thì có nghĩa là đồng tiền mất giá, giá trị nội tệ sụt giảm làm cho nhà
nhập khẩu không đủ đồng bản tệ thanh toán hay nói đúng hơn thương vụ kinh doanh nhập khẩu
bị phá sản so với phương án kinh doanh ban đầu. Và khi mất giá đồng bản tệ thường làm nhu
cầu đồng bản tệ tăng giả tạo do hiện tượng tâm lý, gây thiếu hụt ngoại tệ trong nước, làm việc
thanh toán khó khăn, càng làm cho giá ngoại tệ tăng cao và làm cho các nhà nhập khẩu càng khó
khăn.
Khủng hoảng kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến nhà nhập khẩu nếu một nền kinh tế
nước bị nhập khẩu bị suy thoái, tăng trưởng kinh tế thấp thì chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả xấu
trong hoạt động ngoại thương. Khi đó các nhà xuất khẩu xuất hàng kém chất lượng không đáp
ứng nhu cầu của nhà nhập khẩu ở nước ngoài, hàng nhập khẩu chất lượng kém làm nhà nhập
khẩu không bán được hàng hay hạ giá. Kinh tế nước xuất khẩu suy thoái thì khả năng phá sản
của nhà xuất khẩu cao gây thiệt hại cho nhà nhập khẩu như không nhận được hàng, mất tiền đặt
cọc, không thực hiện được phương án kinh doanh vv...
Nếu kinh tế của nước nhập khẩu xuống dốc thì chính nhà nhập khẩu sẽ bị khó khăn trong
việc tiêu thụ hàng nhập khẩu do sức mua của người tiêu dùng giảm, hàng không bán được, tồn
kho nhiều, phát sinh nhiều thiệt hại như lãi vay ngân hàng, tiền kho bãi, thu hồi vốn chậm, giá cả
hạ... đây là loại rủi ro mà bất kỳ một nhà hoạt động kinh doanh nào cũng cần chú ý trong quá
trình thực hiện các hoạt động nhập khẩu của mình .
1.2.1.3 Rủi ro pháp lý:
Rủi ro liên quan đến pháp lý thường đưa đến các tranh chấp kiện tụng kéo dài có thể ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Rủi ro pháp lý có thể xảy ra là do sự thay
đổi về pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh như nhãn hiệu hàng hóa, mặt hàng nhập
khẩu, tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hóa, an toàn môi trường,…
1.2.1.4 Rủi ro về văn hóa:
Việc nhập khẩu là một trong hai chức năng chính của giao dịch ngoại thương, nhập khẩu
của người mua lại là xuất khẩu của người bán nó bao gồm xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ,
nó cũng chính là việc buôn bán một nước so với nước khác. Buôn bán quốc tế thường từ hai
nước trở lên, tham gia vào một dịch vụ rất ít nhất là từ hai thương nhân từ hai nước nkhác nhau.
Chính vì vậy, trong giao dịch sẽ gặp một số khó khăn trở ngại như không cùng ngôn ngữ, mỗi
nước có luật lệ khác nhau về dân sự, về chính sách ngoại thương cũng như các luật lệ khác
vv...Ngoài ra, người mua và người bán ở cách xa nhau về địa lý, phong tục tập quán buôn bán,
cách sống, lối sống cũng có lúc khác nhau. Tất cả những điểm khác biệt nêu trên thường gây ra
những trở ngại, khó khăn trong giao dịch buôn bán giữa nước này với nước khác dẫn đến các rủi
ro cho nhà nhập khẩu .
