Lời Mở Đầu
Xu hướng quốc tế hóa đã đặt ra một vấn đề tất yếu khách quan: mỗi
quốc gia phải mở cửa ra thị trường thế giới và chủ động tham gia vào phân
công lao động quốc tế và khu vực nhằm phát triển nền kinh tế của mình,
tránh bị tụt hậu so với các nước khác. Điều đó đã làm cho nền kinh tế thế
giới trở thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ
phận có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
Cùng với phương châm: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả quốc gia
trên thế giới, Việt Nam đang cố gắng nỗ lực vươn lên trong mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Sau nhiều năm thực hiện chính sách
mở cửa, nền kinh tế nước nhà đã có những bước chuyển biến tích cực, bộ
mặt đời sống của người dân ngày một nâng cao. Để hòa chung vào dòng
chảy của hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang xây dựng cho
mình một thương hiệu riêng về các mặt hàng trên thương trường quốc tế.
Góp phần quan trọng trong công tác phát triển nền kinh tế, lĩnh vực
ngoại thương có vai trò chủ đạo và chiến lược lâu dài. Bởi vì: một quốc
gia cũng như cá nhân, không thể sống riêng rẽ độc lập với nhau về các
hoạt động mà vẫn đáp ứng được các nhu cầu của mình một cách đầy đủ
được. Hoạt động ngoại thương mở rộng phạm vi tiêu dùng của một quốc
gia, nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng tiêu
dùng nhiều hơn mức có thể sản xuất và vượt giới hạn của khả năng sản
xuất trong nước đó. Xuất phát từ nguyên nhân trên, ngoại thương luôn
được đẩy mạnh trong nền kinh tế nước ta.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng trong hoạt động ngoại
thương, nó tác động trực tiếp đến đời sống con người, bổ sung các hàng
hóa mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng
nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế những hàng hóa mà sản xuất trong
nước không có lợi bằng nhập khẩu. Còn hoạt động xuất khẩu lại là một
trong những hoạt động chủ yếu giúp các quốc gia hội nhập và học hỏi lẫn
nhau, cùng nhau phát triển nền kinh tế, tạo vị trí, thế lực vững mạnh trên
trường quốc tế. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy
các ngành kinh tế hướng theo XK, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng
XK để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, chúng ta không chỉ góp phần
đưa nền kinh tế đất nước phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, thu ngoại tệ cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao mức sống của người
dân… mà còn giới thiệu nhiều hơn về tiềm năng kinh tế, truyền thống văn
hóa của dân tộc mình đến những bạn bè quốc tế và đúc rút, học hỏi được
nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm… từ họ.
Để hoạt động xuất khẩu được thực hiện có hiệu quả, chúng ta phải lập
được phương án kinh doanh khả thi vì nó là một bước quan trọng, là cơ sở
cho việc ra quyết định xem doanh nghiệp có nên xuất khẩu hay không.
Trong những năm vừa qua, các mặt hàng của VN như nông sản, hải sản,
thủy sản, …đã đến với nhiều quốc gia trên thế giới. Một trong những ngành
xuất khẩu thu được ngoại tệ nhiều nhất là ngành xuất khẩu thuỷ sản Cá tra
đông lạnh.
Phần 1:
Những cơ sở để lập phương án Xuất khẩu
I. Mục đích, và ý nghĩa của phương án xuất khẩu
1.1.Mục đích:
Lập phương án kinh doanh là bước khởi đầu có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc thực hiện các hoạt động ngoại thương của mỗi doanh
nghiệp. Trên cơ sở kết quả của việc nghiên cứu thị trường,tiến hành lập ra
một kế hoạch kinh doanh cụ thể , đây cũng là những căn cứ quan trọng
trình lên các cấp, các ngành, các bộ phận có liên quan nghiên cứu, xem xét
tính khả thi, hợp lý của dự án từ đó ra các quyết định thực hiện hay không
thực hiện dự án. Khi được chấp nhận sẽ tiến hành triển khai thực hiện từng
bước theo trật tự của phương án để đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.2. Ý nghĩa:
Việc lập một phương án kinh doanh có ý nghĩa như một văn bản đệ
trình lên cấp trên để xin phép thực hiện. Đối với dự án này thuộc nghiệp
vụ của phòng nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Do đó phương án
kinh doanh được lập lên để trình lên cấp trên xin phép thực hiện. Đối với
những công ty trực thuộc tổng công ty lớn, phương án kinh doanh được
công ty lập sau đó chuyển lên tổng công ty nhờ phê chuẩn.
Ngoài ra phương án kinh doanh còn là cơ sở để xin cấp vốn cho một
dự án. Một dự án muốn đi vào thực hiện thì không thể không có vốn, mặt
khác một lượng cho một dự án là vốn vay chủ yếu của ngân hàng hoặc của
các tổ chức tài chính tiền tệ. Vì vậy sự tồn tại của một dự án phụ thuộc vào
tính thuyết phục của một phương án kinh doanh đối với các nhà đầu tư và
đặc biệt là đối với ngân hàng là quyết định cho vay hay không. Trên cơ sở
sự nghiên cứu của phương án kinh doanh của doanh nghiệp thì được vay
nhiều hay ít cũng phụ thuộc vào tính khả thi đó.
Như vậy việc lập một phương án kinh doanh có tính thuyết phục hay
không sẽ quyết định sự tồn tại hay không của một dự án.
Doanh nghiệp sẽ bàn giao kế hoạch này cho phòng nghiệp vụ và đây
sẽ là một cơ sở nữa cho phòng nghiệp vụ nghiên cứu để lập một phương
án kinh doanh.
Như vậy phương án kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng và to lớn với
hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là một phần
quan trọng trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đơn vị và có
ảnh hưởng to lớn đến tổng công ty. Một phương án kinh doanh tốt sẽ có lợi
cho cả hai bên đối tác làm ăn, nó quyết định sự tồn tại hay không của dự
án và quyết định đến cả mức độ thành công, lợi ích và lợi nhuận thu về của
dự án sau khi thực hiện.
II. Giới thiệu chung về công ty
2.1. Sơ lược về công ty :
Tên Công ty: Công ty CP Chế biến Thuỷ sản Xuất khẩu Minh
Trang
Tên tiếng Anh: Minh Trang Export Frozen Seafood Processing
Joint-Stock Company
Mã doanh nghiệp: 125DH 43, DH 198
Giám đốc: Ông Phạm Lê Minh
Người giao dịch: Ông Phạm Lê Minh
Chức vụ: Giám đốc
Địa chỉ: Số 156 Đường Thích Thiện Ân – Phường Vĩnh Bảo Thành Phố Rạch Giá, Tỉnh Kiên Giang,Việt Nam
Fax: (84) 773.788.695 /3. 846471
Nhân công: 1300
Loại hình doanh nghiệp: Cổ phần
Ghi chú: Đó được phép xuất khẩu sang thị trường châu Âu,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Canađa, Thuỵ Sĩ, Mỹ, Singapo,…
Website: www.minhtrangjotoco.com
Tên giao dịch: Minh trang JOSTOCO
Điện thoại cơ quan: (84) 773.788.695 /3. 846471
Năm thành lập: 2000
Email:
[email protected]
Loại hình kinh doanh: Chế biến kinh doanh thuỷ sản đông lạnh
xuất khẩu và tiêu thụ nội địa
Thành phố: Rạch Giá, Tỉnh Kiên Giang
Tài khoản: 718A0058900756 Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam
Danh sách sản phẩm chính: Cá tra đông lạnh, Tôm đông lạnh,
Cá basa đông lạnh
Danh sách thị trường: Pháp, Tây Ban Nha, Na Uy, Italy, Ai
Cập, Mỹ..
