LUẬN VĂN:
Những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan
Dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, nhân dân ta được ấm no hạnh phúc và có những
đóng góp vào công cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì những mục tiêu tiến bộ.
Với tinh thần đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng
sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng nước ta. 77 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững vai trò hạt nhân
lãnh đạo chính trị, tiến hành Cách mạng Tháng 8 thành công lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh
thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi
mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Đảng ta đã trở thành một Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội
trong phạm vi cả nước, năng lực và phương thức lãnh đạo của Đảng đã có những
chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng và phát huy vai trò
của hệ thống tổ chức cơ sở đảng, coi đó là cầu nối giữa dân với Đảng, là nơi đề xuất
cũng là nơi trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tổ chức cơ sở đảng đã có những đóng góp quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh, từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nhiều nhân tố mới tích cực đã
xuất hiện, nhất là ở cơ sở, tác động tích cực đến sự lãnh đạo của Đảng và tổ chức cơ
sở đảng.
Tuy nhiên, do tính chất đa dạng của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, vai trò
chức năng nhiệm vụ của nó cũng khác nhau, nhưng thực tế nhận thức chưa có sự
phân biệt, nên có nơi Đảng bao biện làm thay, có nơi Đảng và chính quyền chồng
chéo, có nơi Đảng bị chính quyền lấn át, dẫn đến vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị
của một Đảng cầm quyền, đặc biệt là tổ chức cơ sở đảng vẫn còn nhiều yếu kém,
bất cập. Nhiều nhân tố tiêu cực đã và đang từng ngày, từng giờ tác động đến tổ chức
Đảng nói chung và tổ chức cơ sở đảng nói riêng làm cho một số cơ sở đảng trở nên
yếu kém, đánh mất vai trò hạt nhân lãnh đạo, buông lỏng quản lý, chưa tạo sự
chuyển biến cơ bản để ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, cục bộ, bản vị vẫn còn
diễn ra nghiêm trọng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nhiều tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên sinh hoạt còn lỏng lẽo, ý thức tự phê bình và phê bình chưa cao
v.v., tạo nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân, làm giảm sút uy tín của Đảng
và hạn chế sự phát triển của đất nước. Trong khi đó tình hình thế giới và trong nước
lại có những diễn biến phức tạp và khó lường, các thế lực thù địch tăng cường ráo
riết thực hiện chiến lược âm mưu diễn biến hoà bình nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng và sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Trước tình hình đó, để tiếp tục thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá
- hiện đại hoá đất nước, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì
vấn đề quan trọng đối với cách mạng Việt Nam là phải tiếp tục phát huy những
nhân tố nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Đây chính là nền
tảng, là hạt nhân chính trị cơ sở, là tiếng nói trực tiếp gắn với việc phát huy sức
mạnh toàn dân tộc.
Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng Quảng Bình, đơn vị cấu thành, của
hệ thống 4 cấp của tổ chức Đảng, là cấp uỷ cấp trên của tổ chức cơ sở đảng, trực
thuộc và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ Quảng Bình. Điểm khác với cấp
ủy Đảng cùng cấp như các huyện, thị, thành phố là không có chính quyền cùng cấp,
các ban tham mưu chuyên trách giúp việc gọn nhẹ, gồm có văn phòng, ban tổ chức,
ban tuyên giáo và ủy ban kiểm tra, không có ban dân vận. Mỗi ban chỉ có một đến
ba cán bộ và được sử dụng một số cán bộ kiêm nhiệm. Trong thời gian qua Đảng bộ
Khối cơ quan Dân Chính Đảng Quảng Bình đã lãnh đạo 71 tổ chức cơ sở đảng trong
Đảng bộ Khối thực hiện nhiệm vụ chính trị, chăm lo công tác xây dựng Đảng gắn với
xây dựng cơ quan và các đoàn thể trong sạch vững mạnh, góp phần quan trọng trong
việc đưa tỉnh Quảng Bình phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Song nhìn lại và
đánh giá thực chất phong trào, thì tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Khối cơ quan Dân
Chính Đảng Quảng Bình, không tránh khỏi những hạn chế; chất lượng còn chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Nhận thức được những hạn chế và tầm quan trọng của vấn
đề này, tôi chọn đề tài "Những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay" làm Luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong các khoa học chính trị ở nước ta cho đến nay có một số đề tài, công
trình, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và nhiều bài viết về đổi mới, nâng cao chất
lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
1) Một số đề tài khoa học:
"Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước”, đề tài cấp bộ, cơ quan chủ trì, Học viện
Hành chính Quốc gia, Hà Nội 2001, Chủ nhiệm PGS. Trần Đình Huỳnh.
