Lời nói đầu
Nhìn lại 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, chúng ta không thể không tự hào về những thành tựu đã đạt
được trong việc phát triển kinh tế- xã hội, đưa đất nước từ một
nước nghèo, nhập siêu nay sản xuất không những đáp ứng được
nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Trong bối
cảnh xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh
mẽ hiện nay, khi mà Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức
quốc tế như ASEAN, APEC, AFTA, môi trường kinh doanh của
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được mở rộng với những nhân tố
mới, cơ hội sẽ nhiều hơn và các thách thức cũng lớn hơn, cạnh
tranh sẽ gay gắt hơn. Tình hình này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt
Nam phải có một cái nhìn xa hơn, năng động hơn về sự phát triển
của mình.
Mặc dù Việt Nam thu được nhiều thành tựu trong đổi mới nhưng
doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất nhiêù hạn chế cần khắc phục
như :qui mô của doanh nghiệp còn nhỏ, vốn ít, trình độ khoa học
kỹ thuật kém phát triển, trình độ quản lý yếu kém khó ăn nhập với
thị trường mở rộng.Do đó không ít doanh nghiệp vừa bước chân
vào kinh doanh không đủ tiềm lực cạnh tranh nên đã bị phá sản
nhanh chóng, nhiều công ty liên doanh chyển thành công ty 100%
vốn nước ngoài.
Đứng trước môi trường cạnh tranh gay gắt như vậy, các daonh
nghiệp cần phải làm gì để tồn tại và chiến thắng ? Phòng thủ hay
tấn công ? Các doanh nghiệp thành công không thể làm việc theo
1
cảm hứng và thờ ơ trước nhu cầu của khách hàng cũng như đối thủ
cạnh tranh, các doanh nghiệp không bao gì thoả mãn với phần thị
trường chiếm lĩnh được mà luôn tìm cách vươn lên, mở rộng thị
trường. Với mục đích như vậy, việc đưa ra một chiến lược nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh là rất quan trọng đối với mọi doanh
nghiệp.
Bắt đầu từ ý tưởng này, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về chiến
lược cạnh tranh, đề án của em mang tên : " Những giải pháp nâng
cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệpViệt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế”
Đề tài có kết cấu như sau :
I-Thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế
II - Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp trong tiến trình kinh tế
hội nhập
III - Cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
IV- Điều kiện thực hiện và một số kiến nghị
2
I-Thực trạng của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế
1- Những vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế
Toàn cầu hoá kinh tế là hiện tượng mới nổi lên trong những năm
cuối TK20, và nó trở thành xu thế chung của toàn thế giới.Đến
nay , nước ta đã là thành viên của tổ chức thương mạI của khu vực
Châu á , hiệp định song phương về kinh tế với Hoa Kỳ đã được ký
kết và đang xúc tiến gia nhập Tổ chức thương mạI Thế giới
(WTO).
Tham gia hội nhập kinh tế khu vực đồng nghĩa với sự mở của thị
trường trong nước, xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan,
xoá bỏ sự bảo hộ của Chính phủ đối với hàng hoá của doanh
nghiệp trong nước. Nó cũng đồng nghĩa, các doanh nghiệp Việt
Nam tham gia cuộc chơI bằng chính sức mạnh của doanh nghiệp
mình, bằng chất lượng sản phẩm, bằng uy tín, danh tiếng của
doanh nghiệp . Hay các doanh nghiệp Việt Nam phảI cọ sát, phảI
cạnh tranh một cách quyết liệt ở cả thị trường trong nước và trong
khu vực.Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất phát triển, doanh nhgiệp nào
không có chiến lược phù hợp thì sẽ “ chết ngay trên sân nhà ”. Vào
năm 2003,Afta sẽ có hiệu lực một phần và thuế hàng hoá xuất nhập
khẩu sẽ được giảm 25%-30%. Còn đến năm 2006 thì thị trường
khu vực sẽ là thị trường mậu dịch chung không còn rào cản thuế
quan và hạng nghạch đối hàng hoá xuất nhập khẩu.
Đến lúc đó, thị trường tiềm năng cho xuất khẩu Việt Nam được mở
rộng và hầu như không còn giới hạn. Các doanh nghiệp Việt Nam
có thể thử sức mình với các đối thủ có tiềm lực mạnh, có kinh
nghiệm ở thị trường nước ngoàI từ rất lâu. Đây chính là những khó
3
khăn lớn nhất đối với doanh nghiệp nuớc ta khi tham gia vàp thị
trường mâụ dịch chung.
