Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng ng...

Tài liệu Những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương vinh

.PDF
67
193
133

Mô tả:

Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Lời mở đầu Rủi ro tín dụng là một phạm trù luôn gắn liền với đời sống xã hội. Rủi ro được hiểu là những sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến các hoạt động của xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng. Trong bất kỳ hoạt động nào đều tiềm ẩn những rủi ro và nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào và hậu quả của nó không thể lường trước được. Đối với các ngân hàng rủi ro tín dụng luôn có hậu quả nghiêm trọng nhất, có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và nghiêm trọng hơn có thể gây ra phản ứng dây chuyền ảnh hưởng xấu đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt nên nguy cơ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng dễ phát sinh. Với tư cách là hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất nhạy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế đều nhanh chóng gây ra những xáo trộn bất ngờ và làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng bị giảm sút nhanh chóng. Trong quá trình kinh doanh tất cả các doanh nghiệp đều có thể gặp phải những rủi ro. Tuy vậy, trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất và hậu quả luôn nghiêm trọng nhất. Do đó, việc nhận thức và đưa ra các giải pháp hữu hiệu để phòng ngừa và hạn chế rủi ro luôn là vấn đề cấp bách của các ngân hàng. Có rất nhiều tài liệu, sách báo, hội thảo, các công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề rủi ro tín dụng. Tất cả không nằm ngoài mục đích tìm ra giải pháp hữu hiệu để phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Rủi ro rín dụng luôn là vấn đề nan giải, phức tạp mà các nhà quản lý ngân hàng phải quan tâm. Vì vậy, thông qua những kiến thức đã học ở trường, SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp tham khảo sách báo cùng với thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Vinh. Em xin khái quát một số hiểu biết của mình về vấn đề rủi ro tín dụng thông qua việc nghiên cứu đề tài: “ Những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Vinh” Kết cấu bài viết có những nội dung chính sau: Chương 1: Những vấn đề chung về rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng về rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Vinh Chương 3: Những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Vinh Do trình độ hiểu biết còn hạn chế nên trong bài luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong sự bổ sung đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cô, chú, anh chị công tác tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Vinh để đề tài này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên thực hiện: Bùi đình Luyện SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.Khái niệm về Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. Mầm mống của Ngân hàng thương mại đã xuất hiện từ thời trung cổ. Trong thời kỳ này, mỗi quốc gia, thậm chí mỗi địa phương có một thứ tiền riêng và chỉ sử dụng nó trong phạm vi địa phương hay quốc gia của mình. Tình hình này đã gây trở ngại cho việc trao đổi buôn bán hàng hoá. Để giải quyết được khó khăn này, một tầng lớp trung gian đã xuất hiện, tầng lớp thương nhân chuyên làm nghề đổi tiền đúc. Những người này có trong tay đủ các loại tiền đúc của các địa phương trong một quốc gia. Nhờ đó, mọi người có thể đem một loại tiền đúc này đổi lấy một loại tiền đúc khác mà mình đang cần và phải trả lãi. Do số lượng khách hàng đổi tiền ngày càng nhiều nên số nguời cho đổi tiền này đã tập trung được một khối lượng vốn khá lớn, nhờ đó họ mở mang hoạt động của mình: làm thêm nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay. Như vậy, trong sự phân công tự phát của xã hội đã xuất hiện một tầng lớp thương nhân đặc biệt, chuyên lấy tiền tệ làm đối tượng hoạt động, đó chính là tiền thân của nghề Ngân hàng. Những thương nhân đổi tiền trở thành các ông chủ Ngân hàng. Thời gian đầu họ được gọi là tư bản thương nghiệp - tiền tệ. Nghề ngân hàng thời kỳ đầu chỉ bao gồm những nghiệp vụ đơn giản như: đổi tiền, nhận tiền gửi, bảo quản hộ tiền, thanh toán, chuyển tiền và cho vay. Trong đó nghiệp vụ cho vay mang tính chất cho vay nặng lãi. Cho nên các ngân