Danh sách tiêu chuẩn:
Được chứng nhận đáp ứng các yêu cầu về an toàn
vệ sinh thực phẩm theo các nguyên tắc HACCP của U.S.F.D.A
Được E.U cấp mã số xuất khẩu vào E.U
Được cấp chứng nhận HTQLCL đạt tiêu chuẩn ISO
9001:
Được cấp chứng nhận HTQLCL đạt tiêu chuẩn SQF
Được cấp chứng nhận HTQLCL đạt tiêu chuẩn
2000
B.R.C
Đạt giải thưởng chất lượng Vàng Việt Nam
2.2. Giới thiệu về các phòng ban trong công ty :
Công ty có các phòng ban như sau :
Phòng giám đốc
Phòng kế hoạch
Phòng kế toán tài vụ
Phòng kỹ thuật
Phòng kiểm tra chất luợng
Phòng tổ chức hành chính
Phân xưởng sản xuất
III. Cơ sở pháp lí lập phương án kinh doanh :
3.1. Cơ sở pháp lí
Để lập phương án kinh doanh xuất khẩu tôm đông lạnh cho năm
2007 công ty của chúng tôi căn cứ vào các điều kiện sau :
Căn cứ vào luật thương mại 2005 của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quy định các quyền hạn và trách
nhiệm pháp lý về kinh doanh thương mại quốc tế.
Căn cứ vào Nghị định 12 NĐ - CP ra ngày 23/01/2006 quy
định và hướng dẫn chi tiết về việc thực hiện bộ luật thương mại 2005
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Căn cứ này cụ thể
hóa việc thực hiện quyền hạn và trách nhiệm.
3.2. Căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh của công ty
trong 5 năm gần nhất
N
ăm
Giá trị xuất
theo
năm
USD)
2
> 26
004
2
33
005
2006
2
00845,5
2
> 38
41,7
(triệu
007
3.3. Cơ sở thực tiễn
3.3.1. Hợp đồng đặt hàng của bạn hàng:
a. Thư chào hàng
FROM : Minh Trang Export Frozen Seafood Processing JointStock Company
Adress : 156 Thich Thien An Str - Rach Gia City - Kiên Giang ProViet Nam
Tel
: 077.3788.695
Fax
:077.3846.471
Email :
[email protected]
SELL OFFER
At present, our company can supply Pangasius / Sutchi catfish
fillet, tuna, canned fish. . . With large quantity and lowest price get
NAFIQUAVET, IZO, HACCP. . Enter EU, USA. . .
If you are interesed in these products. Please dont hesitate contact to
us at anytime.
We are looking forward receiving your order soonest .
Thanks and best regards.
Your sincerely
General director
b.Nhận đơn đặt hàng từ công ty CHRYSLER tại Austraylia
From: CHRYSLER Co. Ltd
900 Sheridan Ave, Rm 6A14
Bronx, Austraylia
(718) 590-3191
To: Minh Trang Export Frozen Seafood Processing Joint-Stock
Company
156 Thich Thien An Str - Rach Gia City - Kiên Giang Pro-Viet Nam
ORDER
Dear Ms ,we are interested in your advertising on
[email protected]
And are happy to order you the goods on the following terms
and conditions :
1. Commodity: Sutchi catfish ( Pangasius hypophthalmus)
2. Unit price:2.600 USD/MT – FOB Sai Gon - Incoterm 2000.
3. Quality:GMQ
4. Quantity:50 MT
5. Total:130.000 USD
6. Delivey:in April 2nd
7. Payment: To be made by an irrevocable L/C at sight, against
shipping.
In the meantime , we are looking for ward to hearing from you
within 10 days .
Your sincerely
Marketing Manager
3.3.2. Kết quả nghiên cứu ngành thủy sản nói chung:
Ngành Thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế đất nước. Quy mô của Ngành Thuỷ sản ngày càng mở rộng và
vai trò của Ngành Thuỷ sản cũng tăng lên không ngừng trong nền kinh tế
quốc dân. Có thể nói 50 năm qua, ngành thuỷ sản đạt được những kết quả
rất tự hào và đáng được tôn vinh. Trước hết ngành đã đi đầu trong việc đổi
mới cơ chế quản lí, được Chính phủ ưu tiên cơ chế để lại 70% giá trị kim
ngạch XK thuỷ sản nhằm tái đầu tư cơ sở hạ tầng nghề cá và nghiên cứu
khoa học chuyên ngành. Từ đó ngành đó có bước đột phá mạnh và là một
trong những ngành chủ động hội nhập kinh tế thế giới sớm nhất.
Để có nguồn thuỷ sản XK ổn định, ngành đã sớm chủ động hoàn
thiện quy trình công nghệ SX giống ngang tầm thế giới. Đặc biệt cả nước
đã hình thành một hệ thống chế biến thuỷ sản, công nghệ hiện đại với 350
Nhà máy, tạo ra sản phẩm XK chinh phục thị trường khó tính nhất. Về
nuôi trồng thuỷ sản, đó chuyển từ thủ công truyền thống sang nền SX theo
hướng công nghiệp hiện đại. Nhờ đó đó đạt Top đầu thế giới về sản lượng
nuôi trồng và XK.
a, Giai đoạn từ 1995 -2007
- Theo số liệu của tổng cục thống kê, trị giá xuất khẩu hàng thuỷ sản
tăng từ 621.4 triệu USD năm 1995 lên 3763.4 triệu USD năm 2007, ước
tính hơn 6 lần, giữ vị trí rất quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá của cả nước.
- Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản cũng tăng liên tục trong
các năm, thể hiện qua bảng sau
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng số
2250.5
2434.7
2647.4
2859.2
3142.5
3465.9
3720.5
4149.0
Chia ra
Khai thác
Nuôi trồng
1660.9
589.6
1724.8
709.9
1802.6
844.8
1856.1
1003.1
1940.0
1202.5
1987.9
1478.0
2026.6
2063.8
1693.9
2085.2
b, Năm 2008:
Tổng sản lượng thủy sản năm 2008 ước đạt 4,58 triệu tấn, mức cao
nhất từ trước tới nay. Sản lượng khai thác thủy sản đạt 2,13 triệu tấn, trong
đó sản lượng khai thác hải sản đạt 1,94 triệu tấn, tăng 2,9 % so với năm
2007. Sản lượng nuôi trồng thủy sản đó vượt qua sản lượng khai thác thủy
sản, đạt 2,45 triệu tấn, tăng 15,3 % so với năm 2007. Đặc biệt, kim ngạch
xuất khẩu đó đạt mức tăng trưởng cao, vượt qua mốc 4 tỷ USD, đạt
khoảng 4,5 tỷ USD, tăng hơn 700 triệu USD (19,6 %) so với năm trước.
Giá trị sản xuất của ngành thủy sản năm 2008 (theo giá cố định năm
1994) tăng 6,69% so với năm 2007. Đó là những kết quả xứng đáng với sự
nỗ lực chung của hàng triệu lao động trong mọi lĩnh vực hoạt động của
ngành, từ các cấp quản lý đến .
Nuôi trồng thủy sản tiếp tục là lĩnh vực có sự tăng trưởng mạnh theo
hướng sản xuất hàng hóa. Sản lượng nuôi thủy sản năm 2008 đạt hơn 33
nghìn tỷ đồng. Cá tra tiếp tục tăng trưởng mạnh và trở thành mặt hàng xuất
khẩu chủ lực sau tôm, đóng góp tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam.
Theo thống kê, xuất khẩu tôm 11 tháng năm 2008 đạt 176,29 nghìn
tấn (tăng 20,37% so với cùng kỳ năm 2007) với giá trị gần 1,5 tỷ USD
(tăng 8,98%). Xuất khẩu cá tra, basa trong 11 tháng năm 2008 đạt 584,7
nghìn tấn với giá trị 1,33 tỷ USD, tăng 66,65% về khối lượng và 48,84%
về giá trị so với cùng kỳ năm 2007. Các mặt hàng khác như mực, cá ngừ,
các loại cá khác vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Các thị trường
truyền thống vẫn duy trì ổn định. Đến hết tháng 11-2008, EU tiếp tục là thị
trường tiêu thụ thủy sản lớn nhất của Việt Nam, duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao, chiếm 25,35% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, tăng 27,98% về
giá trị so với cùng kỳ năm 2007.
Tiếp đến là Nhật Bản, chiếm tỷ trọng 18,07 %, tăng 11,53% và thị
trường Mỹ chiếm 16,21%, tăng 3,85 %. Nhiều thị trường mới, trong những
năm gần đây, có mức tăng trưởng đáng kể như Nga, U-crai-na và cả ở khu
vực châu Phi, mở ra tiềm năng thâm nhập vào các thị trường mới của mặt
hàng thủy sản Việt Nam.
