LUẬN VĂN:
Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả giám sát từ xa của thanh tra Ngân
hàng nhà nước với các tổ chức tín dụng
Lời nói đầu
Trong bất kỳ một hoạt động quản lý nào, để đảm bảo cho những mục tiêu
để đạt hiệu quả tốt, nhất thiết phải tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra. Như vậy
thanh tra, kiểm tra là một trong những chức năng quản lý Nhà nước, nếu không
thanh tra, kiểm tra là không quản lý tốt, hay nói cách khác quản lý sẽ mất đi một
chức năng thiết yếu và không thể đem lại hiệu quả.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ: “ kiểm tra là một
chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, là một khâu quan trọng của tổ chức thực
hiện, đó cũng là một biện pháp khắc phục hậu quả bệnh quan liêu, mọi tổ chức từ
cơ quan của Đảng, nhà nước đến đoàn thể quần chúng, mọi lĩnh vực hoạt động, từ
kinh tế XH đến quốc phòng an ninh, đối ngoại không có ngoại lệ ,đếu phải đặt
dưới sự kiểm tra của tổ chức Đảng có thẩm quyền… Kết hợp chặt chẽ kiểm tra của
Đảng với thanh tra của nhà nước và kiểm tra của quần chúng, kiểm tra phải đi tới
kết luận rõ ràng và sử lý đúng đắn”(Trích văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI nhà xuất bản sự thật Hà Nội năm 1987 trang 137,138).
Hoạt động Ngân hàng trong cơ chế thị thường có những đặc thù riêng,
Ngân hàng là lĩnh vực kinh tế hết sức nhạy cảm, nó phụ thuộc rất lớn vào năng
suất và hiệu quả của các hoạt động kinh tế, đồng thời chính nó lại là yếu tố trực
tiếp tác động vào tăng trưởng và ổn định kinh tế…Mục tiêu của thanh tra Ngân
hàng trong nền kinh tế thị trường là: Giữ ổn định cho toàn hệ thống Ngân hàng,
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần ổn định nền tài chính tiền tệ của đất
nước.Vì vậy việc nghiên cứu chất lượng hoạt động thanh tra Ngân hàng là một vấn
đề cấp thiết, đây chính là nguyên nhân mà em chọn đề tài: “Những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giám sát từ xa của thanh tra Ngân hàng nhà nước với
các tổ chức tín dụng”.
Phần I:
Thanh tra giám sát của thanh tra ngân hàng
nhà nước với các tổ chức tín dụng
1.Sự hình thành và phát triển của thanh tra Ngân hàng Nhà nước.
Trong lịch sử phát triển loài người, Nhà nước chỉ xuất hiện gắn liền với sự
xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sản xuất hàng hoá và đấu tranh
giai cấp, Nhà nước là một bộ máy, một hệ thống chặt chẽ tác động vào mọi mặt
đời sống kinh tế XH. Tuy nhiên còn nhiều quan điểm khác nhau về vai trò kinh tế
của Nhà nước, nhưng sự phát triển của kinh tế thế giới đã chứng tỏ rằng là không
thể thuần tuý theo sự điều tiết của “bàn tay vô hình” mà phải có sự điều tiết của
Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước trong cơ chế thị trường cũng phải được nghiên cứu
một cách kỹ lưỡng và uyển chuyển, bởi lẽ kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm
nhưng cũng bộc lộ không ít khuyết tật và hạn chế nếu không được điều chỉnh sẽ
đi đến thất bại. Biện pháp để hạn chế là Nhà nước sử dụng công cụ quản lý vĩ mô,
kiểm tra kiểm soát, trong đó thanh tra là công cụ rất đắc lực và thiết yếu.Thanh tra
luôn gắn liền với Nhà nước là công cụ phục vụ cho giai cấp thống trị, lịch sử loài
người cũng đã chứng minh: Đã có phải thanh tra, công cụ kiểm tra, kiểm soát phục
vụ ý đồ thống trị của Nhà nước đó, tuy tên gọi và hình thức tổ chức có khác nhau
nhưng đều là công cụ của Nhà nước trong công tác qủan xã hội.
Lịch sử hình thành và phát triển ngành thanh tra Ngân hàng Nhà nước cho
ta thấy , mỗi thời đại hay một giai đoạn lịch sử, các quyền hạn của quan chức
thanh tra cũng khác nhau.Thời Lý( thế kỷXI) mới có các quan giám sát nghị đại
phụ, chức năng, nhiệm vụ còn hạn chế, đến thời Trần (thế kỷXIII) đã có chức quan
ngự sử dài.Một chức quan với chức năng, nhiệm vụ quyền hạn rất lớn như: Quyền
can dán Vua, quyền đàm hoạch các quan trong triều, quyền xét sử tại chỗ bọn
quan lại lộng hành ức hiếp dân…
Sau CM 8/1945 thành công Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 64/ SL
thành lập ban thanh tra đặc biệt nay là thanh tra Ngân hàng Nhà nước.
Ngày 12/5/1965 với nghị định số169/ NĐ -VP của Tổng Giám Đốc Ngân
hàng Quốc gia VN(Nay là Ngân hàng NNVN) ban thanh tra Ngân hàng NN được
thành lập ,ôngTrần Dương được cử giữ chức vụ Tổng thanh tra Ngân hàng, khi
mới thành lập số cán bộ còn ít, nhưng đều có quá trình tham gia Cách mạng sớm,
tham gia công tác Ngân hàng ngay từ những ngày đầu mới thành lập.
Từ năm 1963 đến năm 1967, do yêu cầu phát triển của tổ chức, mạng lưới
hoạt động Ngân hàng cũng như yêu cầu của các cuộc vận động lớn của Đảng và
Chính phủ, các ban thanh tra chi nhánh NHNNcác tỉnh, thành phố lần lượt được
thành lập, ở NHTW, ban thanh tra được bổ xung thêm nhiều cán bộ được điều
động từ các vụ cục, các chi nhánh NHNN địa phương, đều là những cán bộ có
trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ của ban thanh tra NHTW.
Thời kỳ triển khai mô hình tổ chức NH theo nghị định số 53/ HĐBT ngày
26/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng, do nhận thức không đúng về quản lý NNvà
kinh doanh tiền tệ, do chưa tiếp cận với cơ chế thị trường nên cho rằng việc tự
chủ kinh doanh là tự lo, tự làm, tự chịu trách nhiệm là chính, thế là công tác thanh
tra bị buông lỏng.Trong cơ cấu tổ chức của NHNN các cấp bố trí rất ít số cán bộ
làm công tác thanh tra, đúng như nhận xét của Thủ tướng Võ Văn Kiệt “đối với thị
trường tiền tệ đang hình thành, mỗi một Ngân hàng phải theo tổ chức của Nghị
định 53/HĐBT từ TW đến cơ sở đều chung chạ hai chức năng, nay Ngân hàng đã
vươn ra kinh doanh nhưng đã bị chức năng của Nhà nước kéo lại nhùng nhằng
không thể bao quát mọi nhu cầu của thị trường tiền tệ, nhiều khu vực của thị
trường bị bỏ trống, nề nếp quản lý mới chưa hình thành, chính sách tiền tệ chưa
được định hướng cho nên các hình thức tín dụng hụi mọc ra, đầu cơ tiêu cực có đất
phát triển”(Tạp chí NH số 1-2 năm 1990 trang 13)
2. Nhiệm vụ thanh tra giám sát từ xa.
a- Khái niệm.
Giám sát từ xa là phương thức thanh tra sử dụng các thông tin trên báo cáo
nhằm phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của các tổ chức tín dụng để
đề ra các biện pháp sử lý khi cần thiết (gọi là phương thức thanh tra trên
báo cáo)
b- Nội dung
Phương thức giám sát từ xa là sử dụng mạng điện toán để thực hiện phân tổ
và cho những mẫu biểu cần thiết.
- Các chỉ tiêu giám sát từ xa ở Việt Nam:
1- Vốn huy động trên thị trường I.
Vốn huy động trên thị trường II
Thị trường I > thị trường II - ổn định
2- Vốn cho vay trên thị trường I
Vốn cho vay trên thị trường II
Vốn cho vay thị trường I chiếm tỷ trọng lớn - Ngân hàng bán lẻ
Vốn cho vay thị trường II chiếm tỷ trọng lớn - Ngân hàng bán buôn
3- H = Vốn tự có (thực có)/tổng tài sản có rủi ro quy đổi 8%
4- Khoản cho vay lớn nhất đối với khách hàng/ vốn tự có (vốn điều
lệ + quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ) 15%.
5- Khoản cho vay lớn nhất đối với một khách hàng ưu đãi/ vốn tự có
5%.
6- Khoản bảo lãnh lớn nhất đối với một khách hàng /vốn tự có
15%.
7- Mua sắm tài sản cố định/vốn tự có 50%.
8- Góp vốn liên doanh mua cổ phần với các doanh nghiệp/vốn tự có
30%.
9- Nợ quá hạn/ tổng dư nợ 5%.
10- Nợ quá hạn khó đòi / tổng dư nợ 2%.