hàng thời kỳ này được gọi là ngân hàng cho vay nặng lãi. SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 ở các nước Tây Âu, các ngân hàng hiện đại lần lượt được thành lập từ các Ngân hàng cho vay nặng lãi được chuyển hoá hoặc được thiết lập mới. Hoạt động của các Ngân hàng này đều là loại ngân hàng đa năng, phát hành các nghiệp vụ tiền gửi, chiết khấu, cho vay, phát hành giấy bạc, đổi tiền, chuyển tiền… các ngân hàng hoạt động độc lập, chưa tạo thành một hệ thống và có mối liên kết ràng buộc chặt chẽ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, xu thế quốc tế hoá về kinh tế - tài chính, hệ thống ngân hàng ở mỗi quốc gia được hoàn chỉnh thêm một bước đồng thời trên phạm vi khu vực và phạm vi toàn cầu đã xuất hiện các tổ chức ngân hàng quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB)…Những Ngân hàng này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp chính sách tài chính - tiền tệ giữa các nước, khơi thông sự chu chuyển vốn, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế của mỗi nước và cộng đồng các quốc gia trên thế giới. NHTM ra đời là một đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường, NHTM được xem là một “ trái tim lớn” trong nền kinh tế. Khác với các doanh nghiệp khác, ngân hàng thương mại không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá nhưng nó góp phần phát triển nền kinh tế xã hộ thông qua việc cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế thực hiện chức năng trung gian thanh toán và dịch vụ ngân hàng. Trên thực tế có rất nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại. Song ngân hàng thương mại được hiểu chung đó là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. 2. Chức năng của ngân hàng thương mại 2.1. Chức năng trung gian tín dụng Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Trong đời sống xã hội, tại các thời điểm nhất định luôn có những tác nhân tạm thời thừa vốn và một số tác nhân khác lại thiếu vốn. Các tác nhân này không thể tự tìm đến nhau để điều hoà nhu cầu của mình được. Vì vậy, các trung gian tài chính ra đời và phát triển nhằm khắc phục hạn chế này. Ngân hàng thương mại một mặt thu hút tiền gửi nhàn rỗi tạm thời của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp… trong xã hội để tạo lập quỹ cho vay. Mặt khác, ngân hàng lại đem số vốn huy động được để cho vay đối với những khách hàng đang có nhu cầu sử dụng vốn. Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng thương mại thể hiện đó là một trung gian tài chính quan trọng để điều chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Thông qua chức năng này ngân hàng thương mại đã góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, kìm chế lạm phát… Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng. Do đó ngân hàng cũng lấy lợi nhuận làm mục tiêu hoạt động của mình. Nhờ có việc huy động vốn vay để cho vay mà không những ngân hàng đã có được nguồn thu chủ yếu để duy trì sự hoạt động của bộ máy, đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước mà còn có lãi, đảm bảo cho sự phát triển không ngừng của ngân hàng. 2.2. Chức năng trung gian thanh toán Cùng với sự xuất hiện của ngân hàng thương mại phần lớn các khoản chi trả về hàng hoá dịch vụ của xã hội đều thực hiện qua mạng lưới ngân hàng với những hình thức thanh toán đa dạng, thuận tiện và hiệu quả. Tất cả các hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các hoạt động khác trong nền kinh tế cuối cùng đều được kết thúc bằng khâu thanh toán. Để cho quá trình thanh toán được thực hiện một cách thuận lợi và tiết kiệm,các tác nhân trong nền kinh tế thường không thanh toán trực tiếp với nhau mà thanh toán qua ngân hàng. Nhờ đó mà giảm được các chi phí không cần thiết phát sinh trong các hoạt động kinh tế. SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Thực hiện chức năng này ngân hàng thương mại đã cung cấp các phương tiện thanh toán đa dạng trong nên kinh tế để khách hàng có thể lựa chọn như: thanh toán thu chi tiền mặt, thanh toán thông qua chuyển khoản, séc thanh toán, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi…nhờ đó mà tiết kiệm được chi phí lưu thông, điều tiết lưu thông tiền tệ, nâng cao hiệu quả tín dụng và hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. 2.3. Chức năng tạo tiền Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức trung gian tài chính, là cầu nối giữa cung và cầu tiền tệ với mục đích đem lại lợi ích cho các bên, người gửi tiền, ngân hàng và người vay tiền. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh tiền tệ nhận tiền gửi (tiền vàng và bạc) và cho vay bằng chính các đồng tiền đó, thì kể từ khi các ngân hàng ra đời việc cho vay không nhất thiết phải là tiền vàng hoặc bạc mà có thể cho vay bằng tiền giấy của mình thay thế tiền vàng và bạc do khách hàng gửi ở ngân hàng. Đây là phát minh có giá trị nhất trong lịch sử hoạt động tiền tệ. Thế kỷ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các ngân hàng không hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống. Nhờ hoạt động trong một hẹ thống mà các ngân hàng thương mại đã tạo ra tiền bút tệ. Việc tạo ra tiền bút tệ thay thế cho tiền mặt là một sáng kiến quan trọng thứ hai trong lịch sử hoạt động của ngân hàng. Cùng với vai trò độc quyền phát hành giấy bạc của ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại đã góp phần thoả mãn nhu cầu dùng tiền làm phương tiện giao dịch của toàn xã hội. Quá trình tạo tiền của ngân hàng thương mại dựa trên tiền gửi của xã hội. Số tiền này được nhân lên theo cấp số nhân thông qua hoạt động tín dụng và tổ chức thanh toán trong hệ thống ngân hàng. 3. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Sự ra đời của ngân hàng thương mại đã tạo ra một bước phát triển nhảy vọt về chất trong hoạt động quản lý và kinh doanh tiền tệ. Trải qua các quá SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp trình phát triển của nền kinh tế ngân hàng ngày càng khẳng định được vị trí và vai trò to lớn của mình. 3.1. Đối với sản xuất và lưu thông hàng hoá Ngân hàng thương mại là công cụ thúc đẩy việc sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại không chỉ đáp ứng đầy đủ vốn cho các doanh nghiệp mà còn thông qua các dịch vụ thanh toán, tư vấn hỗ trợ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngân hàng còn tạo ra các dịch vụ thuận tiện cho các doanh nghiệp có thể thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá nhờ đó thúc đẩy đầu tư, tiêu dùng cho toàn xã hội một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Ngoài ra, ngân hàng thương mại cung ứng vốn cho các doanh nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu nhập máy móc, các thiết bị khoa học công nghệ…để có thể nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp nâng cao tính tự chủ phát huy sức mạnh để phát triển toàn diện hơn. 3.2. Đối với việc điều hoà và lưu thông tiền tệ Ngân hàng thương mại là đầu mối chính để tung tiền vào lưu thông. Bằng con đương tín dụng, ngân hàng thương mại đã đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình sản xuất, tạo ra của cải vật chất cho xã hội, làm cơ sở ổn định tiền tệ. Vốn tín dụng vay Ngân hàng phải trả lãi và gốc theo quy định vì vậy buộc các doanh nghiệp phải có kế hoạch sản xuất kinh doanh đúng đắn, có khoa học, có khả năng phát triển và thu được lợi nhuận. Hoạt động tín dụng góp phần đẩy nhanh việc thanh toán qua ngân hàng làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, làm tăng hiệu quả việc áp dụng các chính sách tiền tệ quốc gia trong việc điều tiết khối lượng tiền cung ứng. Ngân hàng thương mại là trung gian để ngân hàng trung ương thực thi công cụ chính sách tiền tệ làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Nếu ngân hàng trung ương tăng lãi suất tái cấp vốn thì các ngân hàng SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp thương mại sẽ tăng lãi suất cho vay khi đó nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp giảm xuống và lượng tiền cung ứng trong lưu thông sẽ giảm. Ngược lại, lãi suất tái cấp vốn giảm sẽ làm lượng tiền trong cung ứng sẽ tăng lên. Phần lớn các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương được thực hiện có hiệu qủa khi có sự hợp tác tích cực của ngân hàng thương mại từ việc chấp hành các quy chế dự trữ bắt buộc đến việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư. 4. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại 4.1. Hoạt động huy động vốn Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Nó tạo ra nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh của bất kỳ ngân hàng thương mại nào. Ngân hàng thương mại huy động vốn qua các hình thức nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và đi vay. Để có vốn cho vay, ngoài vốn tự có, ngân hàng phải thu hút tiền gửi của xã hội thông qua các hình thức như: Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của các doanh nghiệp hoặc tiền gửi của các tổ chức cá nhân. Các ngân hàng thương mại bằng việc cung cấp những điều kiện thuận lợi nhất cho việc gửi tiền, nhằm thu hút một lượng tiền nhàn rỗi cao nhất để đáp ứng nhu cầu đầu tư, tiêu dùng cần thiết cho xã hội. Trong việc cho vay ngân hàng thương mại cũng đặt ra các mức lãi suất khác nhau đối với các loại tiền gửi có thời hạn khác nhau. Cụ thể: tiền lãi của các khoản tiền gửi không kỳ hạn bao giờ cũng thấp hơn tiền lãi của các loại tiền gửi có kỳ hạn. Điều này khuyến khích khách hàng gửi tiền có kỳ hạn và cung đảm bảo sự ổn định về tài chính trong hoạt động của các ngân hàng. Ngân hàng thương mại còn huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu, vay mượn của các tổ chức tín dụng khác. Việc ngân hàng thương mại SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp đi vay vốn từ các ngân hàng khác và ngân hàng trung ương cũng được coi là một hình thức huy động vốn quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư trung và dài hạn, giải quyết được tình trạng khó khăn về vốn của ngân hàng thương mại. Ngoài ra, nguồn vốn trong thanh toán hình thành trong quá trình ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán trong nền kinh tế, nguồn vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ của chính phủ hoặc của nước ngoại đầu tư để thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… trong thời gian nguồn vốn này còn tạm thời nhàn rỗi ngân hàng có thể huy động làm nguồn vốn kinh doanh. 4.2. Hoạt động cho vay Có thể nói đây là hoạt động cơ bản nhất, chủ yếu nhất của các ngân hàng thương mại. Sau khi tiến hành huy động vốn, ngân hàng thương mại luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Thông qua cơ chế nhận tiền gửi và cho vay ngân hàng thương mại đã tạo ra lợi nhuận đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, việc cho vay và mở rộng hoạt động cho vay là vấn đề hết sức quan trọng mang tính chất sống còn đối với các ngân hàng thương mại. Hình thức cho vay của các ngân hàng thương mại cũng rất đa dạng: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, cho vay bảo lãnh, cho vay chiết khấu chứng từ có giá, cho vay thấu chi, cho vay đồng tài trợ, cho thuê tài chính, cho vay tiêu dùng…Qua đó, ngân hàng thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. II. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại 1. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Trong đời sống xã hội luôn luôn tiềm ẩn những rủi ro. Rủi ro được hiểu là những bất trắc, biến cố không có lợi và ngoài mong đợi. Do đặc thù trong hoạt động của ngân hàng thương mại “ đi vay để cho vay” nên luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại được hiểu là những sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và có ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Khi xem xét đến vấn đề rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng người ta thường chú ý đến các yếu tố như: chi phí, tổn thất và thua lỗ. Một ngân hàng mà có chi phí hoạt động quá lớn thì ngân hàng đó hoạt động không có hiệu quả buộc ngân hàng đó phải điều chỉnh lại hoạt động của mình cho phù hợp nhằm giảm chi phí xuống. Thua lỗ được biểu hiện dưới hình thức không đạt được thu nhập dự kiến hay chi phí vượt quá thu nhập không thể bù đắp được. Rủi ro có rất nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân khách quan, có nguyên nhân chủ quan nhưng cho dù là các loại rủi ro nào đều có khả năng phòng ngừa với các biện pháp khác nhau. Do đó, việc nhận thức rủi ro, đề ra các biện pháp phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là vấn đề cấp bách của mỗi ngân hàng. 2. Các loại rủi ro của ngân hàng thương mại 2.1. Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là rủi ro do một hoặc một nhóm khách hàng không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây hậu quả nặng nề nhất. Rủi ro tín dụng thường xảy ra ở hai khâu: huy động vốn và cho vay vốn. 2.1.1. Rủi ro ở khâu huy động vốn Rủi ro ở khâu huy động vốn thường xảy ra hai trường hợp: thừa hoặc thiếu vốn. SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Thừa vốn có nghĩa là vốn bị ứ đọng không đầu tư và cho vay được, vì vậy không sinh lãi trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả tiền lãi hàng ngày cho người có tiền gửi vào ngân hàng. Điều đó có nghĩa là các thiệt hại trong ngân hàng đang diễn ra. Nếu quá trình kéo dài này ở mức độ lớn có thể dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Còn trường hợp rủi ro do thiếu vốn xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu cho vay và đầu tư, nhu cầu thanh toán của khách hàng. Rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng, thông thường các kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn các kỳ hạn nguồn vốn, hoặc do mất lòng tin mà hàng loạt khách hàng đến rút tiền khiến cho ngân hàng không có khả năng trả một lúc. Trong hoàn cảnh đó ngân hàng khó lòng huy động được nguồn vốn dồi dào, từ đó kinh doanh có thể bị thu hẹp và vỡ nợ rất có thể sẽ xảy ra. 2.1.2. Rủi ro ở khâu cho vay Hoạt động cho vay là hoạt động lớn nhất và chủ yếu nhất của các ngân hàng thương mại, thông thường ở các nước nghiệp vụ này mang lại thu nhập cho các ngân hàng. Còn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại thường chiếm khoảng 90% tổng thu nhập của mỗi ngân hàng. Nhưng đồng thời trong lĩnh vực này cũng chứa đựng nhiều rủi ro bởi các khoản tiền cho vay bao giờ cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn so với các tài sản Có khác. Rủi ro cho vay biểu hiện ra bên ngoài là việc khách hàng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, vốn bị ứ đọng khó có khả năng thu hồi, nợ quá hạn ngày càng lớn, các khoản lãi chưa thu được ngày càng cao. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do: khách hàng vay vốn gặp khó khăn về tài chính, do yếu tố chủ quan hay khách quan dẫn đến thiếu hoặc khó có khả năng thanh toán, cán bộ ngân hàng không chấp hành đúng quy trình cho vay, vi phạm đạo đức kinh doanh như: cho vay đối với những dự án không khả thi, cho vay khống, thiếu tài sản thế chấp… 2.2. Rủi ro thanh toán SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán chính là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện tại, đột xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong tương lai. Khi ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải quyết một cách kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa khả năng thanh toán sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng giảm. Rủi ro thanh toán nảy sinh do các nguyên nhân sau: - Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá lớn, trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp nên một số ngân hàng đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng thanh toán cuối cùng. - Đến hạn, các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng giảm sút, người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của ngân hàng bằng cách rút hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Tất cả những khía cạnh trên dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của ngân hàng. 2.3. Rủi ro lãi suất Trong cơ chế thị trường, lãi suất luôn biến động, quá trình này có thể gây ra tổn thất cho các ngân hàng thương mại. Chẳng hạn, ngân hàng này đã ký hợp đồng cho vay một kỳ hạn với lãi suất cố định, thiệt hại của ngân hàng sẽ diễn ra khi lãi suất trên thị trường tăng lên. Ngược lại, khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất ấn định, ngân hàng sẽ bị thiệt hại khi lãi suất thị trường giảm xuống. Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Rủi ro lãi suất nảy sinh trong các trường hợp sau: SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp - Lạm phát tăng, lãi suất phải điều chỉnh theo xu hướng tăng lên, chi phí của ngân hàng phải bỏ ra cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi cho người cho vay. - Do cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có của ngân hàng không hợp lý. Ngân hàng dùng tài sản Nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản Có dài hạn. Nếu lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng tăng lên, trong khi thu nhập ở tài sản Có dài hạn vẫn giữ nguyên, vậy thu nhập của ngân hàng không đủ bù đắp chi phí kinh doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn. - Ngoài ra, rủi ro lãi suất cũng có thể xảy ra do trình độ thấp kém bị thua thiệt trong việc cạnh tranh lãi suất ở thị trường. Hoặc do nhiều yếu tố của nền kinh tế tác động đến lãi suất như cung, cầu, các yếu tố thị trường… Khi nhà nước có quyết định điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn trả. Như vậy lãi suất cho vay bị giảm thấp, nhưng phần trả lãi cho những khoản tiền gửi có kỳ hạn lại không giảm tương ứng dẫn đến rủi ro lãi suất. 2.4. Rủi ro hối đoái Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì các nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị lỗ. Sự thay đổi về tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối, cụ thể: - Nếu Ngân hàng có dư dật về ngoại tệ (vị thế trường). Nếu ngoại tệ đó lên giá thì Ngân hàng sẽ có lãi khi đánh giá lại và ngược lại Ngân hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. - Nếu Ngân hàng ở vị thế đoản về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên giá, Ngân hàng sẽ bị lỗ và ngược lại Ngân hàng sẽ có lãi khi ngoại tệ đó xuống giá. SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ gây ra tổn thất cho các nhà giao dịch. Dư dật về ngoại tệ (vị thế trường) càng lớn thì rủi ro càng cao khi tỷ giá giảm. Ngược lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì rủi ro cũng không ít khi tỷ giá tăng. Trên đây là các loại rủi ro riêng có của ngân hàng và liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Rủi ro này thường là hậu quả của một hay nhiều loại rủi ro mà ngân hàng không lường trước được. Trong trường hợp này, vốn tự có của các ngân hàng không có khả năng bù đắp hết tất cả các khoản mất mát, thiệt hại, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản. Ngoài những rủi ro cơ bản nêu trên, trong hoạt động ngân hàng còn chịu những rủi ro do biến động của thiên nhiên mang lại như: thiên tai, hoả hoạn, động đất hoặc các rủi ro lừa đảo, trộm cắp, lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng… làm thiệt hại hay phá huỷ các tài sản của ngân hàng. Các rủi ro này xảy ra cũng gây mất mát, thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. 2.5. Đo lường rủi ro của Ngân hàng Muốn tồn tại và phát triển trong cạnh tranh, các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng cần phải dự đoán được rủi ro để có những biện pháp để quản lý, phòng chống rủi ro và chấp nhận rủi ro ở mức độ hợp lý. Không có công việc kinh doanh nào lại không có rủi ro, nhưng rủi ro quá giới hạn cho phép thì kinh doanh sẽ lỗ, thậm chí phá sản. Cho dù các chiến dịch kinh doanh vạch ra có cẩn thận, tỷ mỉ đến đâu cũng có thể gặp phải những thất bại. Chiến lược kinh doanh càng táo bạo, cạnh tranh càng khốc liệt thì các nhà kinh doanh càng dễ thu được lợi nhuận lớn song cũng dễ vướng phải những tổn thất nặng nề. Rủi ro trong kinh doanh là một tất yếu, nó có thể xuất hiện ở khâu này hay khâu khác dưới nhiều dạng khác nhau. Chỉ cần một sơ suất hay một quyết định thiếu kịp thời: nên đầu tư hay rút vốn ra… cũng có thể đưa đến cho ngân hàng những bất trắc, khó lường. Vì vậy, trong kinh doanh ngân hàng cần thiết SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp phải đo lường rủi ro. Việc đo lường rủi ro được thực hiện trên những phương diện sau: Một là, Xác định số thiệt hại do rủi ro gây ra: Tổng giá trị tài sản bị rủi ro = Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại do từng lần rủi ro trong kỳ. Tổng giá trị TS bị rủi ro trong kỳ Tỷ lệ % tài sản bị rủi ro = x 100% Tổng giá trị các TS có sinh lãi trong kỳ Hai là, đo lường khả năng rủi ro: Việc đo lường khả năng rủi ro ngân hàng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Đo lường giúp cho ngân hàng có thêm căn cứ xây dựng cơ cấu lãi suất phù hợp, xây dựng chiến lược quản lý các tài sản, giúp ngân hàng trung ương xây dựng hệ số rủi ro cho từng loại tài sản Có của Ngân hàng. Có như vậy ngân hàng mới có thể đứng vững được để tồn tại, phát triển và tiếp tục cạnh tranh mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng cũng như cho xã hội. Để đo lường khả năng rủi ro người ta dùng hệ số rủi ro: Tổng giá trị TS kỳ báo cáo Hệ số rủi ro = Tổng giá trị các món cho vay trong kỳ báo cáo III. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và biện pháp phòng chống rủi ro tín dụng Để đánh giá rủi ro tín dụng người ta thường sử dụng các chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn/Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi/ Nợ quá hạn Hoạt động của các ngân hàng và các doanh nghiệp không thể tránh khỏi nợ quá hạn. Về phía doanh nghiệp nếu không trả được nợ thì sẽ mất uy tín và sẽ chịu lãi suất phạt bằng 150% lãi suất nợ trong hạn. Đối với ngân hàng, nợ SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp quá hạn sẽ làm tăng chi tiêu Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ tín dụng. Chỉ tiêu này phản ánh quy mô của tài sản nợ có vấn đề. Nếu càng lớn thì chất lượng tín dụng càng thấp. Chỉ tiêu này thường được xác định trong giới hạn sau: Tỷ lệ nợ quá hạn ≤ 5%: Tốt 5% < Tỷ lệ nợ quá hạn ≤ 7%: Yếu Tỷ lệ nợ quá hạn > 7% : Kém Chỉ tiêu Nợ khó đòi/ Nợ quá hạn phán ánh mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ quá hạn của ngân hàng. Nợ quá hạn có khả năng bị tổn thất thường là những khoản nợ có thời gian quá hạn lớn (>180 ngày). Đây là chỉ tiêu thời điểm, vì vậy nó sẽ tích luỹ lại theo thời gian. Đối với ngân hàng việc duy trì chỉ tiêu này với tỷ lệ cao là không thể chấp nhận được. Ngân hàng luôn tìm cách giảm chỉ tiêu này xuống và biện pháp duy nhất là truy thu các khoản nợ. Những khoản nợ nào thực sự không thu hồi được thì hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng và lấy quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp. Chỉ tiêu này thường được đánh giá như sau: Tỷ lệ nợ khó đòi < 50%: Tốt Tỷ lệ nợ khó đòi > 50%: Xấu 1. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng luôn là vấn đề đáng quan tâm đối với các nhà quản lý ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy việc tìm ra các nguyên nhân để đưa ra các biện pháp phòng chống nó là một chiến lược đúng đắn của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra do 2 nhóm nguyên nhân sau: * Nguyên nhân khách quan - Điều kiện tự nhiên: Đây được xem là nguyên nhân bất khả kháng, chúng xảy ra ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng như: động đất, thiên tai, lũ lụt… SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp - Về cơ chế chính sách: Do sự thay đổi thường xuyên của cơ chế chính sách dẫn đến môi trường kinh doanh không ổn định làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của ngân hàng. - Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý là điều kiện quan trọng có tính chất hỗ trợ cho các ngân hàng, doanh nghiệp hoạt động. Nếu môi trường này không phù hợp, thiếu đồng bộ, chồng chéo, bất cập thì sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng. - Về phía khách hàng vay vốn: Trong hoạt động kinh doanh của mình ngân hàng phải tiếp xúc với nhiều loại khách hàng, có những khách hàng có trình độ kinh tốt và phương án kinh doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó còn có những khách hàng trình độ kinh doanh còn non kém, làm ăn thua lỗ và không có khả năng trả được nợ cho ngân hàng hoặc cũng có những khách hàng có hành vi trục lợi, cố tình sử dụng vốn sai mục đích, trì hoãn trả nợ, cố ý chiếm đoạt tài sản của ngân hàng. * Nguyên nhân chủ quan Đối với ngân hàng Nhà nước: Đôi khi vai trò quản lý của ngân hàng Nhà nước còn bộc lộ nhiều thiếu sót. Việc giám sát, kiểm tra chưa phát huy được tác dụng: quy chế hướng dẫn còn chưa đồng bộ, chậm trễ trong việc sửa đổi, bổ sung đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Đối với ngân hàng thương mại: Trình độ, năng lực của cán bộ tín dụng còn yếu, kiến thức tổng hợp còn non kém, nên việc tính toán thẩm định các dự án cho vay và người trả nợ không chính xác. Dẫn đến rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh đó có một số cán bộ ngân hàng tha hoá về phẩm chất, đạo đức đã thông đồng với khách hàng để tham ô, biển thủ tài sản của ngân hàng, gây thiệt hại tổn thất cho ngân hàng. Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, để khắc phục được những nguyên nhân này nhằm giảm thiểu các rủi ro tín dụng ta cần có những biện pháp đúng đắn, thích hợp mới có được hiệu quả. SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp 2. Các biện pháp phòng chống rủi ro tín dụng Việc tìm kiếm các biện pháp phòng chống rủi ro hoặc hạ thấp rủi ro luôn được các ngân hàng thương mại quan tâm đến. Mỗi loại rủi ro sẽ có cách phòng ngừa thích hợp. * Phân tích khách hàng Đây được xem là biện pháp tích cực nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro. Bởi có đánh giá đúng được khách hàng thì mới đánh giá đúng được khả năng trả nợ của họ. Để vay được vốn khách hàng phải cung cấp các thông tin cần thiết về mình. Bên cạnh đó, ngân hàng còn phải thu thập thêm các thông tin về khách hàng để việc đánh giá khách hàng được chính xác hơn. Khi phân tích khách hàng, ngân hàng thường đánh giá các mặt sau: - Đánh giá tình hình tài chính của khách hàng - Đánh giá tư cách, năng lực và trình độ hiểu biết của người đứng đầu doanh nghiệp - Đánh giá tính khả thi của phương án xin vay * Phân tích hoạt động tín dụng - Phân tích chất lượng và hiệu quả tín dụng - Phân tích khả năng mở rộng quy mô tín dụng - Thực hiện các đảm bảo tín dụng - Trình độ của cán bộ tín dụng * Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng nên hoạt động chủ yếu là “ đi vay để cho vay”. Trong quá trình cho vay đối với khách hàng ngân hàng không thể tránh khỏi những rủi ro, ngân hàng phải lựa chọn khách hàng cho vay, đánh giá năng lực tài chính, phân tích phương án sản xuất kinh doanh… của khách hàng. Những công việc này là rất khó khăn do đó đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải là người có trình độ chuyên SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp môn cao, am hiểu mọi vấn đề, nắm bắt tình hình tài chính, thông tin về khách hàng một cách nhanh nhạy, có khả năng tổng hợp được các thông tin liên quan đến khách hàng để lựa chọn khách hàng cho vay được chính xác. Muốn vậy, ngân hàng phải luôn quan tâm, chú trọng đến việc đào tạo nghiệp vụ, bồi dưỡng mọi mặt cho cán bộ ngân hàng trên cơ sở hiện đại hoá nghành ngân hàng trong tương lai để sớm hoà nhập với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và thế giới. * Phân tán rủi ro Trong cơ chế thị trường, ngân hàng thương mại không nên dồn vốn đầu tư vào một hoặc vài khách hàng, cho dù khách hàng đó kinh doanh có hiệu quả. Bởi vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng thương mại. Do đó, ngân hàng phải tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm hạn chế rủi ro xuống mức thấp nhất. Ngân hàng có thể áp dụng 2 cách sau: - Cho vay hợp vốn cho vay hợp vốn hay còn gọi là đồng tài trợ là quá trình cho vay, bảo lãnh của một nhóm ngân hàng (từ 2 ngân hàng trở lên) cho một dự án, do NHTM làm đầu mối phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của ngân hàng. Ngân hàng cho vay hợp vốn là để cung cấp các khoản tín dụng lớn mà ngân hàng khó có đủ khả năng cho vay, khó xác định mức độ rủi ro, mạo hiểm. Vì thế mà nhiều ngân hàng kết hợp với nhau, cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án để tiến hành cho vay. Các ngân hàng cũng ký với nhau một hợp đồng đồng tài trợ xác định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của từng thành viên. Do đó, khi có rủi ro xảy ra gánh nặng sẽ không dồn vào một ngân hàng nào, bởi các ngân hàng tham gia hợp đồng đồng tài trợ sẽ san sẻ rủi ro, hậu quả của nó được giảm nhẹ. - Bảo hiểm tín dụng: SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01 Học viện tài chính Luận văn tốt nghiệp Bảo hiểm tín dụng là biện pháp quan trọng để san sẻ rủi ro. Bảo hiểm tín dụng có thể được thực hiện dưới các loại như: + Khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho nghành, nghề mà họ kinh doanh. + Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp và sẽ được bồi thường thiệt hại nếu gặp rủi ro mất vốn tín dụng. + Bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay. * Lập quỹ dự phòng rủi ro Lập quỹ dự phòng được xem là một trong những biện pháp quan trọng để phòng chống rủi ro. Ở các nước trong hoạt động của ngân hàng đều lập quỹ dự phòng bù đắp các khoản cho vay bị rủi ro và quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Việc sử dụng các quỹ đó khi có rủi ro như sau: - Quỹ dự phòng rủi ro đặc biệt: Dùng để bù đắp các khoản cho vay khi ngân hàng làm ăn thua lỗ do các nguyên nhân khách quan mang lại. - Quỹ dự phòng tổn thất tín dụng: Dùng để bù đắp các khoản tổn thất tín dụng do khách hàng gây nên. Ngoài những biện pháp trên, ở Việt nam hiện nay các ngân hàng cũng đã chú ý đến việc khai thác các trung tâm phòng ngừa rủi ro. Các trung tâm này được thành lập với nhiệm vụ thu nhận và xử lý thông tin của các tổ chức tín dụng gửi lên về một khách hàng nào đó. Trung tâm tổng hợp các nguồn tin thu được để cung cấp cho các tổ chức tín dụng trước khi xét duyệt cho vay. Rủi ro tín dụng có ảnh hưởng lớn đến uy tín và tình hình lợi nhuận của ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn, chỉ cần một tác động nhỏ là nó có thể xảy ra và sẽ đưa đến những mất mát, thiệt hại về tài chính của ngân hàng. Thêm vào đó quá trình mở rộng SV: Bùi Đình Luyện Lớp K39 15.01
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan