Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của nho giáo khổng mạnh và ý nghĩa của nó trong...

Tài liệu Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của nho giáo khổng mạnh và ý nghĩa của nó trong việc giáo dục đạo đức sinh viên việt nam hiện nay

.PDF
78
312
130

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HOÀNG THỊ THU THUỶ NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60 22 03 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THANH BÌNH HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thanh Bình.Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 10 tháng 1 năm 2016 Tác giả Hoàng Thị Thu Thủy MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ...................................................... 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................... 6 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................... 6 6. Đóng góp khoa học, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .......... 7 7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 7 NỘI DUNG................................................................................................... 8 CHƢƠNG 1 QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH VỀ CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN ............................................... 8 1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính và vai trò của con ngƣời - cơ sở xuất phát cho sự hình thành học thuyết đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh. ............................................................................ 8 1.1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính con người. ... 9 1.1.2. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về vai trò của con người....... 13 1.2. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tƣ tƣởng đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh. .......................................................................... 19 1.2.1 Đức Nhân .......................................................................................... 20 1.2.2 Đức Lễ................................................................................................ 23 1.2.3 Đức Nghĩa.......................................................................................... 26 1.2.4. Đức Trí .............................................................................................. 29 1.2.5. Đức Tín ............................................................................................. 31 1.2.6. Đức Hiếu........................................................................................... 33 1.2.7 Đức Trung ......................................................................................... 35 CHƢƠNG 2 Ý NGHĨA CỦA CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY .................................. 38 2.1. Ảnh hƣởng của các chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh đối với sinh viên Việt Nam hiện nay.............................. 38 2.2. Ý nghĩa của những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay. ..................................................................................................... 54 KẾT LUẬN ................................................................................................ 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 70 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nho giáo là một trong những học thuyết ra đời từ rất sớm tại Trung Quốc và có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội. Trong lịch sử, Nho giáo có sự giao thoa với các nền văn hóa khác nhau và đã để lại dấu ấn nhất định ở các nước vùng Đông Nam Á, Bắc Á... đặc biệt là ở một số nước từng lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng như Nhật Bản,Triều Tiên...Tại Việt Nam, từ những năm đầu thế kỷ I, Nho giáo đã chính thức thâm nhập và từ đó trở đi, Nho giáo Việt Nam theo thời gian, ngày càng có sức ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức của dân tộc ta. Đạo đức Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo Khổng - Mạnh mà nội dung chủ yếu là quan niệm về những chuẩn mực đạo đức cơ bản như Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín... đã dần thấmsâu vào tư tưởng, lối sống, hành động của bao thế hệ người Việt, trở thành những chuẩn mực đạo đức cần thiết mà người Việt Nam hướng tới, hoàn thiện. Đất nước ta đang trên con đường thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, tham ô, tham nhũng, ăn chơi sa đọa... đã và đang làm băng hoại những giá trị đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam. Mặt trái của cơ chế thị trường đã khiến cho một bộ phận dân chúng nói chung, tầng lớp sinh viên nói riêng hình thành lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, bất chấp luân thường đạo lý. Điều này đã trở thành lực cản trên con đường xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta. Để xây dựng thành công đất nước theo con đường Đảng và nhân dân đã lựa chọn thì cần có sự góp sức không nhỏ vai trò của sinh viên Viêt Nam bởi họ là lực lượng tri thức trẻ, có khả năng nắm bắt nhanh nhất những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật tiên tiến, họ sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trên nhiều mặt trận xây dựng và phát triển đất nước. Lịch 1 sử nhân loại đã chỉ ra rằng, sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc phần lớn vào thế hệ thanh niên, sinh viên. Nhưng do tuổi còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm sống, cho nên sinh viên cần có sự chăm lo, bồi dưỡng của các thế hệ đi trước và của toàn xã hội. Chính vì vậy cần thiết phải thường xuyên giáo dục, đào tạo về kiến thức, đạo đức, lối sống cho sinh viên. Sinh viên Việt Nam với số lượng khoảng hơn 2 triệu người đã và đang học tập, rèn luyện về chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp để chuẩn bị hành trang bước vào đời sống tự lập một cách hăng say, tích cực. Bên cạnh việc giáo dục, đào tạo kiến thức và năng lực thực hành thì sinh viên còn phải được giáo dục và rèn luyện các phẩm chất đạo đức cần thiết cho mình. Nhìn chung hiện nay, sinh viên Việt Nam đều chăm chỉ học tập, rèn luyện tri thức và đạo đức, đã có rất nhiều tấm gương tiêu biểu của sinh viên về học tập, rèn luyện đạo đức nhưng cũng có một bộ phận sinh viên do sống xa gia đình, hàng ngày tiếp xúc với xã hội bên ngoài nên dễ dàng chịu ảnh hưởng từ những tiêu cực của xã hội dẫn đến suy đồi đạo đức, lối sống như ăn chơi, đua đòi, coi thường các chuẩn mực đạo đức cơ bản với quan niệm cho rằng những chuẩn mực đạo đức đó là lỗi thời, lạc hậu. Từ đó tác động xấu và ảnh hưởng tiêu cực trở lại tới tâm lý, suy nghĩ và hành vi trong một bộ phận sinh viên nói chung. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và sẽ rất cần những lớp sinh viên ưu tú đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Để xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước thì ngoài việc trau dồi kiến thức, sinh viên cần phải chú trọng trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp... Và để thực hiện được điều đó, một trong những biện pháp quan trọng là cần phải biết tiếp thu và phát huy mặt tích cực của các chuẩn mực đạo đức trước kia, trong đó không thể bỏ các chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh. Việc kế thừa và phát huy những yếu tố tích cực của đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh, đồng thời đứng trên 2 lập trường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ những yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn cách mạng của nước ta để xây dựng và hoàn thiện đạo đức sinh viên Việt Nam sẽ giúp nâng cao hơn nữa bản lĩnh của sinh viên, giúp sinh viên đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại. Với ý nghĩa đó, việc tìm hiểu ý nghĩa của việc giáo dục những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh đối với sinh viên Việt Nam hiện nay là vấn đề hết sức cấp thiết. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn lựa chọn vấn đề: “Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh và ý nghĩa của nó trong việc giáo dục đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn của mình với mục đích góp phần nhỏ vào việc tìm hiểu ý nghĩa tích cực của đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu về nội dung và những giá trị đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh, để trên cơ sở đó nhằm giáo dục, kế thừa và phát huy những giá trị này không phải là những vấn đề mới, vì đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Ở Trung Quốc có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Bàn về Khổng Tử” của Quan Phong, Lâm Duật Thời (Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, 1963); “Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc” của Lã Trấn Vũ (Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, 1964)... Phần lớn trong những công trình này các tác giả đề cập tới những nội dung, giá trị và hạn chế trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh và mối quan hệ của nó với tư tưởng chính trị, giáo dục. Trong nghiên cứu về Nho giáo của các tác giả trong nước phải kể tới tác giả Nguyễn Hiến Lê với: “Khổng Tử”, “Mạnh Tử”, “Đại cương triết học Trung Quốc” (viết chung với Nguyễn Giản Chi); Nguyễn Đăng Thụ với 5 tập sách “Lịch sử triết học phương Đông”. Bên cạnh đó, còn có các tác 3 phẩm khác như: “Nho giáo xưa và nay” (Quang Đạm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1991); “Bàn về đạo Nho” ( Nguyễn Khắc Viện, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 1993) ; “Nho giáo tại Việt Nam” (Viện Triết học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội , 1994); Phan Văn Các, 1991, “Việc nghiên cứu Khổng Tử và Nho giáo ở Trung Quốc trong thập kỷ 80”, “Nho học và Nho học Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Nguyễn Tài Thư, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997)... Các công trình nghiên cứu trên đều đề cập đến nhiều nội dung cơ bản của Nho giáo nói chung và Nho giáo Khổng - Mạnh nói riêng trong đó có tư tưởng, học thuyết đạo đức. Mặc dù mỗi công trình ấy đều có những phương pháp tiếp cận và dung lượng nội dung nghiên cứu khác nhau, nhưng nhìn chung, đều đưa ra những giá trị và hạn chế chung trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh đồng thời đặt ra vấn đề sự cần thiết phải kế thừa một số mặt tích cực trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh nhằm góp phần xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay. Đặc biệt là trong thời gian gần đây, đã có một số luận án tiến sỹ và thạc sỹ nghiên cứu sự ảnh hưởng của Nho giáo và vai trò của việc giáo dục đạo đức Nho giáo đối với từng nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu có luận án tiến sỹ “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với việc xây dựng đạo đức người cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Bình, bài viết “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hoàn thiện con người” của tác giả Nguyễn Thanh Bình (Tạp chí Triết học, số 9, tháng 9/2002), luận án tiến sỹ “Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai ....hay một số luận văn thạc sỹ như “Tìm hiểu tư tưởng Nhân - Lễ và mối quan hệ giữa Nhân và Lễ trong tác phẩm Luận ngữ” của Phan Minh Nhật, “Học thuyết đạo đức Nho giáo và vận dụng nó vào việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay” của Ngô Thị Mai... 4 Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu khá nhiều nội dung, nhiều phương diện trong học thuyết đạo đức của Nho giáo (chủ yếu là trong Nho giáo Khổng - Mạnh) và ảnh hưởng, vai trò của nó đối với xã hội và con người Việt Nam trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên những công trình này chưa đề cập sâu và có hệ thống về nội dung và vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục các chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín...cho sinh viên Việt Nam