2- Những thành tựu của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế
Trong quãng đường dàI từ con số không, chúng ta dã không ngừng
đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc hiện đạI áp dụng vào sản xuất
đI vào khuôn phép hoạt động có khoa học. Hầu hết các doanh
nghiệp đã xoá bỏ được lối làm ăn theo chế độ bao cấp, phát huy
tính năng động sáng tạo của người lao động, bỏ dần tình trạng hoạt
động trì trệ, các doanh nghiệp đã linh động trước những biến đổi
của tình hình đổi mới, phát huy tối đa tiềm lực sẵn có, đổi mới mẫu
mã, chất lượng sản phẩm ngày càng tăng và nó làm cho hàng nội
địa có chỗ đứng trên thị trường khu vực và thế giới. Sự xuất hiện
nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trẻ, nhất là các doanh nghiệp
ngoàI quốc doanh tuy có qui mô và lượng vốn nhỏ nhưng trong
quá trình sản xuất đã áp dụng dây chuyền sản xuất hiện đạI,
phương pháp quản lý chặt chẽ, nâng cao được năng suất lao động,
giảm được chi phí trong sản xuất đến mức tối thiểu nên chất lượng
và giá cả có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá ngoạI nhập.
Chính qui mô này làm cho thị trường sống động hơn, sôI nổi hơn,
hàng hoá phong phú đa dạng hơn. Đáp ứng tốt hơn nhu cầu người
tiêu dùng, kể cả nhu cầu nhỏ nhất.DN V&N chiếm 24%-25% GDP
cả nước và chiếm 315 giá trị sản xuất công nghiệp Việt Nam,
chiếm 78% tổng mức hàng hoá bán lẻ, 64%tổng khối lượng vận tảI
hành khách và hàng hoá, chiếm 24% lực lượng sản xuất vật
chất.DN V&N được coi chiếc đệm giảm sóc của thị trường. DN
4
V&N có thể len lỏi vào phân đoạn , phân khúc của thị trường lấp
chỗ trống cho thị trường mà các doanh nghiệp nhà nước còn bỏ hở.
Phát triển DN V&N giảI quyết nhiều vấn đề xã hội đặt ra,như vấn
đề giảI quyết việc làm, tăng nguồn thu ngân sách, huy động nguồn
vốn nhàn rỗi dân cư.
Phát triển DN V&N cung cấp linh kiện , phụ tùng, chi tiết cho
doanh nghiệp lớn, DN nhà nước. Đồng thời sử dụng hiệu quả
nguồn nguyên vật liệu địa phương.
Phát triển DN V&N khai thác mọi tiềm lực của thị trường trong
nước và nước ngoàI, khỏi đầu cho việc thành lập DN lớn và là nơI
rèn luyện cán bộ giỏi.
DN V&N còn có rất nhiều lợi thế như khởi sự dễ dàng, dễ phát huy
bản chất chế độ hợp tác kinh doanh, bộ máy quản lý gọn nhẹ, linh
hoạt năng động.
Nhưng DN V&N cũng còn một số hạn chế cần khắc phục như tình
trạng thiếu vốn,trang thiết bị máy móc còn lạc hậu nên thiếu sức
cạnh tranh.trình độ quản lý ở nhiều DN còn thấp, đội ngũ lao động
còn ở trình độ phổ thông.
DN V&N luôn bị động với thị truờng và quan hệ thị trường, khả
năng tiếp thị và mở rộng thị trường kém, đặc biệt là thị trường
nước ngoài.
DN V&N còn gây ra những khó khăn cho quá trình hoặch định vĩ
mô vì vấn đề gia nhập đối DN loạI này là tự do.