1.2.1.5 Rủi ro về tài chính:
Trong hoạt động ngoại thương, đa số các quốc gia trên thế giới không thể sử dụng đồng
bản ngoại tệ của nước mình trong thanh toán trực tiếp cho các đối tác mà phải thông qua các
đồng ngoại tệ mạnh. Việc quy đổi các đồng bản tệ sang ngoại tệ và ngược lại thông qua tỷ giá
hối đoái. Sự biến động của tỷ giá hối đoái dẫn đến rủi ro về tài chính cho những người tham gia
vào quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.2.2 Theo quá trình nhập khẩu:
1.2.2.1 Rủi ro trong quá trình thu thập thông tin, lựa chọn đối tác:
Sự bùng nổ thông tin hiện nay với sự trợ giúp của mạng Internet đã góp phần không nhỏ
vào sự thành công của các doanh nghiệp nhưng cũng là mở đầu cho sự thất bại cho các doanh
nghiệp chậm đổi mới và thiết thông tin trong kinh doanh. Trong hoạt động nhập khẩu nếu thiếu
thông tin về đối tác sẽ dễ dẫn đến bị đối tác lừa không thực hiện đơn hàng. Hay trong việc
nghiên cứu tiếp cận thị trường trong cũng như ngoài nước nếu không thực hiện tốt, doanh
nghiệp không nắm bắt được tình hình sản phấm trên thị trường thế giới, nhu cầu của thị trường
nội địa,... sẽ gây khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hóa, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.2.2.2 Rủi ro trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng:
1.2.2.2.1 Rủi ro trong đàm phán:
Trong đàm phán nếu chúng ta không chuẩn bị trước nội dung thương lượng, không xác
định rõ mục tiêu thương lượng thì sẽ gặp rất nhiều rủi ro như: Mất cơ hội kinh doanh với khách
hàng mới do không xác định được rõ mục tiêu tiêu thương lượng. Mục tiêu của thương lượng
không được xác định trước, hoặc xác định không rõ ràng, dẫn đến quá trình thương lượng không
có phương án giải quyết, tạo ra nhiều khó khăn cho đối tác làm mất cơ hội kinh doanh, làm mất
khách hàng.
Không tìm được phương án có lợi cho các bên, mất thời gian không mang lại hiệu quả
cho doanh nghiệp khi nội dung thương lượng không được chuẩn bị trước. Nội dung thương
lượng không được chuẩn bị kỹ sẽ thiếu sót những điều khoản liên quan, không nắm được vấn đề
cần thương lượng, bị động mất thời gian, không tìm được hướng giải quyết rõ ràng, tạo mâu
thuẫn trong quá trình đưa ra các nội dung bàn bạc hoặc mâu thuẫn trong cách giải quyết vấn đề,
làm cho đối tác đánh giá thấp về mình, như vậy cơ hội hợp tác kinh doanh trong những lần sau
có thể bị hạn chế. Nếu không chuẩn bị trước nội dung thương lượng sẽ bộc lộ ra những điểm yếu
của mình trong lúc đàm phán, và đối phương có thể khai thác để đạt được lợi ích nhiều hơn.
Có thể bị thiệt về kết quả kinh doanh so với đối tác do nhượng bộ quá sớm, thiếu cân
nhắc về chi phí và doanh thu, hoặc quá chú trọng đến mối quan hệ mà không quan tâm đến hiệu
quả mang lại.
Rủi ro bị mất khách hàng làm phát sinh mâu thuẫn, gây căng thẳng thêm do quá cứng
nhắc, khăng khăng .giữ vững lập trường của mình, luôn luôn cho mình là đúng, và chỉ nhắm đến
lợi ích của mình mà không biết đến nhu cầu và sự quan tâm của đối tác, trong trường hợp
thương lượng để giải quyết các tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng theo hướng
này thực hiện rất cứng rắn chắc chắn sẽ không tìm được hướng giải quyết mà còn làm tăng thêm
mâu thuẫn, làm mất quan hệ kinh doanh trong tương lai, và có thể đối tác sẽ chuyển sang giao
dịch kinh doanh với đối thủ cạnh tranh.
Không có căn cứ để giải quyết tranh chấp do một trong hai bên cố tình không đưa vào
hợp đồng những điều khoản mà cảm thấy có lợi cho mình như điều khoản phạt do giao hàng
chậm, giao hàng thiếu, hàng kém chất lượng, hoặc không giao hàng. Đôi khi do mối quan hệ lâu
dài trong kinh doanh, các bên tin tưởng lẫn nhau, và e ngại khi đề cập quá nhiều điều khoản chi
tiết sợ ảnh hưởng đến lòng tin của nhau, do đó hợp đồng chỉ bao gồm những điều chủ yếu và
thiếu các điều khoản liên quan đến việc giải quyết tranh chấp như trọng tài, luật áp dụng, khiếu
nại, phạt bồi thường khi vi phạm hợp đồng. Như vậy nếu có tranh chấp xảy ra thì cách giải quyết
rất khó khăn và rủi ro các bên phải chịu.