hiện nay. Do đó, trong luận văn này của mình, tác giả cố gắng đi sâu vào nghiên cứu để làm rõ một số nội dung trong quan niệm về các chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh đồng thời bước đầu chỉ ra ý nghĩa của việc giáo dục những chuẩn mực đạo đức này trong quá xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về các chuẩn mực đạo đức cơ bản và vai trò của nó trong việc giáo dục đạo đức cho con người nói chung, luận văn rút ra một số ý nghĩa tích cực của việc cần thiết giáo dục các chuẩn mực đạo đức trong Nho giáo Khổng - Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: - Trình bày quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính của con người, với tư cách là các quan niệm xuất phát để Nho giáo Khổng Mạnh đề xuất các chuẩn mực đạo đức cơ bản. - Phân tích làm rõ các khía cạnh, phương diện trong một số chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay. 5 - Rút ra ý nghĩa tích cực của sự cần thiết giáo dục các chuẩn mực đạo đức trong Nho giáo Khổng - Mạnh cho sinh viên Việt Nam hiện nay, nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là các chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh và ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh cho sinh viên Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn là các tác phẩm của Nho giáo Khổng - Mạnh (chủ yếu các cuốn sách Luận ngữ, Mạnh Tử) và thực trạng đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, do số lượng sinh viên Việt Nam hiện nay ở các trường đại học rất nhiều, lại có ở phần lớn các tỉnh, thành phố trong cả nước, do vậy tác giả chỉ có thể khảo sát việc giáo dục đạo đức ở một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội mà thôi. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là những nguyên lý cơ của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức cho người Việt Nam nói chung, cho đội ngũ sinh viên Việt Nam nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn tham khảo và kế thừa một số thành tựu nghiên cứu trong một số công trình khoa học khác đã được công bố có liên quan đến đề tài luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp lịch sử - logic, phân tích và 6 tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học... để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề tài luận văn đặt ra. 6. Đóng góp khoa học, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng rõ vai trò và ý nghĩa của các chuẩn mực đạo đức cơ bản trong Nho giáo Khổng - Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay.Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập các môn lý luận chính trị, chuyên ngành triết học, đạo đức học... ở trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn gồm 2 chương, 8 tiết. 7 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH VỀ CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN 1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính và vai trò của con ngƣời - cơ sở xuất phát cho sự hình thành học thuyết đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh. Có thể nói, Nho giáo (mà giai đoạn đầu tiên của lịch sử Nho giáo là Nho giáo Khổng - Mạnh) là một trong những học thuyết có sức sống mãnh liệt trong lịch sử của nhiều nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nó đã vượt qua thử thách của không gian và thời gian để trường tồn cho đến ngày nay. Nho giáo không chỉ có ảnh hưởng tại nơi nó sản sinh ra là vùng Hoa Hạ mà theo thời gian, nó đã lan tỏa sự ảnh hưởng ra khắp Trung Hoa, sang cả các nước trong vùng Đông Á, Bắc Á, Đông Nam Á như: Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Trải qua hơn 2500 năm tồn tại và cho đến đến ngày nay, Nho giáo vẫn ảnh hưởng và có vai trò nhất định đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người. Khổng Tử được coi là người sáng lập ra Nho giáo và ông là người tiêu biểu nhất trong số các nhà Nho. Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của ông được các học trò kế tục nhưng được phân chia thành nhiều phái, mỗi phái lại bổ sung, phát triển về nội dung, tính chất khác nhau so với tư tưởng đạo đức của Khổng Tử. Phái đạo đức của Tăng Tử ở nước Lỗ truyền đến thế kỷ IV TCN thì có Mạnh Kha (372 - 289 TCN) tự là Dư, thường được gọi là Mạnh Tử, là thế hệ học trò thứ tư đã tiếp tục phát triển tư tưởng đạo đức của Khổng Tử. Sau đó khoảng 40 - 50 năm, Tuân Tử (298-239 TCN) cũng kế thừa tư tưởng Khổng Tử nhưng theo hướng khác. Thời Xuân Thu Chiến quốc, Nho giáo thường được gọi là Nho giáo Khổng - Mạnh và từ khi ra đời, được truyền bá vào Việt Nam đến nay, học thuyết của Nho giáo Khổng - Mạnh (đặc biệt là học thuyết đạo đức) đã được nhân dân ta tiếp 8 nhận và lưu truyền từ đó cho đến nay. Ảnh hưởng của các học thuyết Nho giáo Khổng - Mạnh đến đời sống xã hội Việt Nam không chỉ dưới thời phong kiến mà hiện nay một số ảnh hưởng vẫn còn biểu hiện trong lối sống, suy nghĩ, hành động của các tầng lớp nhân dân. Qua nghiên cứu nội dung các tác phẩm của Nho giáo Khổng - Mạnh có thể thấy rằng, vấn đề con người là một trong những vấn đề cơ bản nhất trong học thuyết của Nho giáo Khổng - Mạnh. Bởi vì, theo quan niệm của các nhà Nho, vấn đề con người ảnh hưởng và có quan hệ trực tiếp đến việc củng cố, ổn định trật tự, kỷ cương xã hội. Đặc biệt xã hội Trung Quốc thời Khổng - Mạnh là xã hội hỗn loạn như Khổng Tử đã chỉ rõ: “vua không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con”. Chính vì vậy mà vấn đề con người đã được Nho giáo Khổng - Mạnh đề cập, bàn luận trong cả học thuyết đạo đức, học thuyết triết học, học thuyết chính trị xã hội, học thuyết giáo dục, v.v… 1.1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính con người. Có một thực tế là, cùng đề cập đến vấn đề bản tính con người, song ở mỗi một trường phái triết học Trung Quốc lại có những cách nhìn nhận, bàn luận khác nhau về vấn đề bản tính người (nhân tính, tính người). Nội dung cơ bản trong quan niệm về tính người ở Nho giáo Khổng Mạnh bao gồm: Bản tính của con người là gì và do đâu mà có? Bản tính ấy có thể thay đổi, có thể cải tạo được hay không và nếu cải tạo được thì để nhằm mục đích gì? Ai hay lực lượng nào có thể cải tạo và cải tạo bằng phương thức nào? Đi sâu vào tìm hiểu hệ thống các khía cạnh này, có thể thấy sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm của Nho giáo Khổng Mạnh về bản tính người. Khổng Tử chính là người đầu tiên đặt vấn đề “tính người” trong phái Nho gia.Trong sách Luận ngữ, ông đề cập tới chữ “tính”, ông nói “Bản tính người ta gần giống nhau, nhưng chịu ảnh hưởng khác nhau mà thành khác 9 nhau” [59, tr.269]. Như vậy, theo Khổng Tử, bản tính con người khi mới sinh ra là hoàn toàn giống nhau, đều ngây thơ, trong trắng, đó là cái bản tính có sẵn được trời ban cho nhưng khi chịu sự tác động của ngoại cảnh, của các yếu tố xã hội thì bản tính ấy của con người bị biến đổi. Có thể nói, khi đề cập đến vấn đề tính người, Khổng Tử chưa bàn luận, giảng giải gì nhiều, nhưng quan niệm về tính của ông là tư tưởng cơ bản, đặt nền tảng ban đầu để từ đó các nhà Nho về sau kế thừa, phát triển. Tiếp tục Khổng Tử, Mạnh Tử đã có những bổ sung về thuyết “tính Thiện” của mình. “Thuyết tính Thiện” được thể hiện phần lớn khi Mạnh Tử tranh luận với Công Đô Tử, người mang tư tưởng của Cáo Tử “Cáo Tử cho rằng: cái tính nhiên của người ta giống như nước chảy. Khi người ta khai thông phía đông, thì nước chảy về phía đông; khi người ta khai thông phía tây thì nước chảy về phía tây. Cái tính tự nhiên của người ta chẳng phân biệt được việc thiện với việc ác; ấy cũng như dòng nước chẳng phân biệt được phía đông và phía tây vậy. Mạnh Tử đã nói rằng: đã đành dòng nước chẳng phân biệt được phía đông và phía tây nhưng há nó chẳng phân biệt được phía trên và phía dưới sao? Cái bản tính của người ta vốn thiện, ấy cũng như cái bản tính của nước là dồn xuống phía dưới thấp vậy. Không một người nào tự nhiên sinh ra mà bất thiện, cũng như thế, không một thứ nước nào mà chẳng chảy xuống thấp” [61, tr.143-145]. “ Cáo Tử cho