Riêng đối với các doanh nghiệp quốc doanh thì do quá trình
hoạt động quá lâu trong cơ chế kinh tế bao cấp lạc hậu nên có ảnh
hưởng rất lớn đến việc nắm bắt và và tiếp xúc linh hoạt với thị
5
trường cạnh tranh gay gắt. Dây là thành phần kinh tế đóng vai trò
chủ đạo của toàn bộ nền kinh tế nói chung, nắm giữ những nghành,
những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, nó được coi như mạch
máu của cơ thể sống. Tuy gặp phảI khó khăn một mặt từ phía
khách quan, mặt khác do sự chủ quan, nhưng sự vươn lên của các
DN nhà nước cho thấy, các DN NN đã có bước ngoặt lớn trong
việc thay đổi hoàn toàn cơ chế quản lý sản xuất cũ , thay vào đó
các DN này đã chủ động sản xuất kinh doanh, tự tìm đầu vào và
dầu ra cho doanh nghiệp mình, tự quyết toán khắc phục được phần
lớn tình trạng phụ thuộc vào Nhà nuớc, nâng cao hiệu quả kinh
doanh, giảm thua lỗ kéo dàI nhiều năm như trước đổi mới.
Theo kết quả năm 2000 cả nước ta có 94 TCT nhà nước trong đó
có 17 TCT được thành lập theo quyết định số 91 TTg của Chính
phủ. Trong các TCT NNcó 1392 DN hạch toán độc lập bằng
24%tổng số DN NN hiện có. Các TCT NN này đều nằm ở những
nghành kinh tế quốc dân quan trọng đó là Bộ Công Nghiệp có 19
TCTNN ( 7 TCT 91 và 12 TCT 90 ) Bộ NN và PTNT có 18
TCTNN ( 4 TCT 91 và 14 TCT 90 ).Bộ GTVT 15 TCT (trong đó
có 2 TCT 91 và 13 TCT 90 ), Bộ XD có 13 TCTNN ( 1 TCT 91 và
12 TCT 90 ). Nếu so toanf bộ các DNNN thì TCT 90 và TCT 91
chỉ chiếm 24% về số lượng DN nhưng lạI chiếm tỉ lệ 66% về vốn,
60% về lực lượng lao động và 69% về nộp ngân sách nhà nước.
Các TCT này đã thể hiện được vị trí chủ chốt trong nền kinh tế.
Đặc biệt có thể ghi nhận vị trí quan trọng của 17 TCT 91 qua các
con số so sánh như sau : Các TCT 91 chỉ chiếm 9,0% về số lượng
DN so với tổng số DNNN nhưng lạI chiếm tới 54,9% về vốn,
64,2% lợi nhuận trước thuế và 54,9% về nộp ngân sách nhà nước.
Từ sau khi thành lập đến nay nhiều TCT nhanh chóng đI vào ổn
6
định, khắc phục khó khăn, vươn lên đạt kết quả đáng kểvề sản xuất
kinh doanhn , nhiều công ty thể hiện được vai trò chủ lực của
nghành mình trong nền kinh tế.
Hầu hết các TCT đều đạt dược mức tăng trưởng được giao về
giá trị tổng sản lượng, tổng doanh thu, thu nộp ngân sách, thu bình
quân của cán bộ công nhân viên, kim ngạch xuất khẩu và các chỉ
tiêu khác đều tăng qua các năm. Một số TCT ngày càng lớn mạnh,
có tiềm lực phát triển, hoạt động có hiệu quả ổn định như TCT Bưu
chính viễn thông, TCT Dầu khí, TCT Than, TCT ĐIện lực, TCT
Hàng không . . .
Nhiều TCT đã huy động được cá nguồn nội lực của toàn bộ
TCT kết hợp với việc huy động các nguồn vốn khác để đIều hoà
việc thực hiện các chương trình đầu tư theo chiều sâu, đổi mới
công nghệ mở rộng sản xuất tăng khả năng cạnh tranh, khẳng định
vị thế trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoàI, làm nòng
cốt trong việc bảo đảm cân đối của nền kinh tế về những hàng hoá,
vật tư chiến lược, các hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, góp phần quan
trọng ổn định giá cả và ổn định KT- XH.
Mặc dù vậy, các TCTNN chiếm tỷ trọng lớn về vốn ( 71,9% )
nhưng mới tạo ra được 49,8% về doanh thu. Trong đó TCT 91
chiếm 54,9% về số vốn nhưng chỉ đạt 26,4% về doanh thu, TCT 90
chiếm 17% về số vốn nhưng chỉ đạt được 32,2% về doanh thu.
Như vậy, bên cạnh những TCT hoạt động tốt tạo ra nhiều sản phẩm
cho xã hội vẫn còn những TCT chiếm số vốn lớn nhưng lạI hoạt
động kém hiệu quả.