Bị thiệt về lợi nhuận trong quá trình thương lượng và bị mất khách hàng do nhân viên
tách ra lập doanh nghiệp riêng. Khi phân công nhân viên đại diện cho doanh nghiệp tiến hành
thương lượng với đối tác, nếu nhân viên có ý định thành lập doanh nghiệp riêng trong tương lai
thì họ sẽ tranh thủ tạo mối quan hệ cá nhân với đối tác thông qua việc sẵn sàng nhượng bộ làm
ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong tương lai nhân viên này sẽ trở thành đối thủ
cạnh tranh, như vậy doanh nghiệp vừa mất khách hàng, vừa đối phó với đối thủ cạnh tranh mà
họ lại biết rõ chiến lược kinh doanh và bí quyết kinh doanh của doanh nghiệp mình.
1.2.2.2.2 Rủi ro trong khâu ký kết hợp đồng:
Những rủi ro có thể xảy ra trong khâu ký kết hợp đồng là hợp đồng chứa đựng nhiều sơ hở
gây thiệt hại cho người ký kết hợp đồng:
Điều khoản tên hàng:
Trong hợp đồng nhập khẩu do doanh nghiệp Việt Nam lập, điều khoản này thường ghi sơ
sài, đơn giản thiếu các mục như chức năng, tác dụng kèm theo, ... hoặc khi dịch sang tiếng nước
ngoài có nhiều sai sót khiến cho đối tác hiểu khác nhau về hàng hóa,... Đây là nguyên nhân của
nhiều vụ tranh chấp hợp đồng ở Việt Nam, gây nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Điều khoản chất lượng:
Các bên không quy định rõ ràng về chất lượng hàng hóa dẫn đến hàng giao chất lượng không
đáp ứng được yêu cầu của người mua và gây trở ngại trong quá trình tiêu thụ trên thị trường.
Điều khoản số lượng:
Các bên không quy định rõ ràng về hệ thống đo lường được sử dụng để xác định trọng
lượng, số lượng hàng giao dẫn đến hàng giao bị thiếu hoặc thừa so với hợp đồng.
Biểu hiện :
Trường hợp 1 : Hợp đồng quy định số lượng hàng giao cho phép một tỷ lệ dung sai và người
bán được chọn dung sai. Điều này sẽ gây thiệt hại 'cho người mua khi giá cả thị trường biến
động. Chẳng hạn, khi người bán được quyền chọn dung sai thì người bán chọn dung sai (-) khi
giá cả thị trường vào lúc giao hàng cao hơn so với giá hợp đồng, hoặc người bán sẽ chọn dung
sai (+) khi giá cả thị trường vào lúc giao hàng thấp hơn so với giá hợp đồng. Khi đó, người bán
sẽ thu được nhiều lợi hơn còn thiệt thòi thuộc về người mua.
Trường hợp 2: Hàng hóa giao thiếu làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Khi giao hàng thiếu so với quy định của hợp đồng thì người sẽ chịu nhiều rủi ro ở
những mức độ khác nhau. Có thể phần hàng được giao khi bán lại bị hạn chế về giá trị thương
mại vì thiếu sự đồng bộ trong lô hàng; hoặc phần hàng còn lại chưa giao là một trong những
phần không thể thiếu được để sử dụng cho quá trình sản xuất thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; hoặc số lượng hàng giao thiếu sẽ làm cho doanh
nghiệp bị mất khách hàng do không đáp được nhu cầu của thị trường.
Trường hợp 3: Người bán không giao hàng cho người mua do giá cả thị trường tăng vào lúc
giao hàng và chấp nhận mức phạt như quy định trong hợp đồng nếu thấy việc thực hiện hợp
đồng không có lợi so với mức chịu phạt. Hoặc không giao hàng cho người mua vì có khá nhiều
đơn đặt hàng nên chỉ dành ưu tiên cho khách hàng chính của họ. Nếu người mua không phải là
khách hàng ưa tiên thì rủi ro đối với người mua là không có hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu của
thị trường.