11- Nợ quá hạn khó đòi/ quỹ dự phòng bù đắp rủi ro 1.
12- Lợi nhuận sau thuế/ vốn tự có > lãi tiết kiệm.
13- Trích quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ/ lợi nhuận ròng sau thuế
5%.
14- Tài sản có động / tài sản nợ động 1
15- Sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn/ vốn ngắn hạn.
16- Tuân thủ dự trữ bắt buộc.
Như vậy các điều luật có liên quan đến giám sát từ xa phần lớn có liên quan
đến vốn điều lệ và quỹ dự trữ của các tổ chức tín dụng, đây là căn cứ pháp lý để
quan sát hoạt động các tổ chức tín dụng trong cơ chế thị trường.
Phần II:
một số vấn đề cơ bản về thanh tra giám sát
từ xacủa thanh tra ngân hàng nhà nước
với các tổ chức tín dụng.
1- Thực trạng yêu cầu của giám sát từ xa là.
Chế độ thông tin báo cáo của các tổ chức tín dụng phải gửi cho thanh tra Ngân
hàng Nhà nước kịp thời, đầy đủ, chính xác, nhưng hiện nay phần lớn các tổ
chức tín dụng chưa tiến hành việc kiểm toán, nên chưa đủ dộ tin cậy ở số liệu
báo cáo, trong thực tế nhiều Ngân hàng thương mại cổ phần báo cáo thiếu
chính xác mà vẫn phải sử dụng. Cũng vì vậy mà giữa các hoạt động giám sát từ
xa, thanh tra tại chỗ và kiểm toán không có điều kiện phối hợp trong quá trình
kiểm soát tổ chức tín dụng. Việc gửi báo cáo của các tổ chức tín dụng thường
chậm, có nhiều trường hợp chậm từ 5 đến 7 ngày so với quy định. Do số liệu
báo cáo chưa đủ độ tin cậy, nên một số chỉ tiêu nếu nhìn trên cân đối thì tốt
như: chỉ tiêu nợ quá hạn, cho vay khách hàng… nhưng số thực tế bao giờ cũng
lớn hơn số liệu báo cáo để tổ chức tín dụng lấy thành tích và được hưởng quỹ
phân phối cao hơn, để khắc phục nhược điểm này phải kết hợp chặt chẽ giữa
giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.
Đối với Ngân hàng Quốc doanh, vốn điều lệ do Ngân hàng Nhà nước thay
mặt Nhà nước tạm cấp một số vốn ban đầu quá ít ỏi. Mặt khác, việc hướng dẫn
tính toán vố tự có của Ngân hàng Nhà nước chưa cụ thể, do đó khi tiến hành
phân tích, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng trở nên không chính
xác, không còn chuẩn mực việc tổ chức tín dụng đó thực hiện ở mức nào.
Trình độ phân tích giám sát phải tốt, phải trở thành kỹ năng. Kết quả phân
tích, giám sát phụ thuộc vào trình độ của mỗi cán bộ thanh tra và thanh tra
viên, vì cùng một kết quả, tình hình có những phân tích, đánh giá khác nhau…
Việc phân tích này đã làm nhưng chưa sâu, còn hời hợt chưa phát hiện ra
những mâu thuẫn cơ bản trên số liệu hạch toán để từ đó đánh giá những vấn
đề chính trong hoạt động của tổ chức tín dụng, tính dự báo thấp, tác dụng “chỉ
điểm” cho thanh tra tại chỗ ít.Trong quá trình giám sát, nhiều nhánh giám sát
thiên về sử dụng các chỉ tiêu thống kê là chính, các phương pháp lô gích, suy
diễn sâu về nghiệp vụ để trở thành dự báo còn ít được đề cập, nên nội dung
thông tin thường lặp đi lặp lại, thiếu tính thuyết phục, dễ nhàm chán.Một số chỉ
tiêu tính toán chưa được quy chuẩn hoá hoặc hướng dẫn cụ thể nên hầu như
không có hiệu lực pháp lý.
Sự phối hợp giữa hai phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ còn
yếu, mục tiêu của công tác giám sát từ xa là dựa trên cân đối và báo cáo ngoài
cân đối của các tổ chức tín dụng để phân tích tìm ra vấn đề để “chỉ điểm” cho
thanh tra tại chỗ.Tuy có nêu vấn đề, có “ chỉ điểm”những vấn đề cần chú ý,
nhưng hầu như chưa được khai thác triệt để, sử dụng mới dừng ở việc cung cấp
số liệu cho thanh tra tại chỗ, đánh giá tình hình của TCTD khi cần thiết hoặc
khi nào tiến hành thanh tra tại chỗ mới sử dụng đến, chưa thực hiện việc cho
điểm, phân loại ,xếp hạng và công bố các chỉ tiêu tài chính để khuyến khích
các TCTD chấp hành tốt quy chế và kinh doanh có hiệu quả chương trình giám
sát tuy đã vi tính hoá công nghệ phân tích, nhưng sử dụng kết quả còn thấp.
