2.
LỜI NÓI ĐẦU
AFTA dù ít, nhiều mang ý nghĩa quan trọng đối với tương lai kinh
tế Việt Nam. Thách thức của AFTA yêu cầu phải nâng cao tính năng
động và hiệu quả của cả nền kinh tế, con đường tham gia AFTA đòi
hỏi tiêu chuẩn hiệu quả phải đưa lên hàng đầu trong các lĩnh vực quản
lý, hoạch định chính sách của Nhà nuớc, trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của chính các doanh nghiệp, buộc Việt Nam phải có nỗ
lực lớn về cải cách kinh tế và hành chính, cải cách doanh nghiệp Nhà
nước theo hướng hiệu suất hoá.
Cho dù còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được làm sáng tỏ, AFTA
đã thể hiện một bước chuyển đổi chiến lược đúng đắn của sự hợp tác
kinh tế ASEAN. AFTA là cơ sở để xây dựng khu vực mở và là một
đóng góp quan trọng vào tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu.
Bản thân AFTA là bước mở đầu để đưa Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á đi từ liên minh thương mại đến các liên minh về thuế quan,
liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế.
Để đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA, các doanh nghiệp
trong nước cần căn cứ theo hướng phát triển trong tình hình mới để có
những quyết định kịp thời và phù hợp. Doanh nghiệp cần xem xét,
đánh giá cụ thể các yếu tố liên quan đến sản xuất, tiêu thụ của từng
mặt hàng trong tương quan các mặt hàng cùng loại từ ASEAN. Qua
đó, doanh nghiệp có thể tìm ra các sản phẩm mới, hay phát triển các
sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu, tìm ra thị trường mới cho sản phẩm
của mình, các giải pháp để có thể làm chủ được thị trường nội địa và
sau đó phải tìm kiếm khả năng xuất khẩu, định hướng về các sản
phẩm chủ lực, thị trường trọng điểm để có phương án sản xuất-kinh
doanh đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu sang ASEAN hoặc ngoài
ASEAN. Hơn nữa, các doanh nghiệp sản xuất trong nước cần đánh
giá các chọn lựa và đưa ra các giải pháp cụ thể trước mắt và giải pháp
lâu dài. Xuất phát từ những quan điểm trên, em đã chọn nội dung của
khoá luận tốt nghiệp và đề cập những giải pháp nhằm đẩy nhanh
việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA.
1.
2.
CHƯƠNG I :
TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
(AFTA)
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC
1.Khái niệm:
Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế giữa hai hoặc
nhiều nước nhằm mục đích tự do hoa hoá việc buôn bán về một hoặc
một số nhóm mặt hàng nào đó. Biện pháp sử dụng là bãi miễn các
công cụ thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên song
các nước thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập với
các nước ngoài liên minh.
2.Cấp độ liên kết:
Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế ở cấp độ thấp
nhất trong các hình thức liên kết quốc tế
3.Tác động của khu vực mậu dịch tự do
Khu vực này thiết lập nên một mối quan hệ mậu dịch giữa các
nước thành viên,mở rộng quan hệ xuất khẩu với nhau và tiến tới mở
rộng ra ngoài khối, điều này cho thấy nó tác động tích cực đến buôn
bán quốc tế nói chung.Việc di chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có
hiệu quả cao hơn ,người sản xuất và người tiêu dùng đều có lợi
I.
II. TỔNG QUAN VỀ AFTA:
1. Sự hình thành và phát triển của AFTA:
Tuyên bố thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được
đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore ngày
28 tháng 1 năm 1992 với thời hạn dự định thực hiện 15 năm, bắt đầu
từ ngày 1 tháng 1 năm 1993 và hoàn thành vào năm 2008. “Tuyên bố
chung Singapore - 1992” mở ra một thời kỳ mới trong hợp tác
ASEAN nhằm tạo cơ hội ổn định và phát triển khu vực. Trên cơ sở
đó, hội nghị đã quyết định thành lập “Khu vực mậu dịch tự do
1.
2.
ASEAN” (AFTA). Lúc đầu, chương trình AFTA dự định thực hiện
trong vòng 15 năm kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1993. là phải bắt đầu từ
ngày 1 tháng 1 năm 1998 Nhưng do yêu cầu đẩy nhanh tốc độ phát
triển, đầu tháng 7 năm 1994, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế lần thứ 26
tháng 9 năm 1994 tại Chiềng Mai quyết định rút thời hạn xuống 10
năm, tức là hoàn thành vào năm 2003. Việt Nam là hội viên mới,
được thực hiện chậm 5 năm, tức.
Khối ASEAN không phải là một khối có sức mạnh kinh tế lớn so
với các khối khác như NAFTA (700 tỉ USD); EU (600 tỉ USD); Nhật
(3.500 tỉ USD); AFTA (400 tỉ USD) tuy nhiên, được đánh giá là khối
phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng bình quân 5 năm qua là 7,5%
so với 3% của toàn thế giới. Tỉ trọng thương mại của ASEAN cao
hơn nhiều so với các khu vực khác, xuất khẩu trên 50% tổng sảm
phẩm quốc dân, đặc biệt Singapore là 139% (* số liệu 1994).
AFTA ra đời là phù hợp với quy luật vận động nội tại của các nền
kinh tế ASEAN trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá. Song với
tư cách là một tổ chức hợp tác kinh tế có thể chế, AFTA dường như là
một dạng của "mô hình phát triển rút ngắn" của kiên kết kinh tế khu
vực và trên thực tế, nó không có được những điều kiện chuẩn bị chín
muồi về các bước liên kết khu vực giống như EU, NAFTA. Do đó,
AFTA hình thành trước tiên chỉ như là một hiệp định khung, có phần
hơi đơn giản; còn các nội dung và lịch trình của hiệp định lại chỉ được
soạn thảo, sửa đổi và bổ sung đồng thời với tiến trình tổ chức và thực
hiện chúng.