"Đảng cầm quyền trong thời đại ngày nay và những vấn đề rút ra cho công
cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta", đề tài cấp bộ, Hà Nội 1993 do GS. Đậu Thế
Biểu làm chủ nhiệm và PGS. Mai Trung Hậu làm thư ký khoa học, cơ quan chủ trì
Viện nghiên cứu khoa học - Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
“Bảy mươi năm Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội 2000.
"Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong
Doanh nghiệp Nhà nước". Đề tài cấp bộ, cơ quan chủ trì Phân viện Báo chí và
Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí và Truyên truyền), năm 2002, chủ nhiệm đề
tài là PGS.TS. Dương Xuân Ngọc.
2) Một số luận án, luận văn:
Có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập đến việc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng trong các lĩnh vực ở nông thôn, doanh nghiệp, trong các lực lượng vũ
trang, quân đội như:
"Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng nông thôn (cấp xã) vùng Đồng
bằng Sông Hồng" Luận án Tiến sĩ của Đỗ Minh Ngọc, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh.
“Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vùng Đồng bằng Bắc
bộ nước ta hiện nay”, luận văn thạc sĩ của Mai Đức Ngọc, chuyên ngành chính trị
học, mã số 05. 01. 10, năm 2002, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
“Vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính
trị Việt Nam”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Giang, chuyên ngành chính trị học,
mã số 05. 05. 01, 2000, tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
3) một số sách, bài viết của các nhà nghiên cứu, các cán bộ lãnh đạo quản
lý:
“Mấy vấn đề về xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới”, Vũ Oanh, Nxb CTQG, Hà Nội 1999.
"Đổi mới về phương thức lãnh đạo của Đảng", Lê Đức Bình, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 9/ 2000.
“Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối
quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng - dân một ý chí”, Lê Khả Phiêu, Tạp chí Cộng
sản, 4/ 2000.
“Sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, nguồn sức mạnh vô tận của
Đảng”, TS. Đào Duy Quát, Báo nhân dân, 02/ 02/ 2000.
“Tiêu chuẩn Đảng viên và những vấn đề bức thiết trong công tác Đảng viên hiện
nay”, PGS. TS. Tô Huy Rứa, Hội thảo đề tài KX- 05, ngày 11/01/1999.
“Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ then chốt, tạo bước chuyển biến cơ bản trong công
tác xây dựng Đảng”, Nguyễn Đức Hạt, Tạp chí Xây dựng Đảng, 5/2006.
“Vận dụng tư tưởng của Lênin về Đảng cầm quyền vào công cuộc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng ta trong thời kỳ đổi mới”, GS. TS. Dương Xuân Ngọc, Tạp chí Lý
luận chính trị, 6/2006.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển”, Nông Đức Mạnh, Tạp chí Xây dựng Đảng, 5/2006.
“Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới”, Trương Thị Mỹ Trang, Tạp chí Xây dựng Đảng, 2+3/ 2007.
“Biện pháp xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh” Vũ Cao Hội, Tạp chí
Kiểm tra, 2/2007.
“Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất
nước”, PGS. TS. Nguyễn Trọng Phúc, Nxb, CTQG, Hà Nội 1999.
Phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết này đề cập đến vấn đề
Đảng, là cơ sở lý thuyết và cách tiếp cận về xây dựng Đảng. Cho đến nay vẫn còn
rất ít công trình đề cập vấn đề Đảng trên cơ sở lý thuyết của chính trị học. Nghiên
cứu các nhân tố bảo đảm thực thi quyền lực - quyền lực chính trị, phát huy vai trò
hạt nhân lãnh đạo chính trị của một Đảng cầm quyền ở cơ sở, cũng như những nhân
tố bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng nói chung, chắc chắn là thuộc về đối tượng nghiên
cứu của chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vu nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Xác định và phân tích một số nhân tố bảo đảm hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở tỉnh Quảng
Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của tổ chức cơ sở đảng và những
nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
- Phân tích rõ thực trạng, những nhân tố tích cực và tiêu cực ảnh hưởng đến
sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở
Quảng Bình hiện nay.