Hệ thống kế toán đồ hiện đại đang thực hiên tại các TCTD chưa phù hợp
với thông quốc tế, nội dung chật hẹp, thiếu nhiều yếu tố, hầu như không có ai
theo dõi việc chấp hành chế độ hạch toán để có biện pháp chấn chỉnh và bổ
xung sửa đổi kịp thời, nên số liệu phân tích, giám sát không chính xác,người
làm việc phân tích rất vất vả, nhưng vẫn thiếu căn cứ.
Việc tổ chức truyền dẫn thông tin, báo cáo trong các TCTD phải qua nhiều
cầu, nấc. Nhất là hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn,địa
bàn hoạt động, để bám sát địa bàn nông thôn phụcvụ trong việc huy động vốn
và cho vay , mô hình Ngân hàng liên xã đã được thành lập, do vậy viêc tập
hợp truyền dẫn thông tin báo thường bị chậm lại.
Mặt khác, cán bộ tiếp nhậnvà sử lý thông tin, một số chưa hiểu biết về
nghiệp vụ Ngân hàng, tinh thần trách nghiệm chưa cao, nên dẫn tới thông tin
vừa chậm vừa có nhiều sai sót.
2. Thanh tra Ngân hàng Nhà nước: Những thay đổi ,và bất cập
từ pháp lệnh đến luật Ngân hàng.
a-Những thay đổi cơ bản.
Sau khi có pháp lệnh thanh tra và pháp lệnh Ngân hàng có thể coi việc xây
dựng lại hệ thống thanh tra Ngân hàng ở nước ta là bắt đầu từ việc đổi mới hệ
thống tổ chức thanh tra Ngân hàng được củng cố lại từ các chi nhánh Ngân
hàng NN tỉnh thành phố đến thanh tra Ngân hàng NNTW. Pháp lệnh đã tạo cơ
sở pháp lý mới để tiếp tục quá trình đổi mới thanh tra Ngân hàng sâu rộng và
toàn diện hơn.
Ta có thể so sánh hai thời kỳ để thấy những vấn đề khác nhau cơ bản của hệ
thống thanh tra Ngân hàng.
* Thời kỳ trước khi có pháp lệnh Ngân hàng và pháp lệnh thanh tra.
Thanh tra Ngân hàng là thanh tra bộ, là thanh tra Nhà nước tại Ngân hàng
NN. Tổ chức thanh tra Ngân hàng thời kỳ này bị thu hẹp, ở chi nhánh NHNN
các tỉnh thành phố cán bộ thanh tra chỉ có từ 3 đến 5 người sinh hoạt cùng với
phòng Kinh tế - Kế hoạch, ở TW số cán bộ thanh tra có khoảng 10 người sinh
hoạt chung với vụ Kinh tế - Kế họach.Thời kỳ này hầu như không kiểm soát
các hoạt động kinh doanh của các TCTD. Hàng năm thường tổ chức một số
cuộc kiểm tra việc chấp hành chế độ thu, chi tiền mặt với Ngân hàng cấp dưới,
công việc chủ yếu của thời kỳ này là: Xét và giải quyết các đơn thư khiếu nại
tố cáo trong hệ thống Ngân hàng.
- Về quyền hạn: Được kết luận, kiến nghị về những vấn đề mình thanh tra
kiểm tra, chưa quy định quyền sử lý “Hệ thống thanh tra, kiểm soát hoạt động
thụ động, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới”. Phải nói
rằng cho đến năm 1990, ngành Ngân hàng và quyền tự chủ của các đơn vị , còn
lúng túng trong việc sử lý những vấn đề mới phát sinh, buông lỏng vai trò kiểm
soát đối với các đơn vị cũng như CBCNV Ngân hàng, vì thế ngành Ngân hàng
chưa phát huy đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình trong phát triển kinh tế.
* Thời kỳ sau khi có pháp lệnh Ngân hàng và pháp lệnh thanh tra.
Thanh tra Ngân hàng NN là tổ chức thanh tra chuyên trách của NHNN
trong hệ thống thanh tra NN, thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý
của Ngân hàng NN, quản lý công tác kiểm tra đối với các cơ quan, thuộc Ngân
hàng NN, chịu sự chỉ đạo của thanh tra NN về công tác tổ chức và nghiệp vụ
thanh tra.