Điều khoản về giá:
Trong hợp đồng nhập khẩu tại điều khoản này cần phải xác định rõ ràng đồng tiền tính giá,
đồng thời thỏa thuận về đơn giá và điều kiện giao hàng tương ứng áp dụng điều kiện Incoterms
nào?).
Tuy nhiên khi chọn đồng tiền tính giá là đồng tiền nước ngoài không phải là đồng việt nam
thì sẽ gặp rủi ro khi tỷ giá hối đoái thay đổi.
Điều khoản về giao hàng:
Người mua có thể gặp rủi ro khi hàng giao chậm hơn so với quy định trong hợp đồng, gây
khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thực tế, có một số mặt
hàng khi có sự biến động về giá, hàng nhập về chậm hơn so với thời hạn chỉ có một vài ngày thì
giá cả thị trường đã thay đổi, giá bán lẻ giảm thấp hơn so với giá nhập khẩu làm ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều khoản thanh toán:
Trong thanh toán hàng hóa nhập khẩu các doanh nghiệp có thể gặp các rủi ro sau:
Chọn sai đồng tiền thanh toán.
Tỷ giá hối đoái thay đổi theo hướng bất lợi cho nhà nhập khẩu.
Hình thức thanh toán.
1.2.2.3 Rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng:
Trong thương vụ nhập khẩu có thành công hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc
biệt là việc có hạn chế được các rủi ro trong từng khâu của quá trình thực hiện hợp đồng hay
không. Như đã nói ở trên, rủi ro có thể xảy ra trong ngay từng bước khởi đầu đàm phán ký kết
hợp đồng, qua từng bước trong việc thực hiện hợp đồng như giao nhận hàng hóa, bảo hiểm, vận
chuyển, kiểm định, sự lừa đảo của đối tác, sự thay đổi chính sách của nhà nước, rủi ro trong
thanh toán... tất cả là một chu trình khép kín bất cứ khúc mắc ở khâu nào cũng làm ảnh hưởng
đến hiệu quả của thương vụ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tóm lại, rủi ro có thể xảy ra ở khắp mọi nơi, mọi chỗ và trong mọi hoạt động, có rất
nhiều loại rủi ro nói chung, có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau như theo nguồn rủi
ro thì có rủi ro về môi trong kinh tế chính trị, văn hóa..., còn theo đối tượng rủi ro thì có nguy
cơ rủi ro về tài sản, về trách nhiệm pháp lý, về nguồn nhân lực. Trong kinh doanh xuất nhập
khẩu hàng hóa nói chung cũng không tránh khỏi các rủi ro này, nó cũng phân loại theo nguồn
rủi ro hay theo các bước trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Tất cả các rủi ro này đều
gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các công ty kinh doanh xuất nhập
khẩu.
Để có thể phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh nhập khẩu, giúp hiệu quả cho doanh
nghiệp, nhất thiết phải có một phương pháp nghiên cứu khoa học. Trước tiên chúng ta phải
nhận dạng được các rủi ro nói chung trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu như. rủi ro chính
trị, rủi ro trong kinh tế, rủi ro trong ký kết hợp đồng, rủi ro trong tài chính, rủi ro trong quá
trình thực hiện hợp đồng.... Liệt kê tất cả các rủi ro mà doanh nghiệp đã gặp trong hoạt động
nhập khẩu như thế thì chưa đủ, thông thường khó xác định được tất cả các rủi ro, do vậy, khó
thể phòng chống các rủi ro có thể xảy ra. Chúng ta phải thống kê xem các rủi ro nào thường
xảy ra nhiều nhất và mức độ nghiêm trọng như thế nào. Nó có thể giúp ta nhận dạng rủi ro
chưa phát hiện được do đó giúp ta đánh giá các loại rủi ro, nguy hiểm một cách tương đối đầy
đủ. Tiếp theo là chúng ta dựa vào thực tiễn phân tích đánh giá các loại rủi ro này để thấy được
nguyên nhân gây ra rủi ro, và mức độ nghiêm trọng của các rủi ro một cách đầy đủ, hiệu quả
thật cho doanh nghiệp.