- Xác định những nhân tố chủ yếu (thể hiện ở một số giải pháp và kiến nghị)
nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân
Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu là những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ
sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay.
- Khách thể nghiên cứu là những tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan, đơn
vị hành chính, sự nghiệp thuộc Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng Quảng Bình
(có thể có những liên hệ, chứng minh, so sánh cần thiết với các cơ sở khác, địa
phương khác, nước khác).
- Phạm vi nghiên cứu là các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan
Dân Chính Đảng ở tỉnh Quảng Bình trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng.
- Sử dụng các phương pháp cchuyên nghành, liên ngành khác nhau như các
phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử v.v..
- Cơ sở thực tiễn là tổ chứ và hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng ở Quảng
Bình và trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay.
6. Đóng góp mới của luận văn
Một là, xác định và phân tích các nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, của
các tổ chức cơ sở đảng bằng lý thuyết của chính trị học về tổ chức và thực thi quyền
lực (quyền lực chính trị của Đảng cầm quyền).
Hai là, xác định những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay.
Ba là, xác định một số nhân tố chủ yếu và có tính đột phá nhằm bảo đảm sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở
Quảng Bình thời gian tới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Phân tích một số vấn đề có tính lý luận về tổ chức Đảng trong đó có tổ chức
cơ sở đảng hiện nay từ góc độ chính trị học.
- Phân tích một số vấn đề cần thiết do thực tế đặt ra trong việc phát huy vai
trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở
Quảng Bình hiện nay.
- Do vậy kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong trong việc nghiên cứu về các Đảng chính trị, trong các bộ môn chính trị học và xây
dựng Đảng, trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
- Ngoài mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung kết cấu
gồm có 3 chương, 6 tiết.
Chương 1. Tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo
tổ chức cơ sở đảng ở nước ta hiện nay.
Chương 2. Tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hưởng tới sự lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng
Bình hiện nay.
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy những nhân tố bảo
đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính
Đảng ở Quảng Bình.
Chương 1
Tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hưởng
đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
ở nước ta hiện nay
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng hiện nay
1.1.1. Khái niệm về tổ chức cơ sở đảng nói chung
Khái niệm Tổ chức cơ sở đảng lần đầu tiên được ra đời tại Đại hội III Đảng
Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga (25/4/1905). Đại hội xác định"Mỗi tổ chức Đảng cho
tới chi bộ công nhân cơ sở của Đảng phải được xác định thành phần và nhất định phải ổn
định những mối liên hệ đều đặn với Trung ương". Sau đó trong bài "Tiến tới thống nhất",
Lênin chỉ rõ "Những điều kiện khách quan đòi hỏi rằng những chi bộ công nhân phải
làm cơ sở của Đảng" [44, tr.251 - 259].
Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng đã nhấn mạnh: Đảng ta có một tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ Trung
ương đến cơ sở, có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, vì vậy phải được thành
lập, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Người nói: "ở mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí
nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, nông thôn, đại đội - có 3 đảng viên trở lên
thì lập một chi bộ" [49, tr.242].
Với tinh thần đó, khái niệm tổ chức cơ sở đảng được ghi rõ trong Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam và qua các kỳ đại hội có sự điều chỉnh và từng bước hoàn
chỉnh về nội dung và ý nghĩa của nó. Tại Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
được thông qua Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X ghi rõ:
1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác
có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng; nếu chưa
đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng
viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có
các tổ chức đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ
cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
5. Những trường hợp sau đây, cấp uỷ cấp dưới phải báo cáo và được
cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở [31, tr.34,35]
Như vậy, tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở, việc lựa
chọn mô hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ thuộc vào số lượng
đảng viên chính thức và phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, do yêu cầu của việc phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chính sách đối ngoại mở rộng
của Đảng, nên ngoài các loại hình tổ chức cơ sở đảng được tổ chức, các đơn vị cơ
sở hành chính (xã, phường, thị trấn), các đơn vị sự nghiệp, cơ quan, doanh nghiệp
nhà nước, đơn vị cơ sở trong công an, quân đội v.v. còn xuất hiện loại hình tổ chức
cơ sở đảng ở các đơn vị doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
1.1.2. Vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sơ đảng nói
chung hiện nay
1.1.2.1. Vị trí, vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Trong quá trình thực thi quyền lãnh đạo, tổ chức cơ sở đảng có một vị trí, vai
trò hết sức quan trọng, tác động đến quá trình phát triển một cách toàn diện trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng, C.Mác và Ph.ăng ghen là những
người đầu tiên chỉ ra vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, hai ông cho
rằng nếu các chi bộ buông lỏng về mặt tổ chức, sẽ làm cho Đảng "mất chỗ dựa vững
chắc và duy nhất v.v.." [47, tr.167]. C.Mác và Ph.ăngghen luôn luôn coi trọng việc
củng cố các chi bộ, làm cho chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội
công nhân. Phát triển tư tưởng đó, Lênin trong quá trình xây dựng và lãnh đạo Đảng
Bônsêvích Nga - Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đã xây dựng và kiện toàn
tổ chức cơ sở đảng, làm nơi rèn luyện, phân công công tác, quản lý, sàng lọc đảng
viên, biến mỗi chi bộ thành trung tâm hạt nhân của các hiệp hội công nhân, là điểm
tựa để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động và tổ chức thực hiện mọi chủ trương
đường lối lãnh đạo của Đảng trong quần chúng.
Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đã đặc biệt quan tâm chăm lo đến việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng theo quan điểm
mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ,
liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần
chúng. Hồ Chí Minh chỉ rõ "Chi bộ là gốc rễ của Đảng" và "Chi bộ là đồn lũy của Đảng
chiến đấu ở trong quần chúng" [49, tr.242] giống như một cây không thể thiếu gốc rễ,
một ngôi nhà không thể thiếu nền tảng, điều đó đủ nói lên vị trí, vai trò cực kỳ quan
trọng của mỗi chi bộ với tư cách là tổ chức cơ sở đảng. "Đảng mạnh là do các chi
bộ mạnh "[50, tr.270] và "các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh" [49, tr.243].
Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã hội, các
tổ chức cơ sở của Đảng là những hạt nhân chính trị, là nền tảng của Đảng ở cơ sở,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân vững chắc, lãnh đạo
đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà" [50, tr.205] và “Tác dụng
của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần
chúng" [49, tr.243].
Kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo các quan điểm lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách .
mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn chăm lo xây dựng tổ chức
cơ sở đảng. Hệ thống tổ chức của Đảng được kết cấu song trùng với hệ thống hành
chính nhà nước theo bốn cấp: Trung ương; tỉnh (thành phố); huyện (quận); xã
(phường, thị trấn).
Tổ chức cơ sở đảng là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của
Đảng, là nền tảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở. Xét trong hệ thống tổ chức của
Đảng thì tổ chức cơ sở đảng là "nền tảng", là "gốc rễ" của Đảng
Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là nơi góp phần
phát triển và hoàn thiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Là một thành
viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trò đoàn kết,
lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân. Trong
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là những "sợi
dây chuyền" nối liền Đảng với dân.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Tổ chức cơ sở đảng nói chung có hai chức năng quan trọng:
Một là, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản xuất,
kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác của cơ sở; chăm lo cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân; động viên quần chúng hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của
cơ sở, đơn vị đối với Nhà nước.
Từ chức năng nói trên, Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được
thông qua Đại hội lần thứ X của Đảng năm 2006, quy định năm nhiệm vụ của tổ
chức cơ sở đảng như sau:
1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh
đạo thực hiện có hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao
chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ
luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo
dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức
cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm tốt
công tác phát triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành
chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội
trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham
gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
Nhà nước.
5. Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm
tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì
được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên [31, tr.37-39].
Với chức năng nhiệm vụ được qui định trong Điều lệ Đảng, thời gian qua tổ
chức cơ sở đảng đã cơ bản phát huy vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị, làm tốt
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ, xây dựng tổ chức cơ
sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển Đảng và tăng cường
công tác kiểm tra. Đa số cán bộ đảng viên phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu,
năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức, góp phần quan trọng vào thắng lợi
sự nghiệp đổi mới, tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình phát triển đất
nước.
1.2. những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
hiện nay
1.2.1. Khái niệm về nhân tố và phân loại các nhân tố
1) Khái niệm nhân tố: Nhân tố hay yếu tố là những điều kiện, những cơ sở,
những tiền đề cần thiết gây ra, tạo ra cái gì đó. Đồng thời trong kết cấu (cấu trúc)
của một sự vật hay hiện tượng nhất định, bao gồm nhiều nhân tố hay yếu tố cấu
thành. Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng cũng như hoạt
động của con người v.v., hiện diện một loạt các nhân tố hay yếu tố nối tiếp nhau.