Vận dụng các chỉ tiêu giám sát từ xa đang thực hiện ở Việt Nam,
theo báo cáo cân đối quý III/2003 của Ngân hàng CT Tỉnh Nam Định, có thể
tính được các chỉ tiêu sau đây:(Đơn vị ngàn đồng)
Nợ quá hạn/ tổng dư nợ = 3.707.784/122.591.420 = 0,3%
- Nhận xét: Tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ thấp, thể hiện chất lượng
TD tốt, chi nhánh cần duy trì và phát huy kết quả này.
2- Nợ quá hạn khó đòi/ tổng dư nợ =1.072/122591420 = 0,0001% <1
- Nhận xét: Nợ quá hạn khó đòi so với tổng dư nợ của chi nhánh tỷ lệ
chiếm 0,0001% số nợ này phát sinh không đáng kể, số tổn thất nhỏ.
3- Tài sản có động/ tài sản nợ động = 646.124/22.213.134 = 0,02 <1
- Nhận xét: Không đảm bảo khả năng chi trả khách hàng khi khách
hàng đến lĩnh tiền, giảm lòng tin đối với khách hàng, viêc huy động vốn gặp
nhiều khó khăn, chi nhánh cần nâng tài sản có nên bằng 1 để đảm bảo mọi
khoản thanh toán.
4- Sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn/ vốn ngắn hạn
=132.861.932/74.064.938 =17% <25%
Ngân hàng thực hiện tốt việc sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài
hạn.
b. Những bất cập.
Cho đến nay NHNN vẫn chưa ban hành các quy chế, quy định cụ thể,
quy định nghiệp vụ thống nhất trong công tác thanh tra thuộc lĩnh vực Ngân
hàng, nhằm thống nhất các chuẩn mực trong các hoạt động nghiệp vụ của
thanh tra Ngân hàng, cho nên công tác thanh tra hiện nay, thanh tra Ngân
hàng thường bám theo các mẫu biểu quy định, thủ tục hướng dẫn của thanh
tra Nhà nước. Song do hoạt động Ngân hàng có những đặc thù riêng, nên
trong một số trường hợp vận dụng không thật phù hợp với nghiệp vụ Ngân
hàng.
- Về vấn đề tổ chức bộ máy: Thanh tra NHNN là tổ chức thanh tra Nhà
nước chuyên nghành, ở thanh tra NHTW, dưới sự lãnh đạo của Thống đốc,
ở địa phương trực thuộc giám đốc NHNN. Để dảm bảo tính độc lập tương
đối về hoạt động thanh tra, nên để thanh tra các chi nhánh NHNN tỉnh,
thành phố chỉ sinh hoạt công đoàn và sinh hoạt Đảng tại chi nhánh, còn lại
tiền lương, đề bạt do thanh tra NHTW quản lý, nếu để thanh tra chi nhánh
trực thuộc giám đốc ở đó, tính độc lập trong hoạt động thanh tra bị hạn chế,
quyền năng không rõ ràng, rất khó sử lý những vấn đề phát sinh trong quá
trình thanh tra khi các TCTD vi phạm tư tưởng bao biện thương xảy ra.
PHần III
một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
thanh tra của thanh tra ngân hàng nhà nước.
1- Đào tạo cán bộ thanh tra và thanh tra viên.
Làm thanh tra là một nghề, nhưng nghề thanh tra được tiến hành trên tất cả
các lĩnh vực, mỗi cuộc thanh tra có mục tiêu, nội dung và yêu cầu khác nhau,
phương pháp, cách thức tiến hành cũng khác nhau, nhiều ý kiến cho rằng:” Đi
thanh tra phải hơn người ta cái đầu”, đòi hỏi cán bộ thanh tra phải hiểu biết hơn
đối tượng thanh tra mới chỉ ra được cái đúng, sai cho đối tượng thanh tra một vấn
đề gì? thuộc lĩnh vực nào, đòi hỏi cán bộ thanh tra phải hiểu biết vấn đề đó, lĩnh
vực đó.
Thưc trạng đội ngũ cán bộ thanh tra hiện nay còn rất nhiều vấn đề chưa đáp ứng
được yêu cầu của tình hình đổi mới. Việc bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ cho
cán bộ thanh tra là hai vấn đề có liên quan với nhau, nhưng không đồng nhất với
nhau, nhưng một số kiến thức có liên quan thường lặp đi lặp lại trong hầu hết các
cuộc thanh tra, như kiến thức về kinh tế, pháp luật, tâm lý tin học, những kiến
thức về các lĩnh vực này, nếu cán bộ thanh tra không có sự hiểu biết nhất định thì
qúa trình thanh tra rất khó khăn thậm chí nhiều lúc còn gây ra phiền toái, làm giảm
kết quả giá trị thanh tra, những kiến thức trên bắt buộc cán bộ thanh tra phải nắm
bắt được trong các cuộc thanh tra và cũng là cơ sở cho việc vận dụng nghiệp vụ
trong quá trình thanh tra. Vì vậy nội dung nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ thanh tra bao gồm cả hai phần: Kiến thức cơ sở và kiến thức chuyên môn.