c, Năm 2009
Tính chung 4 tháng đầu năm 2009, tổng sản lượng thuỷ sản ước tính
đạt 1383,1 nghìn tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó cá đạt
1060,2 nghìn tấn, tăng 4,5%; tôm 118,2 nghìn tấn, tăng 3,6%. Sản lượng
thuỷ sản nuôi trồng 4 tháng đầu năm 2009 ước tính đạt 580,6 nghìn tấn,
giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước do người nuôi thiếu vốn đầu tư hoặc
chưa ký được hợp đồng tiêu thụ ổn định lâu dài với các doanh nghiệp nên
diện tích thả nuôi tăng chậm. Sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 802,5 nghìn
tấn, tăng 8,8%, mức tăng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, chủ yếu do
khai thác biển tăng khá, đạt 741,7 nghìn tấn, tăng 9,6% so với cùng kỳ
năm trước. Đặc biệt khai thác cá ngừ đại dương được mùa và được giá,
trong đó Bình Định khai thác được 2,5 nghìn tấn, tăng 51,5% so với 4
tháng đầu năm 2008; Phú Yên 2,2 nghìn tấn, tăng 15,7%.
Tổ chức Nông Lương Liêp Hiệp quốc (FAO) dự báo tổng sản lượng
thuỷ sản của thế giới sẽ tăng từ 129 triệu tấn năm lên 159 triệu tấn vào
năm 2010 và 172 triệu tấn vào năm 2015 với tốc độ tăng trưởng bình quân
2,1%/năm trong giai đoạn đến 2010 và 1,6%/năm giai đoạn 2010 - 2015,
chủ yếu nhờ tăng sản lượng thuỷ sản nuôi. FAO dự báo tổng nhu cầu thuỷ
sản và các sản phẩm thuỷ sản trên thế giới sẽ tăng gần 50 triệu tấn, từ 133
từ 133 triệu tấn năm 1999/2000 lên đạt 183 triệu tấn vào năm 2015 với tốc
độ tăng trưởng bình quân 2,1%/năm.
3.3.3. Thị trường cá tra trong nước:
ĐBSCL vốn có truyền thống nuôi cá tra từ lâu. Trước đây, cá tra
được nuôi phổ biến trong ao, đăng quầng, bãi bồi và nuôi lồng bè. Đến nay
cá tra đã được nuôi ở hầu hết các tỉnh, thành trong khu vực, đáp ứng được
nhu cầu tiêu thụ nội địa và cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nuôi cá thương phẩm
thâm canh tại ĐBSCL có năng suất khá cao do phần lớn hộ nuôi đều được
tập huấn nuôi sạch theo tiêu chuẩn SQF. Cụ thể, cá tra nuôi trong ao đạt
tới 200-300 tấn/ha, cá tra nuôi trong bè đạt từ 100-150kg/m3/bè.
Cùng với sự thành công về năng suất chăn nuôi, ngành công nghiệp
chế biến cá tra cũng có sự tiến bộ vượt bậc. Nếu thời điểm năm 2005, toàn
vùng ĐBSCL chỉ có 103 nhà máy chế biến đông lạnh với tổng công suất
thiết kế đạt trên 638 ngàn tấn, trong đó có 36 nhà máy có chế biến cá tra,
tổng công suất thiết kế đạt gần 273 ngàn tấn/năm. Đến tháng 6/2008, số
lượng nhà máy có chế biến cá tra đã tăng lên thành 84 nhà máy với tổng
công suất đạt gần 1 triệu tấn/năm, tập trung chủ yếu tại các địa phương
như: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Tiền Giang.
Mặc dù diện tích nuôi được mở rộng, năng suất, sản lượng và kim
ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm song nghề nuôi cá tra khu vực
ĐBSCL vẫn chưa thật ổn định và bền vững. Trong sản xuất vẫn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ về ô nhiễm môi trường, biến động về thị trường, giá cả.
Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 2008, người nuôi cá tra lại
đang đứng trước nguy cơ thua lỗ do chi phí sản xuất tăng ở mức 14.00015.500 đ/kg (tương đương với giá bán ở thị trường). Điều đáng nói là
trong chăn nuôi cá tra, chi phí thức ăn chiếm tỷ trọng rất lớn, nhất là trong
giai đoạn trước khi thu hoạch. Chính vì vậy, dù Nhà nước đã đưa ra 1.000
tỷ đồng hạn mức tín dụng cho các DN thu mua nguyên liệu để giải quyết
đầu ra cho cá tra nhưng khả năng thu mua hết sản lượng cá nuôi trong dân
là rất khó do bởi theo tính toán, nếu tất các các cơ sở chế biến hoạt động
hết công suất thì cũng chỉ tiêu thụ được khoảng 3.000 tấn/ngày. Như vậy
mỗi tháng cũng chỉ tiêu thụ được gần 100 ngàn tấn nguyên liệu.