Các nhân tố, yếu tố là hết sức phong phú, để nhận biết các nhân tố, yếu tố cần có
một hệ thống các tiêu chí để phân biệt. Nói cách khác để có nhận biết các nhân tố,
yếu tố thì cần các phương pháp tiếp cận khác nhau. Giữa các nhân tố hay yếu tố
cũng có sự chuyển hoá lẫn nhau, sự phân biệt các nhân tố, yếu tố chỉ có ý nghĩa
tương đối. Các nhân tố, các yếu tố không chỉ khác nhau về tính chất do cách tiếp
cận khác nhau mà còn khác nhau về cấp độ, trình độ. Nghiên cứu nhân tố có thể
được xem là một hướng hay, một phương pháp nghiên cứu của nhiều nghành khoa
học, trong đó có chính trị học.
2) Các lọai nhân tố: Dưới góc độ triết học - góc độ nhận thức luận, người ta
có thể nhận thấy những loại nhân tố chủ yếu sau đây.
- Nhân tố khách quan là những điều kiện không phụ thuộc vào con người và
quyết định phương hướng, qui mô hoạt động của họ. Có thể nhận thấy một số nhân
tố khách quan tiêu biểu như: những biểu hiện của tự nhiên, những trình độ phát triển
của sản xuất, của xã hội, những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội v.v..Nhân tố chủ
quan là hoạt động của quần chúng, của các giai cấp, các đảng phái, nhà nước hay
những con người cá biệt với ý thức, ý chí và khả năng hoạt động của họ v.v.. Có thể
thấy một số nhân tố chủ quan tiêu biểu, biểu hiện như hoạt động của quần chúng, của
các giai cấp, đảng phái, nhà nước, những con người cá biệt với ý thức, ý chí, khả
năng của họ v.v..
Trong đời sống xã hội những nhân tố khách quan bao giờ cũng là những
nhân tố quyết định, nhưng tác động của chúng chỉ thể hiện thông qua sự tác động
của các nhân tố chủ quan của con người. Những nhân tố chủ quan chỉ có thể đóng
vai trò quyết định chỉ khi nào những điều kiện khách quan đã được chuẩn bị cho
chúng. Sự tác động của các nhân tố chủ quan đến sự phát triển của xã hội tăng lên
cùng với sự quá độ từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế xã hội khác, tiến bộ hơn. Vai trò của những nhân tố chủ quan tăng lên đặc biệt mạnh
mẽ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khi lần đầu tiên trong lịch sử loài người có khả
năng phát triển sáng tạo và hài hoà tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, khi đông
đảo quần chúng nhân dân được thu hút tham gia một cách tự giác vào công cuộc
xây dựng xã hội mới.
- Nhân tố bên ngoài, là sự phản ánh phía mặt ngoài của sự vật hiện tượng, mà
cảm giác của con người thu nhận được hoặc phản ánh hiện thực tồn tại bên ngoài sự
vật, hiện tượng.
- Nhân tố bên trong, là phạm trù chỉ cái bên trong, phản ánh mặt thực chất
của sự vật hiện tượng. Cái bên trong không được tiếp thu một cách trực tiếp, mà
nhận thức thông qua cái bên ngoài, thông qua những biểu hiện của sự vật, hiện
tượng. Những mặt bên ngoài của sự vật, hiện tượng được qui định bởi cái bên trong,
bởi qui luật, bởi bản chất và thông qua những cái đó mà người ta phát hiện, nhận thức
được chúng. Việc xem xét bản chất bên trong của sự vật đưa đến những hiểu biết về
những mâu thuẫn bên trong của sự vật, về nguồn gốc phát triển và những qui luật vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ngoài ra, ở gốc độ nhận thức luận, người ta còn phân biệt nhiều loại nhân tố,
yếu tố khác nhau nữa. Các nhân tố này thường biểu hiện ra như là những mặt đối
lập nhưng lại thống nhất trong một sự vật hiện tượng như: nhân tố vật chất, nhân tố
tinh thần, nhân tố cơ bản và nhân tố không cơ bản, nhân tố chủ yếu và nhân tố thứ
yếu, nhân tố chi phối quyết định và nhân tố tác động - ảnh hưởng. Nhân tố ở góc độ
của xã hội học hay là tiếp nhận các nhân tố, các yếu tố từ đời sống xã hội, từ góc độ
của một hình thái kinh tế - xã hội, người ta lại thấy các nhân tố, yếu tố kinh tế,
chinh trị, văn hoá - xã hội.