Nền kinh tế của các nước Đông Nam Á đang chuyển động theo
những thay đổi lớn trên thị trường tài chính và hàng hoá thế giới, trên
khung cảnh hợp tác khu vực, trước hết là khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, với sự hoạt động hết sức sôi động của các công ty đa quốc
gia. Sự di chuyển ồ ạt các dòng vốn đầu tư, công nghệ và tri thức kinh
doanh kéo theo sự biến động trong lợi thế so sánh của nhiều nước. Thị
trường khu vực ngày càng phát triển và thể chế hợp tác khu vực ngày
càng được định hình đã làm thay đổi nhanh chóng vị trí và chiến lược
phát triển của từng nước.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế đã diễn ra trong những năm giữa thập
kỷ 80, tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN từ năm 1981 đến 1994
là 5,4% (* thống kê của Ban thư ký ASEAN) gần gấp hai lần tốc độ
1.
2.
tăng trưởng trung bình của thế giới. Với tốc độ phát triển kinh tế như
vậy cùng với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế chính trị - khoa học - xã hội ngay từ khi mới thành lập, lẽ ra hợp tác
kinh tế của ASEAN đã rất phát triển nhưng trên thực tế thành tựu lớn
nhất mà ASEAN đạt được trong suốt 25 năm tồn tại đầu tiên là hợp
tác trong lĩnh vực chính trị quốc tế và an ninh nội bộ của các nước
thành viên. Mặc dù nhấn mạnh vào hợp tác kinh tế, nhưng do nhiều
nguyên nhân khác nhau, cho tới năm 1992, việc hợp tác này vẫn tiến
triển rất chậm chạp.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng trở
lại với Kế hoạch Hợp tác kinh tế mà lĩnh vực đầu tiên là cung ứng và
sản xuất các hàng hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả
thuận thương mại ưu đãi và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có
rất nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN, nhưng kết
quả của những nỗ lực đó không đạt được những mục tiêu mong đợi.
Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên của ASEAN ký kết một
Hiệp định về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - AFTA thì hợp tác
kinh tế các nước ASEAN mới thực sự được đưa lên một tầm mức
mới.
Trước khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều
kế hoạch hợp tác kinh tế khác nhau. Đó là:
- Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)
- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP)
- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ
trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên là những nỗ lực không nhỏ của
ASEAN tuy nhiên tác động của nó đến thương mại nội bộ ASEAN rất
nhỏ và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. Có nhiều
lý do khác nhau dẫn đến sự không thành công này. Đó là việc vạch kế
hoạch kém, vội vã liên kết mà không có các bước nghiên cứu khả thi
kỹ càng, quản lý thiếu hiệu quả, trong nhiều trường hợp, việc quyết
định đầu tư vào ngành công nghiệp nào lại do các Chính phủ chứ
không phải thị trường quyết định tức là còn dựa nhiều vào những ý
1.
2.
tưởng chủ quan mà thiếu đi sự gắn kết với thực tiễn. Hợp tác kinh tế
ASEAN cũng bị ảnh hưởng một phần vì cơ cấu tổ chức với một Ban
thư ký có quá ít quyền hạn độc lập, không đủ khả năng để thực hiện
vai trò cơ bản trong việc đẩy nhanh và tăng cường hợp tác kinh tế khu
vực. Nếu như nguyên tắc nhất trí của ASEAN đã thúc đẩy việc thống
nhất và ổn định thì chính nó cũng làm cho các bước đi hợp tác kinh tế
vị chậm lại hoặc bị điều chỉnh chỉ bởi một nước thành viên thận trọng
nào đó.
Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh
hướng tiến đến hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực tư nhân đã
được chú trọng hơn,
quy luật thị trường dần dần được tuân thủ, các thủ tục liên quan được
đơn giản hoá và một số trường hợp các thủ tục rườm rà đã được loại
bỏ, mức ưu đãi (MOP) được tăng cường. Tuy không đạt được kết quả
mong đợi nhưng các kế hoạch hợp tác kinh tế này thực sự là những
bài học quý báu cho việc hợp tác kinh tế giữa các nước đang phát
triển. AFTA đã ra đời trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm từ những kế
hoạch hợp tác kinh tế trước AFTA. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN
họp tại Singapore năm 1992 đã quyết định thành lập một Khu mậu
dịch Tự do ASEAN (AFTA) theo sáng kiến của Thái lan.
AFTA thực sự là một bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN, là
kết quả tất yếu của những chuyển động về hợp tác kinh tế ASEAN
được tính kể từ năm 1976 - năm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần thứ nhất tại Bali (Indonesia) và là bước đánh dấu sự chú
trọng trở lại với các kế hoạch phát triển kinh tế mà các lĩnh vực ưu
tiên chủ yếu là sản xuất và cung ứng các hàng hoá cơ bản, phát triển
các xí nghiệp công nghiệp lớn, thực hiện các thoả thuận thương mại
ưu đãi và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nói tóm lại, AFTA ra đời là kết quả phức hợp giữa sự tác động của
các nhân tố bên trong và bên ngoài mà ta có thể xem xét khái quát
như sau:
Về nhân tố bên trong, có thể thấy rằng công nghiệp hoá trong 2
thập kỷ qua đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán qua lại giữa
các nền kinh tế ASEAN. Người ta tính rằng vào đầu những năm 90,
phần xuất khẩu nội bộ ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
1.
2.
nhóm nước này đã đạt tới khoảng 20% (* số liệu thống kê trên
http://www.asean.com) và điều đó chứng tỏ khuynh hướng liên kết
thương mại khu vực đã ngày càng trở nên mạnh mẽ. Các nền kinh tế
ASEAN đã mang đặc tính hướng ngoại dựa vào xuất khẩu và hơn bao
giờ hết nhu cầu bức thiết trong việc tìm kiếm và liên kết thị trường,
trước hết là các thị trường láng giềng kề cận lại trở nên quan trọng
như vậy. Điều này càng được thúc đẩy nhanh hơn nhờ sự tác động
tích cực của tăng trưởng kinh tế khu vực đối với các chiến lược phi
điều chỉnh và các biện pháp tự do hoá thương mại và theo đó, các
nước này dễ dàng đi đến những mặc nhiên thừa nhận AFTA. Chính
phủ của từng nước ASEAN cũng đã thấy rõ trở ngại của chủ nghĩa
bảo hộ mậu dịch trong chiến lược phát triển, đã đi đến nhất trí cởi bỏ
nó bằng việc theo đuổi các chiến lược tự do hoá theo hướng xuất
khẩu. Do đó, về thực chất, chính sự chuyển đổi trong chiến lược phát
triển và tình hình kinh tế của các nước ASEAN đã khiến cho đề xuất
về một khu vực mậu dịch tự do ASEAN mang tính khả thi.