3- Những hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình
hội nhập kinh tế :
7
Nhìn chung hầu hết các DN đều có mức tăng trưởng kinh tế
nhưng hiệu quả sản xuátt kinh doanh còn thấp. Mặc dù lĩnh vực
đầu tàu của nền kinh tế nhưng giá trị tăng thêm của công nghiệp
trong năm 1999 chỉ đạt 7-8%, khối DNNn tăng trưởng thấp, một số
nghành có xu hướng giảm dần, số DN làm ăn có lãI còn rất khiêm
tốnchỉ có 1`0% trong tổng số 60% là hoạt động không có lãI và có
tới 20% hoạt động thua lỗ nhiều DN rơI vào tình trạng phá sản, qui
trình đổi mới về cơ chế quản lí ở các DNNn còn diễn ra rất chậm
trừ một số DNNN có vốn đầu tư nước ngoàI và số ít DN có máy
móc, công nghệ hiện đạI nên chất lượng sản phẩm tương đối cao.
Phần lớn các DN có công nghệ quá cũ và lạc hậu do nhập công
nghệ nước ngoàI đã bị loạI bỏ, tỷ lệ đổi mới công nhgệ là và thiết
bị là chưa đáng kể, chưa tương xứng với yêu cầu của thời buổi
cạnh tranh, như vậy càng làm tăng khó khăn cho DN nước ta trong
thời kỳ cạnh tranh khốc liệt và xu hướng toanf cầu hoá khu vực và
thế giới đang diễn ra mạnh mẽ.
Sản phẩm xuất khẩu chưa nhiều, ngoàI một số mặt hàng chủ
yếu như dầy dép, dẹt may, linh kiện đIện tử, dầu thô thì không còn
sản phẩm nào khác. Hàu hết các sản phẩm nước ta chưa làm người
tiêu dùng hàI lòng, tin cậy, độ thoả mãn của hàng hoá đối với họ
còn quá thấp, thiếu sức lôI cuốn khách hàng do chưa được cảI tiến,
sáng tạo nhiều để nâng cao ưu thế, tạo động lực thúc đẩy sức mạnh
cạnh tranh là việc chúng ta chưa thực sự quan tâm đúng mức, chưa
khuyến khích được hoạt động sáng tạo. Mặt khác, sản phẩm của ta
chưa chịu nhièu sức ép hoặc nhu cầu sản phẩm sáng tạo chưa cao,
chưa liên tục, công tác thông tin MKT chưa được làm tốt. Hơn
nữa , thì pháp luật Nhà nước lạI thực hiện chưa nghiêm túc luật bản
8
quyền dẫn đến mất giá của các bản sáng chế sau khi được tung ra
thị trường lần đầu tiên.
Đối với thị trường trong nước thì các DN của ta đã chưa tận
dụng được cơ hội mở rộng thị trường. Các sản phẩm sản xuất ra
hầu như phục vụ cho cầu của các thành phố lớn là chính , còn có
rất ít sản phẩm giành cho người tiêu dùng là những người dân sống
ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Họ cũng có nhu cầu và mong
muốn như mọi người bình thường nhưng khả năng đáp ứng nhu
cầu là còn ít do nguồn thu nhập của họ thấp. Nhưng ở đây tạI sao
các DN không dự định trong tương lai là sản xuất loạI sản phẩm
nào vừa phù hợp với nhu cầu thị hiếu của họ và hợp với nhu cầu
mà họ hiện có tạI sao không có sự trao đổi thông qua hiện vật là
những NVL mà người dân sẵn có.
Chưa có được chuyên môn nghiên cứu về thị trường rộng lớn
này, để biết được sản phẩm, hàng hoá, mẫu mã ra sao thì phù hợp
với người tiêu dùng. Đây cũng là hạn chế của hầu hết các DN do
chưa có dủ sức mạnh để cạnh tranh với DNKD có tiếng trên
thương trường, tiềm lực về mọi mặt đều lớn, thì muốn thành công
ta không thể cạnh tranh trực diện màhãy đI vào những chỗ hở mà
họ chưa đụng đến trong đIều kiện cá DN của ta chưa cho phép:
công nghệ máy móc hiện đạI còn rất ít chất lượng sản phẩm còn
kém. Đặc biệt khi các biện pháp quản lý nghiêm cấm hàng nhập
lậu từ nước ngoàI tràn vào đã gây nên tình trạng khủng hoảng đối
với nhiều ngành sản xuất do không tiêu thụ được sản phẩm.