Chương 2 :
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG Ô TÔ
VIỆT NAM VÀ XU HƯỚNG TRÊN
THỊ TRƯỜNG TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1 . TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG Ô TÔ TẠI VIỆT NAM VÀ HÀNH VI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THỜI GIAN QUA:
Khi nước ta trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế
giới WTO vào ngày 01/11/2006 thì một luồng gió mới đã thổi vào nền kinh tế của nước
ta. Việt Nam phải thực hiện hàng loạt các cam kết mở cửa trong mọi lĩnh vực của nền
kinh tế và nền công nghiệp ô tô cũng không là một ngoại lệ. Nhà nước đã và đang không
ngừng nghiên cứu, thực thi các chính sách đổi mới để sự phát triển của ngành trở nên
phù hợp với xu hướng của thị trường trong nước và thế giới.
Đồng thời, sự hội nhập cũng đem đến hàng loạt những khó khăn và thách thức đối
với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực ô tô. Chiến lược phát triển mà họ áp
dụng trong thời gian qua nay đã trở nên không phù hợp với xu hướng của thị trường và
ẩn chứa nhiều rủi ro đối với hoạt động cùng hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường.
Sự cạnh tranh trong ngành ngày càng khắc nghiệt, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng
cao khả năng thích ứng và đề phòng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
Trước khi đi vào nhận diện và phân tích những rủi ro đó, cần nhìn lại toàn cảnh
chặng đường phát triển của thị trường ô tô nước ta nói chung và TP.HCM nói riêng trong
thời gian qua với hai cột mốc quan trọng vào năm 2000 và 2006. Đồng thời xem xét các
đặc điểm tâm lý người tiêu dùng đối với sản phẩm khá đặc biệt này.
Theo Quyết định số 177/2004/QĐ-TTG về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển
ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 thì sản lượng ô
tô đến năm 2010 sẽ như bảng sau :
Bảng1 : Cân đối năng lực, nhu cầu , và bổ sung sản lượng ô tô đến năm 2010.
(ĐV:Xe).
Năng lực năm 2003 Sản lượng yêu cầu Sản lượng cần bổ
năm 2010 (dự báo)
sung năm 2010
Xe con
Không cần đầu tư
thêm
6.000
Xe đến 5 chỗ ngồi
>100.000
60.000
Xe 6 - 9 chỗ ngồi
Xe khách
10–16 chỗ ngồi
17-25 chỗ ngồi
4.000
10.000
---
21.000
5.000
26- 46 chỗ ngồi.
7.000
6.000
> 46 chỗ ngồi
Xe tải
Đến 2 tấn
2-7 tấn
7-20 tấn
> 20 tấn
Xe chuyên dùng
4.000
2.000
21.000
5,000
Không cần đầu tư
thêm
2.000
57.000
4.000
--300
10.000
35.000
34.000
1.000
6.000
47.000
31.000
34.000
1.000
6.000
Nói đến những biến động và thay đổi của thị trường ô tô việt nam thời gian qua
thì không thể không nói đến sự thành lập Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam
(VAMA) vào Ngày 03/08/2000 theo quyết định số 52/2000/QD-BTCCBCP của Ủy ban tổ
chức và nhân sự Chính phủ (nay gọi là Bộ Nội vụ) với số lượng tới thời điểm hiện nay là
18 thành viên. Tổng năng lực sản xuất của toàn bộ hiệp hội đạt 234.000 xe/năm.
Nhìn lại 6 năm về trước, năm 2001 hầu hết các liên doanh lắp ráp ôtô vừa bước
qua thời kỳ bù lỗ, bắt đầu cân bằng để yên tâm sản xuất, thị trường ôtô trong nước đã đón
nhận sự ra mắt của nhiều sản phẩm có chất lượng rất cao, để lại dấu ấn tốt đẹp với người
tiêu dùng. Với sức mua tăng mạnh bởi nhiều sự lựa chọn và giá thành hợp lý, bước sang
năm 2002 theo báo cáo cuối năm của VAMA thì các đơn vị thành viên đã có lãi. Theo đà
phát triển, các liên doanh đã đầu tư thêm để ra mắt hàng loạt model mới cho năm 2003.