Về các nhân tố bên ngoài, vào đầu những năm 90, môi trường chính
trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã có những thay đổi quan trọng do
chiến tranh lạnh đã kết thúc. Ở kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh, vị trí
của ASEAN trong chiến lược khu vực và quốc tế của các cường quốc
đã bị hạ thấp. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga sẽ giảm
bớt cam kết an ninh và giúp đỡ về kinh tế cho ASEAN. Chính sách
mới của các cường quốc và những biến đổi theo hướng tích cực trên
bán đảo Đông Dương đưa lại cho ASEAN những cơ hội và thách thức
mới. Ở thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, kinh tế các nước ASEAN đứng
trước những thách thức lớn khiến cho các nước ASEAN không dễ
vượt qua nếu không có sự cố gắng chung của toàn Hiệp hội. Đó là sự
xuất hiện những tổ chức hợp tác khu vực như EU, NAFTA có nguy
cơ trở thành các khối thương mại khép kín, sẽ làm cho hàng hoá
ASEAN vấp phải những trở ngại hơn nữa khi thâm nhập vào các thị
trường trên.
Mặc dù trong gần một thập niên qua, kinh tế ASEAN đã tăng
trưởng với nhịp độ cao nhưng nền kinh tế các nước này vẫn phụ thuộc
nặng nề vào nguồn vốn từ bên ngoài. Vị thế và triển vọng tăng trưởng
của các nền kinh tế này sẽ không được củng cố và thúc đẩy nếu như
toàn hiệp hội không tạo dựng được sự nỗ lực chung. Đây là nhân tố
có ý nghĩa quyết định đối với sự cấp thiết thành lập khu vực mậu dịch
1.
2.
tự do ASEAN. Trong đó, việc liên kết thị trường khu vực như một
trung tâm sản xuất và thương mại quốc tế là điều kiện căn bản để cải
thiện thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài - một nhân tố được coi là động lực tăng
trưởng và tạo ra sự năng động của châu Á trong những năm gần đây.
Việc thành lập AFTA sẽ mở ra một thị trường tự do rộng lớn và dồi
dào tiềm năng ở khu vực Đông Nam Á. Tham gia AFTA, các nước
ASEAN sẽ liên kết với nhau để phát triển kinh tế chặt chẽ hơn và rút
ngắn khoảng cách về sự phát triển giữa các quốc gia thành viên, nâng
cao vai trò của ASEAN trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định ASEAN sẽ thành công
trong việc tạo lập AFTA. Thứ nhất, từ giữa những năm 80, các thành
viên ASEAN đã lần lượt thực hiện phi tập trung hoá và tự do hoá nền
kinh tế của mình, đã cải thiện đáng kể (mặc dù chưa đồng bộ) về môi
trường đầu tư và thương mại và trên cơ sở này, AFTA sẽ đặt từng
quốc gia thành viên ASEAN trước những nhu cầu bức thiết phải tiến
hành cải cách nền kinh tế quốc gia nhằm thích ứng với các yêu cầu
chung của khu vực. AFTA sẽ góp phần đáng kể vào việc cải thiện
hiệu quả sản xuất cho mọi quốc gia thành viên với chi phí ít hơn, hay
nói đúng hơn, AFTA sẽ hỗ trợ cho các nền kinh tế này trở thành các
nền kinh tế có hiệu suất thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa điều
chỉnh cơ cấu kinh tế khu vực với cơ cấu kinh tế nội địa của từng
nước. Thứ hai, tạo ra AFTA, về thực chất, ASEAN sẽ thực hiện một
cam kết chính trị đầy đủ, nghĩa là các Chính phủ ASEAN không chỉ
thể hiện những nỗ lực của mình ở trong nước mà thông qua AFTA, họ
còn muốn có sự điều hoà, giải quyết các khó khăn riêng cho từng
quốc gia thành viên. Thứ ba, các nước ASEAN đã có những bài học
kinh nghiệm trong việc thực hiện Hiệp định thương mại ưu đãi
ASEAN (PTA) không mấy thành công từ cuối những năm 70. Do
vậy, có thể nói rằng AFTA là thành tựu và là nấc thang mới trong
chiến lược hợp tác kinh tế ASEAN hiện nay. AFTA giúp các nhà sản
xuất giảm chi phí đầu vào khi các thị trường ASEAN mở cửa. Mặt
khác, các nhà sản xuất hàng hoá sẽ được kích thích bởi tiến trình tự
do hoá nhập khẩu nhờ AFTA và đồng thời nhờ đó có thể được lợi do
nhận được chi phí về các sản phẩm trung gian cấu thành đầu vào
giảm. Cũng tương tự như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng lên
1.
2.
do chỗ các nhà đầu tư nước ngoài muốn được hưởng các ưu đãi đặc
biệt của AFTA.
2. Những mục tiêu cơ bản của AFTA:
2.1. Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại
bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước ASEAN
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Bởi lẽ các nước thành
viên ASEAN đều có nền kinh tế hướng ngoại dựa vào xuất khẩu với tỉ
trọng mậu dịch với các nước ngoài khối khoảng 77% trong đó Mỹ
chiếm khoảng 20%, Nhật 14% và EU 15% trong khi đó tỉ trọng mậu
dịch nội bộ khối chỉ chiếm khoảng 23% theo số liệu thống kê trung
bình từ năm 1993 là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định CEPT đến năm
1998. Thêm vào đó cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của các nước
ASEAN tương đối giống nhau vì các nền kinh tế ASEAN chủ yếu đều
là các nền kinh tế đang phát triển có các điều kiện và nhu cầu xuất
nhập khẩu tương đối giống nhau. Vì vậy kim ngạch thương mại chịu
ảnh hưởng trực tiếp của AFTA sẽ không lớn. Về mặt này, AFTA sẽ
không thể so được với các thoả thuận thương mại khu vực khác như
EU hay NAFTA trong đó có sự liên kết giữa các nền kinh tế rất phát
triển với những nền kinh tế kém phát triển hơn như trường hợp của
Mỹ và Mexico. Tuy nhiên mục tiêu này nhằm thúc đẩy sự hợp tác
kinh tế trong nội bộ ASEAN. Thông qua AFTA, tạo ra một thị trường
chung ASEAN mà trong đó các nước thành viên được hưởng ưu đãi
hơn so với các nước không thuộc Hiệp hội. Từng bước, tiến tới xoá
bỏ về cơ bản thuế nhập khẩu hàng hoá thuộc các nước thành viên
ASEAN với nhau, nhưng vẫn giữ nguyên thuế nhập khẩu đối với
hàng hoá của các nước khác.