2- Kết hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa với thanh tra tại chỗ.
Giám sát từ xa có ưu điểm nổi bật là: Ngồi tại chỗ trong thời gian ngắn,
thanh tra Ngân hàng NN có thể kiểm tra được tất cả các TCTD do mình quản lý,
tiết kiệm được chi phí và lao động, song nó có một nhược điểm, nên phải kết hợp
chặt chẽ giữa giám sát từ xa với thanh tra tại chỗ, sự phối hợp này còn yếu, mục
tiêu của giám sát từ xa là phân tích, tìm ra vấn đề để “ chỉ điểm” cho thanh tra tại
chỗ. Tuy có nêu vấn đề, có “chỉ điểm” nhưng hầu như chưa được khai thác sử
dụng, mới dừng lại ở việc cung cấp số liệu cho thanh tra tại chỗ, đánh giá hoạt
động của TCTD khi cần thiết hoặc khi nào tiến hành thanh tra tại chỗ mới sử dụng
đến, chỉ để phân tích nắm tình mà thôi.
Giám sát từ xa là phải dựa trên kết quả phân tích một cách sâu sắc tình hình
tài chínhcủa TCTD thông qua số liệu của báo cân đối kế toán và các chỉ tiêu thống
kê hàng tháng do các TCTD gửi đến theo quy định trong thông tin báo cáo kế toán
và thống kê của NHNN, việc phân tích hiện nay đã làm nhưng chưa sâu, còn hời
hợt, không phát hiện ra những mâu thuẫn cơ bản trên số liệu hạch toán để từ đó
đánh giá được những vấn đề chính trong hoạt động của các TCTD, tính dự báo
thấp, tác động “chỉ điểm” cho thanh tra tại chỗ còn ít.Trình độ cán bộ thanh tra và
thanh tra viên trong thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa chưa đáp ứng được yêu cầu
kinh nghiệm còn ít, nên làm chưa sâu trong kiểm tra và phát hiện, chất lượng và
hiệu quả thấp, trong phân tích giám sát thiên về sử dụng chỉ tiêu thống kê là
chính, các phương pháp lô gích, suy diễn sâu về nghiệp vụ để trở thành dự báo còn
ít được đề cập , nên nội dung thông tin còn lặp đi lặp lại, thiếu tính thuyết phục.
3- Vấn đề sử lý trong vi phạm của TCTD.
Việc tổ chức theo dõi kết quả thực hiện kiến nghị của thanh tra chưa được
chú trọng đúng mức, nếu các đơn vị thanh tra làm tốt việc tiếp thu và chấn chỉnh
kịp thời những vi phạm theo kiến nghị của thanh tra đó, vừa thể hiện tính nghiêm
túc của đối tượng thanh tra, vừa chứng tỏ đúng đắn của các kết luận và kiến nghị
của thanh tra và đồng thời cũng chính là các yếu tố quyết định đến hiệu lực thanh
tra. Vấn đề này cần được khai thác kịp thời, nghiêm túc và phải trở thành các quy
chế của thanh tra Ngân hàng. Thời gian qua một số TCTD vi phạm về giới hạn cho
vay, không chấp hành đúng quy định tín dụng, bảo lãnh vốn vay Ngân hàng, bảo
lãnh mở L/C trả chậm… Kinh nghiệm cho thấy những đơn vị khi phát hiện vai
phạm được sử lý kịp thời nghiêm túc, mang tính giáo dục cao, nội bộ đoàn kết,
không có đơn thư tố cáo , nặc danh hay vượt cấp, những vi phạm thường ít lặp lại.
Việc sử phạt không phải là mục tiêu của thanh tra ,nhất là đối với thanh tra
Ngân hàng với mục tiêu là: Giữ cho các TCTD ổn định bảo vệ quyền lợi cho
người gửi tiền Ngân hàng. Song nhất thiết phải có thái độ rõ ràng với cái đúng cái
sai. Đối với cái sai phải được phát hiện, ngăn chặn và sử lý kịp thời, có như vậy
các TCTD mới triển khai thực hiện việc nghiêm túc các quy chế và dần đưa công
tác vaò quản lý nề nếp.