Sang đầu năm 2009, người nuôi cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL lại
nhận được nhiều tin tức có lợi từ thị trường thế giới. Đầu tháng 2-2009, giá
bán lẻcá tra nguyên liệu loại 1 tại ĐBSCL ở mức 15.700 - 16.000 đồng/kg.
Trong tháng 3, giá cá tra nguyên liệu loại 1 tăng nhẹ và đứng mức 16.000 16.200 đồng/kg... Từ đầu tháng 4 đến nay, giá cá tra nguyên liệu tiếp tục
tăng và đứng mức 16.500 - 17.000 đồng/kg. Trong khi đó, theo thông tin
từ Hiệp hội thủy sản các tỉnh, thành ĐBSCL, tỷ lệ cá tra nguyên liệu cho 1
thành phẩm cá phi lê đang giảm dần nhưng mức lợi nhuận mang lại thì thu
hẹp. Trước đây, tỷ lệ này là 3/1, sau đó là 2,7/1, 2/1. Với 2kg cá nguyên
liệu để chế biến 1kg cá phi lê, giá bán trung bình khoảng 2,2USD/kg thì
mức lãi các doanh nghiệp thu được chỉ ở mức khiêm tốn. Trên thực tế,
nhiều doanh nghiệp tập trung tăng lượng xuất khẩu để tăng lợi nhuận hơn
là việc tăng giá chào bán. Điều này chưa kể tình trạng một số doanh
nghiệp hạ chất lượng cá tra kéo theo giá bán giảm. Ngoài ra, theo dự báo
của nhiều chuyên gia kinh tế, tác động khủng hoảng tài chính thế giới có
khả năng sẽ kéo dài sang năm 2009.
3.3.4. Thị trường cá tra xuất khẩu:
a, Thị trường thế giới:
Thị trường cá tra Việt Nam được mở rộng sang 107 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Hiện nay không có thị trường nào chiếm tỷ lệ xuất quá lớn
như thị trường Mỹ trước đây (khoảng 90%), ngay cả EU - thị trường lớn
nhất cá tra VN hiện nay cũng chỉ chiếm khoảng 39,2%. Có thể nói, đây là
một sự thần kỳ, tạo thế đứng vững chắc cho con cá tra VN trên thế giới.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP),
cá tra hiện đóng góp khoảng 2,0% GDP của cả nước. Năm 2008, xuất khẩu
sản phẩm cá tra, basa đạt 640.829 tấn, chiếm 51,8% tổng sản lượng thủy
sản xuất khẩu cả nước, tăng 65,6% so năm 2007, đạt 1,453 tỷ USD, chiếm
32,2% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, tăng 48,4% so năm 2007.
Nhóm sản phẩm cá tra hiện chỉ sử dụng một diện tích rất nhỏ để nuôi
khoảng 6.000 ha mặt nước, bằng 1% diện tích nuôi tôm. Trong khi đó, sản
phẩm này hầu như chưa đòi hỏi đầu tư nhà nước, có năng lực cạnh tranh
để chiếm tỷ trọng quan trọng trên thị trường cá thịt trắng quốc tế.
Xuất khẩu cá tra basa tháng 1/2009 giảm 22,7% về giá trị, đạt 74,84
triệu USD, với 32.752 tấn, giảm 22,5% so tháng 1/2008. EU đứng đầu về
nhập khẩu mặt hàng này chiếm 45,1% tỷ trọng, đạt 13.720 tấn, trị giá
33,735 triệu USD, giảm 22,7% về khối lượng và 22,2% về giá trị so cùng
kỳ.