ở góc độ chính trị học, tiếp cận của đề tài, nhân tố, yếu tố của đời sống chính trị,
nhà nước v.v., người ta lại thấy có các nhân tố về tư tưởng, về thể chế, về phương thức
hoạt động, về con người chính trị, trong đó có cán bộ chín trị.
Nghiên cứu các nhân tố, yếu tố về tổ chức chính trị trong đó có hoạt động
lãnh đạo của Đảng chính trị là nghiên cứu về những bộ phận cấu thành, những tiền
đề cần thiết lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Việc làm sáng tỏ các nhân tố là rất có
ý nghĩa quá trình nghiên cứu của các khoa học trong đó có chính trị hoc.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
hiện nay
Một là, nhân tố về lịch sử - xã hội.
Trong lịch sử phát triển của mình, mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi giai cấp, tầng
lớp xã hội đều chịu sự ảnh hưởng chi phối của các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội
và lịch sử. Các nhân tố lịch sử - xã hội này ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau
đến hoạt động chính trị, một lĩnh vực hoạt động chính trị quan trọng của con người
trong xã hội có giai cấp, có chính trị và nhà nước.
Dân tộc Việt Nam từ Văn Lang, Âu Lạc cho đến Đại Việt rồi Việt Nam, đã
trải qua mấy ngàn năm lịch sử lâu dài có thể sánh vai cùng các quốc gia, dân tộc
hình thành sớm nhất trên thế giới. Trong lịch sử ấy, dẫu thuở một nghìn năm Bắc
thuộc đất nước vẫn chói sáng với những cuộc khởi nghĩa vũ trang, những anh hùng
dân tộc, những tinh thần quật cường và quật khởi, ý chí độc lập dân tộc. Lịch sử dân
tộc lại càng rạng danh hơn từ khi có Đảng ra đời, tên tuổi Việt Nam không chỉ được
khôi phục mà ngày càng thêm rạng rỡ trước toàn thế giới. Dân tộc Việt Nam ngẩng
cao đầu đi lên.
Có được trang sử vẻ vang mấy ngàn năm lịch sử đó chính là nhờ Dân tộc
Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết dân tộc vững chắc
và truyền thống đánh giặc giữ nước anh hùng bất khuất. Những nhân tố quan trọng
này được thấm nhuần, ngấm sâu đối với mỗi con người Việt Nam trong suốt cả
chiều dài lịch sử. Nhìn lại lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam; đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta càng khẳng
định vai trò to lớn của giá trị truyền thống lịch sử - xã hội, cũng như vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam vẫn là một quốc gia có lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và địa văn hoá,
trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và khó khăn thách thức lớn đan xen nhau, thì việc
phát huy và nhân lên sức mạnh lịch sử - xã hội, kế thừa có chọn lọc và phát huy vai
trò lãnh đạo của của tổ chức cơ sở đảng trong sự nghiệp đổi mới là vấn đề cần kíp,
được quan tâm lãnh đạo của Đảng ta, bởi lẽ đây là những nhân tố được vun đắp và
xây dựng nên của bao thế hệ cha ông chính vì thế mà họ nâng nưu, quí trọng. Các
giá trị truyền thống trong Đảng càng có ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi cán bộ, đảng
viên và tăng thêm vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Tuy nhiên cũng phải chú trọng
khắc phục những mặt trái của nhân tố lịch sử - xã hội như tính chất họ hàng, dòng
tộc, cục bộ địa phương, gia trưởng độc đoán, thói quen tập quán cũ đã ăn sâu bén rễ
trong mỗi cán bộ, đảng viên, đây chính là những nhân tố gây cản trở sự phát triển
của lịch sử và làm giảm uy tín của Đảng đối với nhân dân.
Hai là, nhân tố về tổ chức, cán bộ và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng.
Công tác tổ chức, cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng, bảo đảm sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.