4- Chấn chỉnh việc báo cáo và thông tin báo của các TCTD
gửi thanh tra NHNN.
Điều kiện để thực hiện giám sát từ xa tốt là phải có thông tin đầu vào chính
xác kịp thời, có như vậy mới đánh giá đúng đối tượng thanh tra. Việc chấn chỉnh
các TCTD trong việc cung cấp số liệu và báo cáo về thanh tra NHNN là hết sức
cần thiết, trước hết thanh tra NHNN các cấp mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho
những cán bộ của các TCTD được phân công làm các báo cáo và số liệu phục vụ
cho cho công tác giám sát từ xa của thanh tra NHNN, số cán bộ này tuy đã được
đào tạo, nhưng không ổn định, một số có sự thuyên chuyển, số cán bộ mới bổ
xung không nắm vững được. Đi đôi với việc tập huấn nghiệp vụ thanh tra, NHNN
phải mở sổ theo dõi việc gửi báo cáo của các TCTD để động viên kịp thời những
TCTD chấp hành tốt cả về thời gian và chất lượng báo cáo, những tổ chức vi phạm
phải được nhắc nhở, nếu vi phạm nhiều lần phải có hình thức xử lý thích đáng.
Với vai trò quản lý NN, NHNN( thanh tra NHTW) cần có văn bản quy
định có tính chất bắt buộc các TCTD hàng năm phải được kiểm toán và coi đây là
một trong những tiêu chuẩn để xếp loại các TCTD >Trong nền kinh thị trường,
kiểm toán là một công cụ quản lý không thể thiếu được. Kiểm toán không chỉ xác
định nợ đúng đắn của báo cáo tài chính, nó như một hệ thống phòng ngừa của
thanh tra NHNN, là căn cứ để đưa ra quyết định đầu tư. Thông qua kiểm toán có
thể khẳng định được hoạt động của kiểm toán nội bộ , hiệu quả thanh tra tại chỗ sẽ
tốt hơn đối với những doanh nghiệp yếu kém dựa trên những số liệu của kiểm
toán, thanh tra NHNN sẽ giảm bớt được thời gian thanh tra .
Kết luận
Ngân hàng là một sản phẩm tất yếu của kinh tế thị trường, nó xuất hiện rất
sớm trong lịch sử nhân loại, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, trong thời kỳ trung
cổ đại, hiện đại trong cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế phát triển đa dạng,
phong phú và tự do kinh doanh theo khuôn khổ của pháp luật. Cơ chế thị trường
có nhiều ưu điểm, song mặt trái của nó cũng rất nhiều, bất kỳ một NN cũng phải
có các công cụ và phải áp dụng những biện pháp thích hợp để hạn chế những tiêu
cực do chính cơ chế thị trường taọ ra.
Một trong những công cụ thiết yếu đó là thanh tra, lĩnh vực NH là lĩnh vực
hết sức nhạy cảm, nó phản ánh và phụ thuộc rất lớn vào năng xuất và hiệu quả của
các hoạt động kinh tế, động thời chính nó lại là yếu tố trực tiếp tác động vào tăng
trưởng và ổn định kinh tế. Thanh tra luôn gắn với NN, là công cụ phục vụ cho giai
cấp thống trị, lịch sử loài người cũng đã chứng minh: Đã có NN phải có thanh tra,
công cụ kiểm tra, kiểm soát phục vụ ý đồ thống trị của NN đó, tuy nhiên tên gọi và
tổ chức có khác nhau, nhưng đều công cụ của NN trong quản lý kinh tế và xã hội.
ở nước ta thanh tra Ngân hàng là bộ máy thuộc cơ cấu của NHTW, trực
thuộc thống đốc NHNN, mô hình này vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù
hợp với hoàn cảnh nước ta.
Mục tiêu của thanh tra Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là: Giữ ổn
định cho toàn hệ thống Ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần
ổn định nền tài chính tiền tệ của đất nước và giữ vững tính pháp lý trong hoạt động
Ngân hàng, khi điều kiện nền kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Từ khi triển khai thực hiện các pháp lệnh Ngân hàng và pháp lệnh thanh tra
(từ năm 1990 đến nay) hệ thống thanh tra NH ở nước ta bước vào một thời kỳ đổi
mới toàn diện từ thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh , thành phố đến thanh tra Ngân
hàng NNTW, pháp lệnh đã tạo cơ sở pháp lý mới để tiếp tục quá trình đổi mới
công tác thanh tra NHNN sâu rộng hơn.