Bảng số liệu dưới đây cho thấy kim ngạch xuất khẩu cá tra ở Việt
Nam sang thị trường thế giới:
THỊ
TRƯỜNG
Xuất khẩu trong tháng 9/2008
So với
1/19/2007(%)
9/2008
30/9/200
Giá trung
8
bình
KL
EU
Tây Ban
Nha
Đức
%K
L
%G
T
24.08
60,409 76,5
2
67,6
3.072
GT
8,348
4.691 11,462
Hà Lan
3.163
8,944
Ba Lan
7.055 15,457
NGA
13.94
22,242
0
UCRAINA 9.687 18,694
ASEAN
2.298
4,713
Singgapo
899
1,964
Thái Lan
210
0,557
MỸ
2.278
7,694
MÊHICÔ
3.378
7,963
AI CẬP
2.632
5,181
200 200
8
7
2,5
1
2,7
4,3
4,6
2
118,
2,4
93,3
8
4
2,8
64,8 62,9
3
2,1
84,0 75,1
9
212, 174, 1,6
9
5
0
187, 259, 1,9
4
6
3
2,0
-17,9 -25,3
5
2,1
13,0 3,4
8
2,6
73,0 72,8 5
3,3
32,2 42,4
8
131, 112, 2,3
9
5
6
242, 161, 1,9
5
7
7
2,6
4
2,7
1
2,7
7
2,8
6
2,3
0
1,8
2
1,5
4
2,2
5
2,3
9
2,6
4
3,1
4
2,5
7
2,5
8
Xuất khẩu từ 1/1-30/9/2008
So với 2007 (%)
%K
L
%G
T
165.52
424,379 34,3
6
39,2
31,7
37.652
98,169
7,8
9,1
45,0
29.505
75,089
6,1
6,9
54,7
25.261
68,886
5,2
6,4
10,1
24.734
54,043
5,1
5,0
97.322 155,673 20,2
14,4
57.736 104,749 12,0
9,7
26.483
59,319
5,5
5,5
4,9
8.847
19,909
1,8
1,8
-5,5
6.936
18,996
1,4
1,8
17,1
18.151
58,739
3,8
5,4
11,4
17.221
43,425
3,6
4,0
80,9
17.326
36,528
3,6
3,4
373,
7
249,
4
KL
GT
%K
L
11,5
249,
6
240,
4
1,9
5
1,9
6
1,9
13.817
3
1,9
12.821
9
78,7
86,4
Q&HỒNG 1.575
KÔNG
3,074
26,3
27,6
Hồng Kông 1.536
3,011
28,2
26,3
10.10
115,
23,366
3
6
69.97 153,33 104,
2
6
9
CÁC
NƯỚC
KHÁC
TỔNG
CỘNG
26,746
2,9
2,5
0,4
25,017
2,7
2,3
-0,4
2,3
1
2,7
69.091 171,744 14,3
9
15,9
104,
6
2,1
9
2,4 482.67 1081,30
1
3
2
100
77,0
100
b, Thị trường Austraylia:
Hiện nay tiêu thụ thủy sản tại thị trường Austraylia đang ngày một
tăng, nên mỗi năm Austraylia phải nhập khẩu tới 50% lượng thủy sản cho
tiêu dùng nội địa. Trong đó nhập khẩu nhóm hàng cá philê đông lạnh
chiếm một tỷ trọng khá lớn từ Trung Quốc, Việt Nam, các nước Đông
Nam Á khác và New Zealand.
Mặt hàng cá tra, basa của Việt Nam xuất khẩu đang được rất nhiều quốc
gia trên thế giới ưa thích. Riêng ở Austraylia mặt hàng cá tra (không tính
cá basa) đang được người dân tại các thành phố lớn đặc biệt ưa thích vì
chất lượng dinh dưỡng, hợp khẩu vị và giá thành cũng rất cạnh tranh so
với các loại cá da trơn cùng loại. Trên thực tế xuất khẩu mặt hàng này của
Việt Nam tới Austraylia đang tăng mạnh kể từ đầu năm 2008 đến nay.
Năm 2008, Về cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam tới
Austraylia thì cá tra đông lạnh chiếm 55,2% về lượng đạt 2,4 nghìn tấn và
37,6% về kim ngạch đạt 7,6 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2007, xuất
khẩu mặt hàng này tăng 39% về lượng và 25% về kim ngạch. Ngòai cá tra
đông lạnh xuất khẩu của Việt Nam tới Austraylia tăng mạnh, còn có các
-