Thuật ngữ "tổ chức" (organization) bắt nguồn từ chữ Hy Lạp (organon), có
nghĩa là công cụ, dụng cụ, khái niệm công cụ ở đây chỉ chức năng chung của các
loại hình tổ chức; tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thểv.v.. Trên thực
tế cho đến nay, tuỳ góc độ nhìn nhận khác nhau mà người ta đưa ra những định
nghĩa khác nhau. ở phương diện chung nhất có thể nhận thấy rằng tổ chức luôn
phản ánh hình ảnh của xã hội, là sợi dây liên kết, gắn bó con người, các thành viên
lại với nhau, thành các nhóm, các bộ phận xã hội tồn tại và hoạt động trên cơ sở
mục tiêu chung, có sự quy định của pháp luật. Vì thế, khái niệm tổ chức được hiểu
như sau: Tổ chức là một nhóm xã hội (một tập thể) bao gồm những cá nhân được tập
hợp theo sự phân công lao động thống nhất về mục đích và hành động chặt chẽ, trên cơ
sở pháp quy quy định.
Cán bộ là một danh xưng, xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta mấy chục
năm gần đây, để chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn
sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao
cả, giành độc lập, tự do cho dân.Trong Từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa
là: “Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, đảng, đoàn
thể, người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với
người không có chức vụ” [73, tr.105].
Công tác tổ chức, cán bộ là công tác đối với con người, đối với các nhân
cách khác nhau. Đây là nhân tố tác động, rất quan trọng, bảo đảm cho vai trò lãnh
đạo của Đảng nói chung cũng như tổ chức cơ sở đảng nói riêng. Tuy nhiên, đây
cũng là một công việc rất khó khăn, đòi hỏi phải có tính khoa học và nghệ thuật cao.
Xét quan điểm tích cực về Thủ lĩnh chính trị trong lịch sử phương Tây như:
Xê-nô-phôn, Pla-ton, ôgruxtanh, Mongtétxkiơ v.v. thì thủ lĩnh chính trị phải là
người thông thái, người biết chỉ huy, là người giỏi thuyết phục, biết vì lợi ích chung,
biết tập hợp mà nhân lên sức mạnh của mọi người, biết đưa ra những quyết định
đúng ở những thời điểm bước ngoặt, phải đặt uy quyền vào việc phục vụ nhân dân,
lấy công bằng làm gốc, từ thiện làm ngọn, cầm quyền là gánh nặng, địa vị cao nhất,
cũng là nguy hiểm và nặng nề nhất. Họ phải biết chỉ huy mình trước khi chỉ huy
người khác, phải biết phân biệt lợi ích của quốc gia với những đòi hỏi sai lạc của
nhân dân, có đủ năng lực, có tài, có đức tham gia vào bộ máy quyền lực nhà nước.
Xét những quan điểm tích cực về Thủ lĩnh chính trị trong lịch sử tư tưởng
Chính trị phương Đông, chúng ta thấy điểm chung là đi tìm mẫu hình lý tưởng.
Khổng Tử cho rằng Người cai trị dân phải có đức độ, công bằng, độ lượng, vì nhân
hậu nên được lòng dân, thành thực nên trăm họ tín nhiệm, cần mẫn nên thành công,
công bằng nên mọi người vui vẻ. Thủ lĩnh phải tu dưỡng, phấn đấu không ngừng để
trở thành người có đủ: Trí, Nhân, Trung, Nghĩa, Tín để hoàn toàn xứng đáng là
người cai trị dân, có trách nhiệm làm gương cho dân, chăm lo cho dân, bảo vệ dân và
phải giáo hóa dân, tạo niềm tin cho dân; Mạnh Tử cũng cho rằng kẻ cai trị phải có đức,
có tài; Hàn Phi Tử lại đề ra tiêu chuẩn thủ lĩnh chính trị là phải biết đề cao pháp luật.
Hiểu đạo và cai trị theo đạo; Mặc Tử cũng cho rằng thủ lĩnh phải là Người: Vui với lợi
ích của thiên hạ, trừ họa cho thiên hạ, phép tắc kỷ cương, đối xử tốt đẹp với mọi người
xung quanh.
Như vậy xét về mặt lịch sử, từ phương Tây đến phương Đông, tiêu chí bao
quát nhất đối với thủ lĩnh chính trị là đạo đức, trí tuệ và sức khỏe, biết thu phục
nhân tâm, biết tổ chức và phát huy sức mạnh cộng đồng, nếu loại trừ những hạn
chế, thì những tư tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Lênin ngay từ ngày đầu thành lập Nhà nước Xô viết, đã rất coi trọng công tác
tổ chức, theo ông lĩnh vực trọng yếu nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tức
là nhiệm vụ tổ chức và khi đường lối, chính sách đã được xác định, phương hướng
đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu, và “điều
chủ yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh (đấy là
chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó
là vấn đề then chốt" [45, tr.450].