Trong những năm qua, thanh tra Ngân hàng đã dựa vào hai phương thức
hoạt động: Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ có các bộ phận được phân công để
triển khai các phương thức đó. Thông qua giám sát và thanh tra tại chỗ đã giúp cho
các nhà làm công tác quản lý vĩ mô của NHNN nắm một cách thường xuyên tình
hình nhằm báo động cho các nhà lãnh đạo các TCTD những vấn đề cần thiết hoặc
kiến nghị biện pháp khắc phục kịp thời , chỉ cho thanh tra tại chỗ những vấn đề
trọng tâm trọng điểm.
Trong thanh tra tại chỗ, dựa trên các chứng từ và các căn cứ khác từ đó phát
hiện những hành vi, vi phạm pháp luật, quy chế giúp các TCTD uốn nắn ngay
những xai sót không lớn, kiến nghị biện pháp khắc phục kịp thời, những vi phạm
lớn, có biện pháp cần thiết sử lý những vi phạm nghiêm trọng có liên quan khẳ
năng rủi ro và thất thoát vốn lớn của các TCTD. Về công tác cán bộ, với nhận thức
cán bộ là yếu tố quyết định trong mọi hoạt động nhất là trong công tác thanh tra,
trong những năm qua, vấn đề đào tạo và bồi dưỡng trình độ, vấn đề giáo dục phẩm
chất đã được cán bộ lãnh đạo NHNN rất quan tâm, các cấp Ngân hàng đã tăng
cường những cán bộ có thâm niên công tác trong nghành, có trình độ chuyên môn
và phẩm chất sang làm công tác thanh tra, việc bố trí cán bộ cũng mang tính đan
xen, kế thừa để tạo điều kiện bổ xung kinh nghiệm và kiến thức cho nhau.
Những cán bộ làm công tác thanh tra đều được phổ cập những kiến thức cơ
bản về công tác thanh tra, một số được trang bị kiến thức pháp luật, quản lý NN,
ngoại ngữ vi tính để có điều kiện tiếp thu kiến thức, kỹ thuật, công nghệ mới, sử
dụng chúng trong công tác kiểm tra, thanh tra, quyền lợi và chế độ cho các cán
bộ làm công tác thanh tra của ngành Ngân hàng đã đươc giải quyết theo quy định
của NN. Sống trong điều kiện còn nhiều thiếu thốn, nhất là thu nhập của cán bộ
NHNN rất khiêm tốn, vì vậy việc giữ gìn phẩm chất để không bị xa ngã, bị lợi
dụng là vấn đề cần phải thường xuyên rèn luyện đấu tranh với bản thân.
Trên đây là những thuận lợi rất cơ bản để hệ thống thanh tra NHNN vươn
lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng , của
NN và của ngành NH.
Tài liệu tham khảo
- Một số vấn đề nghiệp vụ thanh tra năm 1995 của thanh tra NHNN tập I.
- Tạp chí thông tin khoa học Ngân hàng số chuyên đề.
- Nghiệp vụ công tác thanh tra của từng cán bộ thanh tra NN- Xuất bản năm
1996.
-
Một số vấn đề về nghiệp vụ thanh tra tập I - Thanh tra NN năm 1995.
Mục lục
Lời nói đầu: ……………………………………………………………………1
Phần I: Thanh tra, giám sát từ xa của thanh tra Ngân hàng Nhà nước với các
tổ chức tín dụng ………………………………………………………2
1- Sự hình thành và pháp triển của thanh tra Ngân hàng Nhà nước ….. 3
2- Nghiệp vụ thanh tra, giám sát từ xa ………………………………3
a- Khái niệm …………………………………………………………. 3
b- Nội dung ………………………………………………….………3
Phần II: Một số vấn đề cơ bản về thanh tra, giám sát từ xa của thanh tra Ngân hàng
Nhà nước với các tổ chức tín dụng ở Việt Nam ……………………….. 5
1- Thực trạng công tác thanh tra, giám sát từ xa các tổ chức tín dụng hiện
nay …………………………………………………………………. 5
2- Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, những thay đổi và bất cập từ pháp lệnh
đến luật Ngân hàng ………………………………………………. 7
a- Những thay đổi cơ bản ………………………………………………7
b- Những bất cập ………………………………………………………. 9
Phần III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát từ xa củ thanh tra
Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng ………………………... 10
1- Đào tạo bồi dưỡng cán bộ …………………………………………….10
2- Kết hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa với thanh tra tại chỗ ………… 11
3- Vấn đề sử lý sai phạm của các tổ chức tín dụng ………………… 11
4- Chấn chỉnh chế độ thông tin báo cáo của các tổ chức tín dụng ……12
Kết luận: …………………………………………………………………… 14
- Xem thêm -