Năm 2003 là năm làm ăn được mùa nhất của các liên doanh với sản lượng xe tiêu thụ là
42.545 chiếc.
Chín tháng đầu năm 2004 coi như thất bại với hầu hết các doanh nghiệp lắp ráp
ôtô, nhưng 3 tháng cuối năm 2004 sức mua tăng mạnh như thời điểm một năm về trước.
Các liên doanh đang được hưởng lợi nhờ vào cơn sốt xe của người tiêu dùng vì tâm lý sợ
thuế tiêu thụ đặc biệt đầu năm 2005 sẽ được áp dụng. Thị trường vẫn còn rất nhiều nhu
cầu ôtô, những người cần xe thật sự phải chấp nhận đi mua vì không thể tiếp tục chờ đợi
một khung giá thấp.
Đầu năm 2005 mức thuế tiêu thụ đặc biệt đã chính thức được áp dụng đối với thị
trường ôtô trong nước. Phản ứng trước việc này, thị trường ô tô trong quý 3 năm 2004 đã
tăng trưởng mạnh so với 6 tháng đầu năm. Trong quý 3 năm 2004, lượng xe bán ra của
11 liên doanh sản xuất ôtô trong nước là 9.657 xe, trong khi trung bình mỗi quý lượng xe
tiêu thụ chỉ đạt gần 6.400 chiếc. Lo ngại giá xe sẽ tăng khi thuế tiêu thụ đặc biệt thay đổi
vào đầu năm 2005 là nguyên do chính làm nhu cầu mua xe tăng đột biến. Chính phủ đã
quyết định mức thuế suất ờ những mức sau:
Bảng 2: Mức thuế suất tiêu thụ đặc biệt trong ngành công nghiệp ô tô
Thuế ô tô
2003
2004
2005
2006
Thuế nhập khẩu cho bộ linh kiện 20%
CKD của xe 0-15 chỗ
25%
25%
25%
Thuế nhập khẩu cho bộ linh kiện 10%
CKD của xe 16-24 chỗ
15%
15%
15%
Thuế Tiêu thụ đặc biệt cho xe 0-5 5%
chỗ
24%
40%
50%
Thuế Tiêu thụ đặc biệt cho xe 6- 3%
15 chỗ
15%
25%
30%
Thuế Tiêu thụ đặc biệt cho xe 16- 1,5%
23 chỗ
7,5%
12.5% 15%
Thuế Giá trị gia tăng
10%
10%
5%
10%
(Theo Quyết định số 177/2004/QĐ-TTG về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển
ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020)
Và kết quả của việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt là doanh thu của VAMA tụt giảm
một cách đáng kể trong năm 2005, sản lượng tiêu thụ chỉ còn 39.876 xe.
Năm 2006 Thị trường xe ô tô không những không hồi phục lại so với năm 2005 –
“năm đánh dấu sự sụt giảm đầu tiên sau một chu kỳ rực rỡ trước đó”, mà tiếp tục theo đà
đi xuống. Có nhiều luồng ý kiến khác nhau đối với những diễn biến này – doanh nghiệp
lo lắng, người tiêu dùng chưa hẳn đã vui. Tuy nhiên, nếu nhận xét khách quan thì tình
hình đó đang là một dấu hiệu tích cực, giúp thị trường trở về đúng với bản chất thực của
nó, tạo điều kiện công bằng cho sự phát triển chung. Và những sự kiện quan trọng sau
trong năm 2006 đã khiến thị trường có nhiều biến động đáng kể :
+ Nghị định 12 ban hành giữa tháng 02/2006 cho phép nhập khẩu xe cũ . Phản
ứng phổ biến nhất của khách hàng là dừng mua xe mới, chờ ngày nghị định có hiệu lực
vào 01/05/2006. Tâm lý này đã khiến các liên doanh gặp khó khăn trong suốt 3 tháng
liền và phải liên tục đưa ra các chiêu giảm giá để kích cầu, dù trước đó vài tháng còn
tuyên bố giá xe 2006 sẽ không hạ. Kết quả, doanh số của VAMA trong 5 tháng đầu năm
2006 vẫn chỉ bằng một nửa so với cùng kỳ 2005.
+ Tháng 11/2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tố chức WTO. Các
cam kết hội nhập bắt đầu được áp dụng. Thuế nhập khẩu xe mới giảm theo lộ trình từ
100% xuống còn 80%, quy định về tỉ lệ nội địa hóa được dỡ bỏ…Đây cũng chính là sự
kiện to lớn nhất ảnh hưởng đến thị trường trong năm này.
+ Các hãng xe lớn theo chân nhau tới Việt Nam : 2006 là năm hội tụ những mác
xe hàng đầu thế giới tại nước ta. Nissan, Hyundai, Peugeot hay Land Rover cũng như
dòng xe Lifan của Trung Quốc vừa làm phong phú lựa chọn của người tiêu dùng vừa là
một tín hiệu mừng cho thấy sự hấp dẫn, tính chuyên nghiệp của thị trường xe trong thời
gian tới. Không dừng lại ở đó, sang 2007, những đại diện sừng sỏ của ngành công nghiệp
ô tô thế giới như BMW, Lexus và Porsche sẽ bắt đầu phân phối tại Việt Nam. Ngoài ra
còn phải kể đến hãng xe Honda VN sau một thời gian dài “làm ngơ” đối với thị trường
trường đầy tiềm năng này đã chính thức tham gia với mẫu xe Civic - hiện đang chiếm
lĩnh vị trí đứng đầu về doanh số trong dòng xe Sedan hạng trung. Một thế lực mới cũng
dần xuất hiện trên thị trường đó chính là ô tô nhập khẩu. Đồng thời, trên thị trường đã
xuất hiện những tín hiệu đầu tiên của xu hướng mới mà trong tương lai gần sẽ khiến sự
cạnh tranh trong ngành ô tô ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Đó là xu hướng “ngừng sản
xuất – chuyển sang phân phối”, chúng ta có thể nhìn thấy được xu hướng này thông qua
việc 2 thương hiệu BMW, Daihatsu đã rút chân ra khỏi liên doanh trong VMC (BMW),
Vindaco(Daihatsu). Và quay trở lại thị trường thông qua việc chỉ định một công ty khác
làm đại diện phân phối sản phẩm trong thời gian tới.(BMW sẽ quay lại thị trường VN
vào đầu tháng 7/2007 do công ty cổ phần Euro Auto làm đại diện phân phối).
2.2 DỰ BÁO XU HƯỚNG CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ HÀNH VI CỦA NGƯỜI TIÊU
DÙNG TRONG THỜI GIAN TỚI :
Như vậy, bức tranh toàn cảnh về thị trường ô tô trong nước năm 2007 và trong
những năm tiếp theo sẽ có nhiều sự thay đổi đáng kể trong nhiều mặt. Thứ nhất, thị
trường ô tô Việt Nam có thể lành mạnh hơn vì có hai nguồn cung cấp mới, đó là nguồn
xe nhập khẩu được giảm thuế từ 0%- 5% khi Việt Nam tham gia CEPT và AFTA vào
cuối năm 2007, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe sản xuất trong nước được nâng dần lên
90%. Khi đó, người dân sẽ không mua xe trong nước nếu giá vẫn bằng giá xe nhập khẩu
như hiện nay. Thứ hai là, nguồn cung cấp của các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia
đầu tư với công nghệ chủ yếu nhập từ Trung Quốc, giá thành sản phẩm được hứa hẹn là
sẽ rẻ hơn so với giá mà các liên doanh đang bán. Thứ ba, miếng bánh của thị trường ô tô
Việt Nam – vốn dĩ rất “hấp dẫn” do quy mô thị trường ngày càng lớn - sẽ do 3 nguồn lực
cạnh tranh khai thác bao gồm: Các liên doanh sản xuất ô tô trong nước, các tập đoàn ô tô
nước ngoài thông qua các công ty trong nước làm đại diện phân phối, và cuối cùng là các
công ty có quy mô vừa và nhỏ tập trung vào các mẫu xe nhập khẩu đã qua sử dụng. Có
thể nói, mức độ nghiêm trọng của các rủi ro đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực o
tô ngày càng cao với tần suất xuất hiện ngày càng lớn tương ứng với sự tăng trưởng
theo quy mô sắp tới của thị trường. Và các liên doanh, doanh nghiệp tất yếu phải có sự
điều chỉnh chiến lược để có thể tránh trược việc thất bại trên thị trường đầy tiềm năng
này.