*Nguyên nhân của các hạn chế
Các hạn chế trên một phần là do các yếu tố khách quan, đó là
tác động của cộc khủng hoảng tàI chính tiền tệ khu vực ĐNá và
9
Châu á đã làm giảm hẳn nguồn vốn đầu tư và dự án đàu tư của
nước ngoàI, hàng xuất khẩu bị chững lạI , nhưng nguyên nhân
chính lạI là từ phía chủ quan của DN và từ Luật Đầu tư và hệ thống
Pháp luật còn kém háp dẫn sự chú ý của cá nhà đầu tư. Mặc dù đã
có nhiều sửa đổi để phù hợp với Luật Đâu tư của khu vực và Thế
giới, đIều kiện ưu đãI ở một số lĩnh vực chưa được thoả đáng, chưa
tạo được niềm tin vững chắc của các nhà đầu tư , cơ chế quản lý vĩ
mô của NN còn nhiều bấp bênh các yếu tố thị trường chưa được
hình thành đồn bộ , môI trường hợp tác cạnh tranh chưa được tạo
lập đầy đủ còn tồn tạI nhiều hình thức hành chính bao cấp mang
tính “ xin cho “ với thủ tục phiền hà, thiếu tính công khai, các DN
Quốc Doanh chưa thực sự muốn bỏ lớp bảo vệ ngoàI, chưa thực sự
tiếp nhận cơ chế thị trường một cách tích cực, thiếu năng động
sáng tạo ở mọi lĩnh vực, sự trì trệ trong cơ chế thị trường sẽ không
có sự tồn tại. Cá DN ngoàI quốc doanh thì có vốn và qui mô nhỏ,
sợ bị thất bạI nên chưa dám đầu tư sản xuất kinh doanh với những
cơ hội đem lạI lợi nhuận lón nhưng độ rủi ro cao, thực sự chưa
dáng coi là nhà kinh doanh của thời kỳ hiện đại.
II- Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp trong nền kinh tế
hội nhập
1- Xu hướng phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới
Loài người đang bước vào thế kỷ 21 với niềm hy vọng thiết tha về
một cuộc sống hoà bình, hợp tác, tận dụng những tiến bộ kỳ diệu
của khoa học kỹ thuật và công nghệ để xây dựng cuộc sống phồn
vinh, hạnh phúc. Xu thế của thời đại ngày nay là xu thế toàn cầu
10
hoá kinh tế, hội nhập, tăng cường liên kết và hợp tác giữa các nước
trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn còn có những bóng
đen đang bao phủ bầu không khí chính trị châu Âu về một cuộc
chiến tranh huỷ diệt và những lo ngại về một cuộc khủng hoảng
trên phạm vi toàn cầu. Đảng và Nhà nước ta xác định rõ con đường
khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, tiếp tục phát triển của
Việt Nam là phải đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện
và sâu sắc nhằm phát huy mọi nguồn nội lực còn nhiều tiềm năng,
thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển của
đất nước chính là các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Các doanh
nghiệp có đứng vững và phát triển thì nền kinh tế đất nước mới có
thể ổn định và phát triển, theo kịp với nền kinh tế khu vực và thế
giới.
2- Những cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình
hội nhập kinh tế
Toàn cầu hoá đưa đến hệ quả tất yếu là các quốc gia phải mở
cửa hội nhập nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã và đang tích cực
tham gia vào xu thế này, từng bước ký kết các hiệp định thương
mại song phương, khu vực và đa phương. Đến nay, nước ta đã là
thành viên của tổ chức AFTA, APEC, chúng ta đã ký hiệp định
thương mại song phương với với Hoa Kỳ, xúc tiến đàm phán
chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ). Các
quan hệ thương mại với Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc... đang
tiếp tục được mở rộng. Là một nước đang phát triển tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta sẽ có thêm nhiều cơ hội mới để
phát triển. Đó là :
11
Tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các
hiệp định thương mại đã ký kết với các nước. Nếu thực hiện đầy
đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp
chế biến có xuất xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả thị
trường các nước ASEAN với dân số trên 500 triệu người và
GDP trên 700 tỷ USD. Từ năm 2002, hàng rào thuế quan của
các nước APEC sẽ được dỡ bỏ, đây cũng là cơ hội để nước ta
xuất khẩu vào các nước thành viên APEC.
Cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài. Tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở
rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và
công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên vốn có
của chúng ta, làm ra các sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu
vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có. Đây cũng là cơ hội
để các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn hiệu
quả hơn.
Tranh thủ đựoc kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi
trước để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa- hiện đại hoá. Hội
nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước
ta với khu vực và thế giới, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và có
hiệu quả. Công nghệ kỹ thuật của các nước ngoài nhằm phát
triển năng lực kỹ thuật công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh
quốc tế, có thể công nghệ này là cũ đối với nước phát triển
nhưng lại là mới và có hiệu quả tai một nước đang phát triển
như Việt Nam.
Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực của nước ta với các
nước. Ta cso thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc
12
sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến
hàng xuất khẩu đồng thời nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các
công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà nước ta chưa có.
Song song với việc tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, xu
thế hội nhập, toàn cầu hoá kinh tế cũng đem lại cho doanh
nghiệp không ít những khó khăn, trở ngại và thách thức.
3- Những thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế
Việt Nam đã và đang đứng trước nhiều thách thức to lớn dưới
tác động của xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá , tốc độ phát
triển của kinh tế tri thức , sự chênh lệch về trình độ tăng lên ,
khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng và nguy cơ lạc hậu ,
đặc biệt là về công nghệ thông tin. Các nhà kinh doanh Việt Nam
đang còn phải đương đầu với nhiều trở ngại đặc biệt là năng lực
cạnh tranh rất hạn chế. Biểu hiện rõ nhất là công nghệ lạc hậu,
năng lực quản lí yếu , khả năng tiếp cận thị trường và các nguồn
lực bên ngoài cũng yếu lực lượng lao động , chất lượng không cao.
Trong 40 nhóm hàng đã được viện nghiên cứu Quản lí kinh tế
trung ương điều tra chỉ có 10 nhóm hàng có khả năng cạnh tranh
( 3 thuộc về công nghiệp, 2 thuộc về dịch vụ và 5 nhóm hàng nông
sản ). 22 nhóm hàng chỉ có tính cạnh tranh khi nhà nước hỗ trợ ở
mức độ cao và 8 nhóm hàng hầu như không có khả năng cạnh
tranh.
Đại diện Ban vật giá Chính Phủ nêu một thực trạng mà các nhà
quản lí , các nhà doanh nghiệp cần phải cân nhắc để tìm ra một
biện pháp tốt nhất, đó là: một số mặt hàng tiêu biểu tác động rõ đến
đầu vào , đầu ra của sản phẩm như điện cho sản xuất , xi măng ,
13
nước sạch cho kinh doanh, giá thuê đất trong khu công nghiệp ,
cước điện thoại di động quốc tế đều cao hơn so với nhiều nước
trong khu vực. Ngược lại đa số nhóm hàng nông sản Việt Nam lại
có giá bán chỉ bằng 70 - 80% so với các nươc trong khu vực và
trên thế giới . Theo đấnh giá của các bộ , ngành và doanh nghiệp,
sức cạnh tranh của hàng Việt Nam vốn đã kém , một số sản phẩm
tuy có lợi thế nhưng đang mất dần do doanh nghiệp một phần
nhưng phần lớn do các nguyên nhân khách quan. Đối với nước ta,
hội nhập là cần thiết nhưng cần phải có sự chuẩn bị kĩ càng. " Tự
do hoá thương mại là điều rất tốt đối với sự phát triển lâu dài của
nền kinh tế, tuy nhiên nó sẽ có tác động ngược nếu chúng ta không
chuẩn bị kĩ. Việt Nam cần phải có thời gian , hội nhập từ từ theo
mức độ và khả năng của mình , không nên quá vội vã đi theo con
đường của các nước phát triển khác sẻ dẫn đến tụt hậu nhanh
chóng. Vệt Nam cần phải có những sự chuẩn bị kĩ càng, một chiến
lược lâu dài. Một trong những chiến lược đó là nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện nay.
III- Cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh cuả doanh
nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế
14
1- Khái niệm của cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh
của
doanh nghiệp
1.1-Tính tất yếu nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
-Các DN ngày càng cạnh tranh gay gắt đặc biệt trong tiến
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì các DNlạI càng cạnh
tranh gay gắt vf quyết liệt hơn. Thậm chí, các DN phảI cạnh tranh
không cân sức ngay trên sân nhà vì phảI cạnh tranh với đối thủgiàu
kinh nghiệm hơn trong khu vực buộc DN phảitạo ra lợi thế cạnh
tranh và phát huy lợi thế này.
-Nâng cao khả năng cạnh tranh tức là tăng vũ khí, tăng công
cụ cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, giá sản phẩm, mạng lưới
đạI lý tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến bán hàng Thương mạI, bằng hình
thức, phương thức thanh toán năng động , linh hoạt.
1.2- Thực chất của cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh
-Cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của thị trường, là linh hồn
sống thị trường , thị trường là vũ đàI của cạnh tranh. Có cạnh tranh
hàng hoá mới phong phú hơn, mới có cơ sở giảm giá bán, đầu tư
công nghệ mới.
-Cạnh tranh được diễn ra giữa người bán với người bán, giữa
người bán vói người mua, giữa người muavới ngườimua. Trong đó,
cạnh tranh người bán với người bán là cạnh tranh gay gắt nhất,
quyết liệt nhất.
-Các DN thôn tính lẫn nhau, giành giậtkhách hàng, mở rộng
thị phần thị trường, kết cục có DN chiến thắng, có DN bị phá sản ,
thất bại.
15
Từ các lý luận trên đưa kháI niệm về cạnh tranh
-Cạnh tranh là sự ghanh đua giành giật khách hàng để mở
rộng thị trường, thị phần của các DN. Đây là cuộc chạy đua
Maratông về kinh tế không có đích cuối cùng.
1.3- Thực chất của cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh
tranh của DN
-Thực chất của cạnh tranh là tạo ra lợi thế cạnh tranh của DN
đồng thời phảI tìm mọi giảI pháp để khai thác và nâng cao lơị thế
cạnh tranh đó. Đòi hỏi DN năng động, sáng tạo và phát huy lợi thế
của DN.
- Thực chất của cạnh tranh là sự giành giật và tạo ra các lợi
thế trong sản xuất, trong tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ để thực hiện
mục tiêu đề ra. Tìm mọi cách tạo ra hàng hoá để thoả mãn cao nhát
nhu cầu khách hàng.
-Tạo ra lợi thế cạnh tranh và khả năng khai thác, phát huy lợi
thế đó của DN.
1.4- Lợi thế cạnh tranh của DN
- Lợi thế cạnh tranh phản ánh qua các yếu tố năng lực, nguồn
lực của DN có thể để kinh doanh có hiệu quả so đối thủ cạnh tranh,
thể hiện nguồn lực, năng lực như vốn, lao động.
*Những yếu tố cơ bản tạo ra lợi thế cạnh tranh của DN
-Chi phí thấp, dẫn đến giá cạnh tranh thấp, mở rộng thị
trường thị phần
-Tình hình khác biệt hoá sản phẩm của DN so với đối thủ
cạnh tranh về kiểu dáng, chất lượng, dịch vụ sau bán hàng, thời
gian giao hàng, dịch vụ xúc tiến Thương MạI, hoạt động hỗ trợ.
16
-Kết hợp hai yếu tố trên vừa dẫn đầu chi phí thấp và khác biệt
hoá sản phẩm.
1.5.1- Vai trò cạnh tranh đối với doanh nghiệp
-Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh được coi là mảnh đất sinh
tử đối với mỗi doanh nghiệp, mà doanh nghiệp cũng muốn tồn tại
và phát triển, vì vậy canh tranh tác động đến việc nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
-Cạnh tranh là động lực của sự phát triển của doanh nghiệp, thúc
đẩy tìm tòi đến cái mới, đổi mới trang thiết bị, máy móc, công
nghệ quản lý, …
-Cạnh tranh đem lại cho doanh nghiệp vị thế, danh tiếng thông qua
những gì họ thể hiện được trong quá trình canh tranh.
-Cạnh tranh tạo dựng một môi trường làm việc đoàn kết, hữu nghị,
…
-Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường.
-Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp tránh được
những đòn tấn công từ các đối thủ canh tranh và có khả năng tiêu
diệt các đối thủ canh tranh nhằm mở rộng thị trường.
-Nâng cao năng lực cạnh tranh cũng có nghĩa doanh nghiệp nâng
cao năng lực của một số bộ phận như: tài chính, nhân lực,..
1.5.2-Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng
-Cạnh tranh và nâng cao năng lực canh tranh đem lại cho người
tiêu những hàng hoá, dịch vụ tốt hơn, rẻ hơn, đẹp hơn.