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam trong quá trình lãnh
đạo cách mạng đã xác định vị trí, vai trò của công tác tổ chức và cán bộ, Người
khẳng định "cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [48, tr.269], "Muôn việc thành
công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" [48, tr.240].
Phát triển tư tưởng đó, Đảng ta luôn coi trọng công tác tổ chức cán bộ, và
xem đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta nhấn mạnh: Đổi mới cán bộ lãnh
đạo các cấp, là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy các
cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta
tiếp tục xác định "Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ" [22, tr.135] và "Xây
dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu
số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực” [22, tr.136]. “ Có
cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ
xứng đáng người có đức, có tài; thay thế kịp thời những người kém năng lực và kém
phẩm chất, có khuyết điểm nghiêm trọng" [22, tr.137].
Tổ chức và cán bộ có sự khác nhau về chức năng nhiệm vụ, nhưng lại có mối
quan hệ chặt chẽ và sự tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình
tồn tại và phát triển. Đối với tổ chức cơ sở đảng, công tác tổ chức và cán bộ là nhân
tố quan trọng nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, nếu tổ chức
tốt và có đội ngũ cán bộ tốt thì tổ chức đảng mạnh, nếu một trong hai yếu tố đó yếu
hoặc cả hai đều yếu thì sẽ gây ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, làm
cho tổ chức cơ sở đảng đó suy yếu dần, đồng thời có nguy cơ đánh mất vai trò hạt
nhân lãnh đạo chính trị. Chính vì thế mà trong công tác lãnh đạo của Đảng có một
nội dung rất quan trọng đó là: Đảng lãnh đạo toàn diện công tác tổ chức, cán bộ và
lãnh đạo toàn thể hệ thống chính trị thông qua công tác tổ chức và cán bộ.
Ba là, nhân tố nhận thức về Đảng và xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Nhận thức mới về Đảng và đổi mới nhận thức trong xây dựng chỉnh đốn
Đảng là nhân tố trọng tâm nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhận thức là
điểm khởi đầu quan trọng, nhận thức đúng mới đổi mới đúng, nhận thức mới về
Đảng là căn cứ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, vấn đề trung tâm của sự nghiệp đổi mới
của nước ta. Từ bài học thành công và thất bại của các Đảng Cộng sản trên thế giới,
trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có
quan điểm, nhận thức đúng về Đảng, về vai trò lãnh đạo của Đảng và đưa ra một hệ
thống quan điểm ngày càng hoàn chỉnh về Đảng và công tác xây dựng Đảng.
Khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo trong thời kỳ mới, Đảng phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đổi mới và chỉnh đốn là yêu cầu khách
quan, gắn chặt với nhau, không thể chỉnh đốn nếu không đổi mới, không thể đổi
mới mà không chỉnh đốn. Đổi mới không phải làm cho Đảng biến màu, biến chất
mà làm cho Đảng càng giữ vững bản chất, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, đủ
sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Nhận thức mới của Đảng ta còn thể hiện ở sự khẳng định lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của cách mạng Việt Nam. Đảng ta kiên trì và làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác Lênin qua thực tiễn cách mạng Việt Nam, biểu hiện rõ trong đường lối đổi mới,
không khô cứng, giáo điều mà là một hệ thống tư tưởng sống động, có khả năng kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, bổ sung giữa lý luận và thực tiễn. Không từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ
nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng ta nhận thức đầy đủ hơn, phát triển nhân tố ảnh
hưởng tích cực thực hiện nền dân chủ hoá một cách rộng rãi; xây dựng một nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đảng có quyền lực chính trị, nhưng
không để trở thành quan quyền, đây là nhận thức mới nhất, sâu sắc nhất của Đảng ta
v.v..
Điều nổi bật trong nhận thức mới của Đảng ta là nhận thức hoàn thiện về mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân, coi đây là nhân tố quan trọng nhằm phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng. Ngay từ đầu mới thành lập đã được nhân dân ủng hộ, yêu
thương, đùm bọc. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng
Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, đã biết dựa vào sức mạnh của
nhân dân, phát huy tính tích cực của quần chúng nhân dân, giữ mối quan hệ chặt
chẽ với dân như cá với nước. Trong lúc khó khăn nhất, Đảng ta lại nhờ nhân dân mà
- Xem thêm -