Như vậy, với mục tiêu thúc đẩy buôn bán giữa các nước trong khu
vực thông qua chế độ ưu đãi thuế quan, AFTA sẽ tăng sức cạnh tranh
của hàng hoá ASEAN trên thương trường thế giới.
2.2. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra
một khối thị trường thống nhất - xây dựng khu vực đầu tư ASEAN
(AIA):
Mục tiêu của AFTA là biến các nước ASEAN thành khu vực hợp
1.
2.
tác kinh tế thông qua việc thực hiện các chương trình kinh tế mà quan
trọng nhất là chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT). Mục tiêu trung
tâm này góp phần làm tăng cường năng lực kinh tế của các nước
thành viên ASEAN nhằm tạo ra sức mạnh để tự bảo vệ mình và vươn
lên trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn của nền kinh tế Thế
giới, tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.
Vào đầu thập kỷ 90, từ địa vị là địa bàn đầu tư hấp dẫn các nước
ASEAN ở vào thế bị cạnh tranh gay gắt với các nước khác như Trung
Quốc, Nga, các nước Đông Âu, và cả Việt Nam. AFTA sẽ tạo ra một
thị trường thống nhất, cho phép việc khai thác lợi thế kinh tế về qui
mô và tạo nhiều điều kiện thuận lợi khác cho việc hấp dẫn đầu tư
nước ngoài. Khi đầu tư nước ngoài vào ASEAN tăng lên, do việc mở
rộng khai thác các lợi thế của AFTA, chắc chắn sẽ dẫn đến việc gia
tăng trao đổi buôn bán giữa các nước ASEAN về các sản phẩm đầu
vào của quá trình sản xuất. Tuy vây, khối lượng buôn bán trao đổi về
các sản phẩm đầu vào như vậy chắc chắn sẽ tăng nhưng tỷ trọng so
với tổng kim ngạch thương mại của ASEAN sẽ không lớn vì những lý
do mang tính cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu như đã nêu trên, đặc
biệt trong giai đoạn đầu thực hiện AFTA khi quá trình chuyển dịch cơ
cấu đầu tư và sản xuất quốc tế và khu vực xuất phát từ việc thành lập
AFTA và sau này là việc hình thành khu vực đầu tư ASEAN (AIA).
Mục tiêu của AIA là xây dựng một khu vực đầu tư ASEAN thông
thoáng, rõ ràng và hấp dẫn nhất nhằm đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN
từ cả các nguồn trong và ngoài Hiệp hội. Tinh thần của AIA là muốn
các nước thành viên "mở cửa ngay lập tức" các ngành nghề và "dành
ngay lập tức" chế độ đối xử quốc gia.
Đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN sẽ tăng vì kết quả trao đổi
mậu dịch giữa các quốc gia này sẽ tăng theo AFTA và do đó, sẽ kích
thích các công ty Nhật, Mỹ, EU và NIEs đầu tư nhiều hơn để giữ thị
trường này thay vì trước đây họ thường cung ứng từ các cơ sở sản
xuất ngoài ASEAN. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN
sẽ tăng nhờ sự lớn mạnh của chính thị trường khu vực ASEAN và
theo đó, sẽ ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhằm cung cấp
sản phẩm cho các thị trường này. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu
này, các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu
tư và thông qua AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN
1.
2.
trở nên hấp dẫn hơn so với các khu vực khác. Vấn đề đáng lưu ý là
ASEAN cần phải đón bắt được các dòng đầu tư quốc tế đang trong xu
hướng chuyển mạnh từ các khu vực Âu, Mỹ trở lại châu Á. Dĩ nhiên,
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN không phải là một hiện
tượng mới, song những tác động của tiến trình AFTA sẽ nâng cao và
thúc đẩy chúng khởi sắc. Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực
trên cơ sở liên kết thị trường bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có
thể hy vọng tới khả năng đẩy mạnh thế thương lượng cạnh tranh về
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.3. Hướng ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đặc
biệt là xu thế tự do hoá thương mại thế giới
Chương trình CEPT là sẽ đưa ASEAN AFTA trở thành một khu
vực mở và là sự phản ứng đáp lại với các mô hình bảo hộ mậu dịch ở
cả trong và ngoài khu vực. Hay nói cách khác mục tiêu này liên quan
đến sự đáp ứng của ASEAN đối với xu hướng đang gia tăng của chủ
nghĩa khu vực trên thế giới. Trước những biến động của bối cảnh
quốc tế, AFTA buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện và tương lai có
thể không chỉ dừng lại ở một khu vực mậu dịch hay liên minh quan
thuế mà sẽ tiếp tục được phát triển thành một liên minh tiền tệ, một
liên minh kinh tế. Nhờ tăng buôn bán trong và ngoài khu vực, AFTA
sẽ trợ giúp cho các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng được với
chế độ thương mại đa biên đang tăng lên ngày càng nhanh chóng, hoà
nhập với xu thế thương mại chung của thế giới.
3. Nội dung cơ bản của AFTA
3.1 Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung - CEPT
sự thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc cắt giảm
thuế quan trong nội bộ xuống còn 0 - 5%, hạn chế về định lượng và
các hàng rào phi quan thuế từ ngày 1/1/1993 đến ngày 1/1/2003.
Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung này sẽ thực hiện
theo 4 danh mục. Danh mục 1 là giảm thuế nhập khẩu, được chia làm
2 phần: Phần thứ 1 là cắt giảm nhanh, áp dụng cho các loại sản phẩm
có mức thuế suất từ 20% trở xuống và phần thứ 2 là cắt giảm thuế
quan thông thường, áp dụng cho các loại hàng hoá có mức thuế suất
nhập khẩu cao hơn 20%. Danh mục này được áp dụng cho 15 nhóm
1.