-Cạnh tranh mang lại hàng hoá đa dạng, phong phú, đáp ứng những
nhu cầu của người mua.
17
1.5.3- Đối với nền kinh tế quốc dân
-Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
-Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền kinh tế
quốc dân.
-Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp sử dụng tối ưu các năng lực
khan hiếm của xã hội.
-Cạnh tranh là"cái nôi" sinh sản ra các nhà kinh doanh đại tài, các
doanh nghiệp trong nền kinh tế không chỉ phục vụ tốt việc cung
cấp hàng hoá dịch vụ trong nước mà còn có khả năng vươn ra thị
trường nước ngoài.
-Nâng cao năng lực cạnh tranh còn giúp cho nền kinh tế có những
cách nhìn nhận đúng đắn hơn về kinh tế thị trường, rút ra được
những bài học thực tiễn bổ sung vào lý luận kinh tế thị trường ở
nước ta.
-Tuy nhiên, bên cạnh vai trò to lớn của cạnh tranh và việc nâng cao
năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp mang lại cho xã hội,
chúng ta phải thừa nhận rằng: vì bị cuốn hút bởi mục tiêu canh
tranh mà doanh nghiệp không chịu chi phí cho hoạt động môi
trường, các vấn đề xã hội và đôi khi gây ra lãng phí cho xã hội.
2- Những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh là nhân tố quan trọng, có
ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. bởi vậy, để nâng cao hiệu quả của công tác xây
18
dựng chiến lược kinh doanh nói chung và chiến lược canh tranh
nói riêng các doanh nghiệp phải biết nhậy bén và dự báo chính xác
sự thay đổi của môi trường.
2.1-Môi trường kinh doanh bên ngoài của doanh nghiệp
2.1.1- Môi trường kinh doanh quốc tế:
Các nhân tố thuộc về môi trường quốc tế gồm:
Ngành kinh doanh
Chính trị
Kinh tế
Kỹ thuật- công nghệ
2.1.2- Môi trường nền kinh tế quốc dân:
Các nhân tố kinh tế
Các nhân tố kinh tế cần phải được nhiên cứu, phân tích và dự
báo bao gồm: trạng thái phát triển của nền kinh tế(giai đoạn của
chu kỳ kinh tế), tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng,
các chính sách kinh tế của nhà nước,…
Các nhân tố chính trị và luật pháp
Các nhân tố kỹ thuật-công nghệ
Các nhân tố văn hoá-xã hội
Nhân tố tự nhiên
2.2- Môi trường ngành
Phân tích cơ cấu ngành do giáo sư Michael Porter ở trường
kinh doanh Harvard đưa ra:
2.2.1- Mức độ căng thẳng của sự cạnh tranh giữa các đối thủ
19
Mức độ căng thẳng của sự cạnh tranh không phải ngành nào
cũng giống nhau. Trong một số ngành thì canh tranh diễn ra gay
gắt, tìm cách để tiêu diệt lẫn nhau nhưng cũng có ngành các doanh
nghiệp hợp tác với nhau cùng nhau phát triển.
Mức độ đó được xác định bởi các yếu tố:
- Tăng trưởng của ngành
- Chi phí cố định hoặc chi phí lưu kho
- Sự vượt công suất không liên tục:
- Số các doanh nghiệp và quy mô tương đối của chúng:
Sự đa dạng của các đối thủ canh tranh
- Lợi ích của doanh nghiệp:
- Hàng rào rút khỏi cao:
2.2.2- Mối đe doạ từ những người gia nhập mới
Đối thủ mới tham gia trong ngành có thể là yếu tố làm giảm
lợi nhuận của công ty do họ đưa vào khai thác các năng lực và sản
xuất mới với mong muốn giành được một phần thị trường. Do đó
những công ty đang hoạt động tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ
canh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Bởi hiển
nhiên là nhiều công ty nhảy vào kinh doanh trong một ngành nó sẽ
trở nên khó khăn hơn đối với các công ty đang hoạt động trong
ngành đó. Vì vậy để bảo vệ vị trí canh tranh của mình công ty
thường quan tâm đến việc duy trì hàng rào hợp pháp ngăn cản sự
gia nhập từ bên ngoài. Hàng rào đó được quyết định bởi các yếu tố
sau:
Tính kinh tế của quy mô
20
- Xem thêm -