Sau khi phân tích tổng quan của thị trường ô tô thời gian qua, những xu hướng
của thị trường và hành vi của người tiêu dùng trong những năm tới cũng đã dần lộ diện.
Người tiêu dùng cảm nhận được với lộ trình hội nhập kinh tế thế giới, cơ hội mua sắm
những mặt hàng tiêu dùng cao cấp, trong đó có chiếc ôtô với giá hợp lý, chất lượng cao
đang mở ra trước mắt họ nhờ sự ảnh hưởng từ việc tăng trưởng như vũ bão của thị
trường tài chính trong nước cũng như sự phát triển của nền kinh tế với nước ta trong suốt
những năm vừa qua. Nhưng với các doanh nghiệp sản xuất, nhất là tại các ngành công
nghiệp mũi nhọn như công nghiệp ôtô, những dự báo không hề lạc quan từ các chuyên
gia thị trường lại cho thấy tại thời điểm này, những tác động từ việc hội nhập WTO đang
làm họ lúng túng và lo lắng bởi sự yếu kém nội tại sẽ làm tăng thêm rất nhiều yếu tố rủi
ro khi bắt buộc phải hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Sự lúng túng và lo lắng không dành
riêng cho ai, mà đã trở thành một gánh nặng chung cho tất cả các doanh nghiệp ôtô quốc
doanh, liên doanh và tư doanh. Không ai là người ngoài cuộc trong câu chuyện giá xe,
chiến lược sản xuất và xác lập thị phần. Bên cạnh đó là sức ép của xe nhập và sự tham
gia ngày càng nhiều các thương hiệu sản xuất kinh doanh ôtô tầm cỡ thế giới.
Với xu hướng thị trường như vậy, sự xích lại gần nhau giữa chính sách, doanh
nghiệp và người tiêu dùng đang lộ rõ. Tuy nhiên, vẫn phải khẳng định rằng, với một thị
trường như vậy chẳng ai vui. Bán ít, thuế thu ngân sách ít đi, doanh thu, lợi nhuận của
doanh nghiệp cũng ít đi. Phải chăng người tiêu dùng được lợi? Tất nhiên, nhưng đó chỉ là
cái lợi bề ngoài, vì trên thực tế giá xe giảm như vậy vẫn chưa phù hợp, trong khi nhu cầu
chính đáng của họ là sử dụng xe vẫn chưa được đáp ứng. Vậy những yếu tố nào nói lên
tính tích cực, sự xích lại gần nhau như đã nói ở trên nằm trong một thị trường sụt giảm
như vậy?
Các mức thuế - một trong những yếu tố quyết định về giá xe đang ngày càng phù
hợp hơn (giảm thuế nhập khẩu xe mới nguyên chiếc) và việc cho phép nhập khẩu
xe cũ (cho dù mức thuế vẫn cao, chưa đáp ứng cho số đông) khiến thị trường có
những ảnh hưởng tích cực.
Sự am hiểu thông tin và nắm bắt tốt thị trường của người tiêu dùng : Trước đây
các doanh nghiệp vẫn cứ suy nghĩ nghĩ mình có khả năng "độc đoán, quyết định"
đối với thị trường, nhưng ngày nay với sự bùng nổ của hệ thống thông tin đặc biệt
là Internet làm cho người tiêu dùng hiểu rõ hơn về quyền lợi chính đáng của mình.
Họ tiềm hiểu kỹ hơn về các sản phẩm, so sánh chính xác hơn, tìm hiểu và đối
- Xem thêm -