2.
sản phẩm công nghiệp chế biến của ASEAN như: xi măng, hoá chất,
phân bón, chất dẻo, hàng điện tử, hàng dệt, dầu thực vật, sản phẩm da,
sản phẩm cao su, giấy, đồ gốm và thuỷ tinh, đồ dùng bằng gố và song
mây, dược phẩm với khoảng 3200 mặt hàng, chiếm tới 43% tổng số
danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Danh mục 2 là Danh mục loại
trừ tạm thời, chưa cắt giảm thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một
số thành viên ASEAN tham gia vào tiến trình tự do hoá thương mại
mà không bị sốc về kinh tế, tiếp tục các chương trình đầu tư đã được
đưa ra trước khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ
cho sự ổn định thương mại hoặc để chuyển hướng sản xuất đối với
một số sản phẩm tương đối trọng yếu trong buổi đầu tham gia CEPT,
không bị ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
nước. Sau 5 năm, những hàng hoá này sẽ phải chuyển dần sang Danh
mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục loại trừ
tạm thời. Danh mục 3 là Danh mục loại trừ hoàn toàn, bao gồm các
sản phẩm không tham gia CEPT nhưng phải có điều kiện phù hợp với
quy chế Tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Đây là các mặt hàng có
ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, vốn sống và sức khoẻ
con người, động vật, thực vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục,
nghệ thuật của mỗi nước. Danh mục 4 là sản phẩm nông sản chưa qua
chế biến. Các mặt hàng nông sản chưa chế biến có khả năng gây ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế các nước ASEAN. Thời hạn đưa các mặt
hàng trong danh mục này vào Danh mục giảm thuế sẽ bắt đầu từ 2001
và kết thúc vào 2003, đối với Việt Nam là 2004 và 2006.
Hơn nữa, chương trình CEPT còn cho phép các nước thành viên
đưa ra một danh mục tạm thời chưa thực hiện tiến trình giảm thuế
theo kế hoạch CEPT để các nước có thời gian chuẩn bị, nâng cao hơn
khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước mình.
Danh mục các mặt hàng thuộc CEPT của Việt Nam năm 1998:
- Danh mục giảm thuế: 1.661 dòng thuế
- Danh mục loại trừ tạm thời: 1.317 dòng thuế
- Danh mục nhạy cảm: 26 dòng thuế
- Danh mục loại trừ hoàn toàn: 213 dòng thuế
1.
2.
Tổng cộng là 3.217 dòng thuế (* nguồn Bộ Tài chính và Ban thư ký
ASEAN)
Như vậy, cốt lõi của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do là thực
hiện chương trình CEPT, nhằm giảm dần thuế nhập khẩu hàng hoá
giữa các nước ASEAN với nhau tới mức 0 - 5%, nhằm mục đích
khuyến khích thương mại giữa các nước thành viên. Theo chương
trình này, các nước thành viên đưa ra danh mục những mặt hàng sẽ
tham gia vào CEPT, cắt giảm những biện pháp hạn chế phi thuế quan
khác, và đưa ra lịch trình triển khai. Chương trình này bắt đầu vào
năm 1993, dự kiến kéo dài 15 năm, nhưng mới đây được rút bớt 5
năm, tức là kết thúc vào năm 2003. Theo quy ước của AFTA, ngoài
các loại nông sản chưa chế biến hoặc sơ chế là những mặt hàng không
nằm trong CEPT, mỗi nước xác định và đăng ký 3 loại mặt hàng tuỳ
theo mức độ tham gia CEPT; không tham gia hoàn toàn, tạm thời
chưa tham gia và tham gia.
Các mục tiêu của AFTA sẽ được thực hiện thông qua một loạt các
thoả thuận trong hiệp định AFTA như là: sự thống nhất và công nhận
tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các nước thành viên, công nhận việc
cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau, xoá bỏ những quy định
hạn chế đối với ngoại thương, hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô... trong
đó CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu.
CEPT, về thực chất, đó là một thoả thuận giữa các thành viên
ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 05% thông qua "cơ cấu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung" đồng thời
loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế
trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào
1/1/2003. Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với mọi loại sản phẩm
công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hoá tư bản và các sản
phẩm công nghiệp đã qua chế biến.
Tuy vậy, trong khung hiệp định đó, CEPT được nhấn mạnh cho các
mặt hàng công nghiệp chế biến là đối tượng chủ yếu được thụ hưởng
các ưu đãi của chương trình giảm thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan
cho chúng sẽ được áp dụng trong một lịch trình cụ thể theo 2 kênh
giảm nhanh và giảm thông thường đồng tuyến, nghĩa là trong vòng 7
đến 10 năm, phải đưa được khoảng 90% trong số hơn 44.000 dòng
thuế của các nước ASEAN xuống mức thuế dưới 5% vào năm 2000
1.
2.
và sau đó sẽ đưa được mức thuế quan bình quân của toàn ASEAN vào
năm 2003 khoảng 2,63%.
Kênh giảm thuế nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế quan tăng
tốc) có lịch trình giảm thuế nhanh sẽ được phân định thành hai nấc:
các sản phẩm có thuế suất trên 20% được giảm xuống còn 0-5% vào
1/1/2000 và các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% được
giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/1998.
Kênh giảm thuế bình thường (còn gọi là chương trình giảm thuế
quan theo lịch trình thông thường) sẽ áp dụng cho tất cả các sản phẩm
công nghiệp chế biến còn lại. Đối với những sản phẩm có thuế suất
trên 20%, việc giảm thuế ở kênh này sẽ được tiến hành theo hai nấc:
sẽ giảm thuế suất của chúng xuống tới 20% vào năm 1998 và sau đó
sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào năm 2003. Đối với sản phẩm đã
có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm thuế đến 0-5%
trong vòng 7 năm, tức là kết thúc vào năm 2000. Các danh mục giảm
thuế theo kênh thông thường hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số
các danh mục hàng hoá tham gia CEPT với 49%.
Với các tỷ lệ lớn của hai danh mục giảm thuế trong chương trình
thực hiện CEPT (khoảng 93%), các lịch trình giảm thuế này nếu được
thực hiện, về căn bản, chúng đã gần như hoàn thành tỷ suất tự do hoá
thương mại nội bộ ASEAN.
Điều đáng lưu ý ở dây là sau một số năm thực hiện CEPT, các nước
thành viên ASEAN đã có đề xuất về một lịch trình giảm thuế linh
hoạt, nghĩa là không nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến
với các quy định rạch ròi cho các suất thuế cần cắt giảm qua từng thời
kỳ. Tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế quan xuống còn 0-5% càng sớm
càng tốt trước năm 2003. Hiện nay Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề
xuất đó như một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu về việc tạo
dựng một khu vực tự do hoá thương mại ASEAN trước thời hạn đã
định. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (15-16/12/1998),
với sáng kiến thực hiện các thoả thuận đa phương và song phương, đã
khẳng định một lần nữa việc đẩy nhanh tiến trình AFTA. Ít ra là phải
hoàn thành AFTA vào năm 2000 đối với 6 nước thành viên ASEAN
đã kết nạp trước năm 1995.
1.
2.
Cũng xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt của từng quốc gia thành viên
mà CEPT còn quy định danh mục các sản phẩm tạm thời chưa tham
gia giảm thuế (còn gọi là danh mục loại trừ tạm thời) để tạo điều kiện
thuận lợi cho các nước này Các sản phẩm trong danh mục này sẽ
không được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên và chỉ tồn tại
mang tính chất tạm thời, nghĩa là sau 5 năm, chúng sẽ buộc phải
chuyển sang danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến đã định.
Do đó, kể từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, danh mục loại trừ tạm thời sẽ
phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi
năm. Dĩ nhiên, loại danh mục này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 8%
tổng số các danh mục tham gia giảm thuế.
Một vấn đề gây tranh luận nhiều nhất trong việc xây dựng chương
trình CEPT là vấn đề đưa hay không đưa các sản phẩm nông nghiệp
chưa qua chế biến vào danh mục giảm thuế. Theo Hiệp định CEPT
năm 1992, các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến không được
đưa vào danh mục giảm thuế theo CEPT. Nhưng đến tháng 9/1994,
các thành viên ASEAN đã đồng ý đưa chúng vào danh mục này. Do
đó, cùng với các danh mục giảm thuế là loại trừ thuế tạm thời, phạm
vi sản phẩm tham gia tiến trình tự do hoá thương mại theo CEPT đã
được mở rộng tới 98% tổng số dòng thuế của toàn khối ASEAN. Các
sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến cũng sẽ được phân định
thành ba danh mục: danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ hoàn toàn
và một danh mục đặc biệt khác là danh mục các sản phẩm nông
nghiệp nhạy cảm. Trừ một số nhỏ hàng nông nghiệp chưa qua chế
biến được đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn, hiện hành nông
nghiệp chưa qua chế biến của toàn bộ ASEAN bao gồm 1823 dòng
thuế, chiếm 4% tổng số dòng thuế sẽ giảm theo CEPT của các quốc
gia này. Các sản phẩm thuộc danh mục nhạy cảm là đối tượng cần có
cơ chế tự do hoá riêng phù hợp với các quy định của Hiệp định về
nông sản của WTO. Tuy nhiên, mức cam kết giảm thuế của các sản
phẩm thuộc danh mục này ở ASEAN sẽ cao hơn mức mà các nước
thành viên đã cam kết tại vòng đàm phán Urugoay. Đến nay, theo đề
xuất của các quốc gia thành viên, những mặt hàng này đã được phép
kết thúc lịch trình giảm thuế đến 0-5% vào ngày 1/1/2010.
Như vậy, xét một cách tổng quát, cấu trúc CEPT bao gồm 3 danh
mục chính: danh mục giảm thuế, danh mục các sản phẩm tạm thời
chưa giảm thuế và danh mục các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế
1.
2.
biến. Tuy nhiên, để vận dụng đúng hơn về CEPT, các thành viên
ASEAN đã thống nhất xây dựng một danh mục loại trừ hoàn toàn một
số sản phẩm ra khỏi lịch trình giảm thuế theo CEPT, tức là việc cắt
giảm thuế đối với những sản phẩm này sẽ không được áp dụng theo
các quy định của CEPT. Đó là những sản phẩm có ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con người, đến
việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, các di tích lịch sử, khảo
cổ...
Khi vận dụng CEPT, chúng ta không được quên một điều kiện bổ
sung cho cơ chế giảm thuế theo CEPT, đó là những nhượng bộ trao
đổi giữa các quốc gia ASEAN khi thực hiện CEPT trên các nguyên
tắc có đi có lại. Nguyên tắc này bắt buộc các nước thành viên để được
hưởng ưu đãi về thuế quan của nhau khi xuất khẩu theo CEPT cần
đảm bảo đúng các yêu cầu sau đây: thứ nhất, sản phẩm đó phải nằm
trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu và phải có mức thuế quan tối đa là 20%; thứ hai, sản phẩm đó
phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua và
thứ ba, sản phẩm đó phải là những sản phẩm có hàm lượng xuất xứ từ
các nước thành viên ASEAN với ít nhất là 40%. Nếu một sản phẩm
đảm bảo được ba yêu cầu đó, chúng sẽ được hưởng ưu đãi hoàn toàn
từ phía các quốc gia nhập khẩu. Để xác định các sản phẩm có đủ điều
kiện hưởng thuế quan ưu đãi theo chương trình CEPT hay không, mỗi
nước thành viên hàng năm phải công bố "tài liệu trao đổi ưu đãi
CEPT" trong đó cần thể hiện được mức thuế quan của các sản phẩm
theo CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện ưu đãi.
Tóm lại, CEPT được thực hiện sẽ đẩy nhanh tiến trình tự do hoá
thương mại trong nội bộ ASEAN. Bởi vì dựa vào các kế hoạch giảm
thuế đã được các nước thành viên ASEAN cam kết theo chương trình
CEPT, đến năm 2000 chắc chắn 87,7% tổng số các dòng thuế tham
gia giảm thuế sẽ có mức thuế 0-5%. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi
mà hiện nay các sản phẩm CEPT đã tăng rất nhanh trong tổng kim
ngạch xuất khẩu nội bộ ASEAN, từ 81,38% năm 1994 lên 84,7% năm
1995.
3.2. Huỷ bỏ hạn chế về định lượng hàng rào phi quan thuế
Đây là cơ chế quan trọng thứ hai được tiến hành đồng thời với thực
hiện chương trình CEPT. Các nước thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ tất
1.
2.
cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm CEPT trên cơ sở chế
độ ưu đãi thuế quan được áp dụng cho các sản phẩm đó. Các hàng rào
phi quan thuế khác cũng sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm
sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. Đây là sự hỗ trợ cực kỳ quan
trọng cho tiến trình AFTA vì lẽ cắt giảm thuế là biện pháp cần thiết,
đầu tiên song đó không phải là biện pháp duy nhất để thực hiện tự do
hoá thương mại. Các khía cạnh như: các kênh giảm thuế đồng tuyến,
danh mục loại trừ tạm thời, danh mục hàng nông nghiệp chưa qua chế
biến... tạo nên tính kỹ thuật của chính sách tự do hoá thương mại, còn
cấu thành nên sự tác động có tính chất hành chính, pháp lý giữa các
quốc gia trong tiến trình chu chuyển thương mại đó là các biện pháp
về giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch, các hạn chế về tỷ giá hối
đoái, các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật hàng hoá... Đây là những
rào cản trong thực tiễn hoạt động thương mại, nó gắn chặt với các
chính sách bảo hộ mậu dịch nặng nề và theo đó, việc loại bỏ chúng sẽ
không dễ dàng nếu không có sự cải cách toàn diện ở tầm vĩ mô nền
kinh tế của từng nước. Hơn nữa, hiện nay, những biện pháp này còn
rất không đồng nhất giữa các nước thành viên ASEAN. Do vậy, để
chuẩn bị tốt tiến trình xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế, Uỷ ban Phối
hợp thực hiện CEPT/AFTA của ASEAN đã tiến hành các bước như
sau:
Bước 1: Các nước thành viên cùng thống nhất định nghĩa về các biện
pháp phi quan thuế dựa trên sự phân loại của UNCTAC.
Bước 2: tập trung trước tiên việc giảm các hàng rào phi thuế quan đối
với các sản phẩm có tỷ trọng lớn trong giao dịch thương mại nội bộ
ASEAN.
Bước 3: Ban thư ký ASEAN sẽ tập hợp thông tin các hàng rào phi
quan thuế của các nước thành viên từ nhiều nguồn, gồm: báo cáo của
các quốc gia thành viên, bản đánh giá chính sách thương mại của
GATT, báo cáo của Phòng thương mại-Công nghiệp ASEAN, hệ
thống thông tin và phân tích dữ liệu thương mại của UNCTAC... để
có một chính sách điều hoà thích hợp. Trừ một số lý do được phép
duy trì các hàng rào phi quan thuế như: sự cần thiết phải bảo hộ một
số sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn, sự bảo hộ đối với một
số sản phẩm trong thời gian còn được hưởng chế độ miễn trừ tạm
thời... việc xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế cần được phối hợp đồng
bộ với chương trình CEPT, trong đó quan trọng nhất và khó khăn nhất
1.
2.
là việc thống nhất các tiêu chuẩn về hàng hoá và việc thừa nhận lẫn
nhau về tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các nước thành viên. Hiện tại,
Uỷ ban về tiêu chuẩn Chất lượng của ASEAN (ACCSQ) đang tiến
hành thống nhất hoá các tiêu chuẩn về kỹ thuật của các sản phẩm
CEPT thuộc nhóm những hàng hoá có kim ngạch buôn bán lớn giữa
các nước ASEAN. Tất nhiên, ở đây cần phân biệt rõ giữa hàng rào phi
quan thuế và các biện pháp phi quan thuế bởi vì rất nhiều biện pháp
phi quan thuế lại có tác dụng tốt cho việc tạo dựng môi trường thương
mại. Ví dụ, chính sách trợ giá xuất khẩu của Chính phủ, biện pháp
chống bán phá giá...
Dĩ nhiên, việc thống nhất và xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế là
một công việc khó khăn vì ba lý do: thứ nhất, các hàng rào phi quan
thuế đa dạng và thường ẩn dấu đằng sau các chính sách (ví dụ chính
sách kiểm dịch, chính sách duy trì hạn ngạch để hỗ trợ công nghiệp,
chính sách đánh giá cao giá trị của đồng bản tệ...); thứ hai, các bộ luật
thuế quan của các nước ASEAN vẫn còn chưa được điều hoà (Việt
Nam theo hệ thống điều hoà thuế quan (HS) 6 chữ số, Thái Lan là
HS-8, Malaysia và Singapore là HS-9...), và theo đó, cơ quan hải
quan trong từng nước thành viên khó có thể áp dụng đúng thuế, đúng
sản phẩm. Thứ ba là, các nguyên tắc về xuất xứ sản phẩm cũng sẽ làm
phức tạp hơn các tình thế xử lý về mặt phi quan thuế theo CEPT khi
đầu tư và thương mại giữa các nước ASEAN trở nên thường xuyên và
mật thiết. Để giải quyết các vấn đề này, phòng Thương mại và Công
nghiệp ASEAN có nhiệm vụ đẩy nhanh quá trình điều hoà các bộ luật
thuế quan với sự ưu tiên trước hết giành cho các sản phẩm chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng kim ngạch buôn bán nội bộ ASEAN và những
sản phẩm thuộc 15 danh mục hàng hoá tham gia kênh giảm thuế
nhanh của CEPT. Hội đồng CEPT đã tán thành kế hoạch hành động
để điều hoà về các tiêu chí luật thuế và phi quan thuế trên toàn khu
vực vào năm 1997.
3.3. Sự phối hợp trong ngành hải quan
Các nước ASEAN đã xác định việc hợp tác hải quan là một trong
những nhân tố quan trọng để thực hiện mục tiêu của AFTA, do vậy
1.
2.
ngay sau khi Hiệp định CEPT được ký kết, các nước đã tăng cường
hợp tác trên lĩnh vực này.
Phối hợp hải quan là cơ chế thực hiện của chương trình CEPT khi
nó hỗ trợ các nước thành viên thống nhất biểu thuế quan theo Hệ
thống điều hoà (HS) của nó. Hơn nữa, nó tạo thuận lợi cho việc thực
hiện giảm thuế và phi quan thuế khi hệ thống tính giá hải quan được
thống nhất, các luồng xanh ưu đãi cho hàng hoá theo CEPT của
ASEAN được hình thành và đặc biệt thủ tục hải quan được thống
nhất. Như vậy, tiến trình AFTA nhanh hay chậm, được điều chỉnh hay
bổ sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chương trình hợp tác hải quan.
Thuế quan trung bình theo CEPT trong giai đoạn 1998-2003
của ASEAN
Nước thành
viên
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Bruney
1,4
1,3
1,0
1,0
0,9
0,9
Indonesia
6,1
5,3
4,6
4,4
4,1
3,7
Lào
5,0
5,0
5,0
5,0
5,0
5,0
Malaysia
3,4
3,0
2,6
2,4
2,3
2,0
Mianma
4,5
4,5
4,4
3,3
3,3
3,2
Philipin
7,4
6,5
5,3
4,8
4,5
3,6
Singapore
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
Thailand
10,6
9,8
7,4
7,4
6,0
4,6
Việt Nam
3,9
3,9
3,0
3,0
2,7
1,8
ASEAN
5,1
4,6
3,7
3,5
3,2
2,6
Đơn vị: %
(* nguồn: Ban thư ký ASEAN, 1999)
Ghi chú: Thuế suất theo CEPT của toàn ASEAN là bình quân gia
quyền với quyền số là dòng thuế trong Danh mục cắt giảm ngay (IL)
năm 1998.
1.
2.
Chúng ta thấy, thuế quan bình quân ASEAN vào thời điểm này của
từng nước ASEAN-6 đều đã đạt xấp xỉ dưới 5% (ngoại trừ Thailand
và Philipin vẫn còn thuế suất bình quân khá cao). Như vậy có thể nói
các nước ASEAN-6 về cơ bản đã hoàn thành việc chuyển các dòng
thuế trong các danh mục, đặc biệt là Danh mục loại trừ tạm thời sang
Danh mục cắt giảm ngay đồng thời giảm thuế trong Danh mục cắt
giảm ngay.
Đối với các thành viên mới, vì thời hạn hoàn thành CEPT còn xa
hơn, do đó, tiến độ chuyển các dòng thuế từ các danh mục, đặc biệt là
Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay chậm hơn.
Tới năm 2000, mới chỉ có khoảng 50% số dòng thuế được đưa vào
Danh mục này.
Đối với Việt Nam, năm 2000 sẽ đạt 3.573 dòng thuế trên tổng số
4.827 dòng trong Danh mục cắt giảm ngay, tương đương khoảng 74%
tổng số dòng thuế. Đây là tỷ lệ cao nhất so với các thành viên mới
khác của ASEAN. Cũng căn cứ vào số liệu do Ban thư ký ASEAN
cung cấp, trong năm 2000, mức thuế quan bình quân thực hiện CEPT
của Việt Nam đạt 3,4% từ mức 3,9% năm 1999, đây là một sự cắt
giảm đáng kể. So với mức thuế quan bình quân hiện nay tính gia
quyền theo kim ngạch thương mại cho tất cả các dòng thuế (kể cả
dòng có thuế suất bằng 0) trên 11% thì chúng ta đã thực hiện thuế
theo CEPT chỉ thấp bằng 1/3 của mức thuế suất bình quân hiện hành
áp dụng chung cho các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam.
Trên cơ sở thực hiện Hiệp định CEPT với các nước ASEAN, thời
gian vừa qua Việt Nam đã đạt được nhiều thuận lợi về thương mại với
các nước ASEAN, điều dó tạo điều kiện để kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam tăng nhanh chóng. Khu vực các nước ASEAN đã và sẽ
ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong mối quan hệ thương mại
với Việt Nam.
Tổng cục Hải quan đã tham gia với các nước thành viên ASEAN
khác trong mọi lĩnh vực hợp tác hải quan ASEAN: Điều hoà thống
nhất danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN; Điều hoà thống
nhất các hệ thống xác định trị giá hải quan để tính thuế; Điều hoà
thống nhất quy trình thủ tục hải quan ASEAN; Xuất bản sách Hướng
dẫn về các quy trình thủ tục hải quan của các nước; Triển khai Hệ
thống Luồng xanh để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải quan
1.
2.
cho các sản phẩm của CEPT; Xây dựng tờ khai hải quan chung; Xây
dựng Hiệp định Hải quan của các nước ASEAN.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực này do những sự khác biệt giữa Việt Nam
và các nước về quy định của Luật thuế xuất nhập khẩu, danh mục
biểu thuế, quy trình thủ tục hải quan nên ta đang có những khó khăn
khi tham gia các nội dung hợp tác này.
4. Triển vọng của AFTA
Tỷ lệ xuất khẩu của ASEAN sang các đối tác ngoài khối tăng
10.5% tương đương 200,5 tỉ đô la năm 1999 từ 178,4 tỉ đô la năm
1998. Điều này có sự đóng góp rất lớn của các mặt hàng xuất khẩu
sang EU, tiếp theo là Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong khi lượng
nhập khẩu từ các đối tác này cũng tăng vào năm 1999 trừ Mỹ, lượng
nhập chỉ còn 5 tỉ đô la. Sự gia tăng nhập khẩu trong số các đối tác
thuộc khối chủ yếu là từ Hàn Quốc và Nhật Bản.
Các quốc gia thành viên dược thụ hưởng các điều kiện ưu đãi do
AFTA mang lại: có thị trường chung rộng lớn, các yếu tố đầu vào
giảm, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài và thông qua AFTA từng
bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở này, các nước
thành viên ngày càng phát huy được các lợi thế so sánh của mình.
Cũng vì vậy, người ta đã dự báo rằng trong những năm đầu của
thế kỷ XXI, ASEAN vẫn là những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
cao nhất, vẫn là những nền kinh tế có hiệu suất của khu vực phát triển
năng động nhất thế giới. Với việc Việt Nam gia nhập APEC vào năm
1998, ASEAN ngày càng có ảnh hưởng đáng kể đối với Diễn đàn
Hợp tác Kinh tế Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Hiện tại, Hiệp hội ASEAN đã quyết định kết nạp thành viên cuối
cùng của Đông Nam Á là Campuchia vào tổ chức của mình. từ
ASEAN - 9 đến ASEAN -10 và theo đó là việc nghiễm nhiên
Campuchia tham gia AFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN sẽ được
mở rộng về quy mô, đa dạng về trình độ, và là sự bổ sung về mặt cơ
cấu để cả khu vực ASEAN thành một thể chế kinh tế thống nhất.
Những kinh nghiệm và các vấn đề bức xúc đặt ra trong tiến trình thực
hiện AFTA hiện nay sẽ là những bài học quý giá cho các thành viên
đi sau. Nhìn chung, triển vọng ở AFTA không phải chỉ là hiệu quả
1.
- Xem thêm -