rằng: Cái bản tính của người chẳng nhất thiết là thiện hay ác, tự nơi người dùng nó là thiện hay ác mà thôi. Ấy cũng như nước chẳng nhất định chảy về đâu, hễ phía nào thông thì nó chảy về phía đó. Mạnh Tử bổ cứu thêm rằng: Cái bản tính của người nhất định là thiện, giống như cái bản tính của nước là nhất định chảy xuống thấp. Cho nên dẫu cho người ta chặn nghịch dòng của nó thì nó có sức phản động để vượt khỏi chỗ ngăn bít nhằm tìm chỗ thấp mà chảy xuống nữa. Chiếu theo đó nếu nhà cầm quyền thi hành chính sách bạo ngược, thì bị cái sức phản động của cái tính bản thiện của dân chúng, ắt dân chúng sẽ tung khỏi xiềng xích của nhà cai trị ấy mà nương 10 cậy vào nhà chính trị khác có nhân” [61, tr.145]. Ngoài ra, thuyết “Tứ đoan” nổi tiếng trong thiên Công Tôn Sửu cũng là một nội dung quan trọng của thuyết tính thiện. Theo đó, Mạnh Tử cho rằng, bản tính con người từ khi sinh ra là do trời phú, cho nên vốn là thiện, bản tính của con người là thiện, cũng như nước phải chảy xuôi ,từ chỗ cao xuống chỗ thấp. Người ta không ai là bất thiện, cũng như không có loại nước nào là không chảy từ chỗ cao chảy xuống chỗ thấp. Minh chứng cho nhận định này, trong sách Mạnh tử, ông đã đưa ra hình ảnh đứa trẻ khi mới sinh ra vốn đã có tình cảm quyến luyến với cha mẹ, lòng yêu mến anh chị em của mình, ai cũng động lòng thương xót và muốn cứu đứa trẻ khi nhìn thấy nó sắp té xuống nước. Cái tình cảm quyến luyến và động lòng thương xót ấy Mạnh Tử gọi là “lương tri”, “lương năng”. Trong sách Mạnh tử, khi Cáo Tử cho rằng điều nhân ái là do nơi mình còn điều hợp nghĩa là do nơi ngoài thì Mạnh Tử đã bổ cứu rằng: điều nhân và điều nghĩa cả hai đều do nơi tâm tính mình hết [61, tr.149]. Điều này có nghĩa là, con người sống một cách tự giác, dù ở trình độ học vấn nào hay tiêu chuẩn giá trị của họ là gì thì lúc nào họ cũng có ý niệm tự giác về điều nên làm hay không nên làm một việc gì đó. Tính tự giác đó theo Mạnh Tử thì đó là cái vốn sẵn có của con người, bao gồm: “trắc ẩn”, “tu ố”, “từ nhượng”, “thị phi”: “Trắc ẩn chi tâm” (lòng thương xót mọi người), “Cung kính chi tâm” (kính trên nhường dưới), “Tu ố chi tâm” (biết hổ thẹn), “Thị phi chi tâm” (biết nhận ra điều phải trái) [61, tr151-152]. Các loại tự giác thông qua các hình thức biểu hiện của nó trở thành nguồn gốc cho các đức tính của con người. Song, Mạnh Tử cũng nhấn mạnh, “đoan” chỉ là điểm khởi đầu, bản thân lòng tự giác đã bao chứa đầy đủ các đức tính, muốn cho các đức tính được phát triển viên mãn thì phải có sự nỗ lực không ngừng của lòng tự giác. Cụ thể: “Trắc ẩn chi tâm” chính nguồn gốc của đức Nhân, “Tu ố chi tâm” là nguồn gốc của đức Nghĩa, “Cung kính chi tâm” là nguồn gốc của đức Lễ, “Thị phi chi tâm” là nguồn gốc của đức Trí. 11 Tất cả các đức tính đều là cái vốn có của con người và đầy đủ trong “tâm” của mỗi người. Công Đô Tử nói rằng: “Cáo Tử nói rằng bản tính người ta không phân biệt thiện với bất thiện. Người khác lại nói: “Bản tính người ta có thể làm điều thiện, cũng có thể khiến làm điều bất thiện. Vì thế, Văn vương, Vũ vương dấy lên mà dân ham chuộng điều thiện, U, Lệ dấy lên, mà dân ưa thích việc hung bạo. Người khác lại nói rằng có người bản tính vốn thiện, cũng có người bản tính vốn bất thiện. Vì thế mà vua Nghiêu là thánh quân lại có người tượng (độc ác làm dân), ông Cổ Tẩu làm cha lại có con là ông Thuấn (hiếu hạnh),…Nay thầy dạy rằng: tính bản thiện, thì mấy người kia đều nói sai hay sao?” Mạnh Tử đáp rằng: - Nếu xét bản tính phát động ra ở mặt tình cảm, thì thấy mọi người đều có thể làm điều thiện, nên ta mới nói bản tính vốn lành. Ôi nếu có kẻ làm điều bất thiện, có phải lỗi ở bản chất của tính đâu. Lòng trắc ẩn ai ai cũng có, lòng tu ố ai ai cũng có, lòng cung kính ai ai cũng có, lòng thị phi ai ai cũng có. Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng cung kính là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí vậy.Nhân, nghĩa, lễ, trí chẳng phải ở ngoài đổ khuôn vào ta, mà ta có sẵn cả, chẳng qua không nghĩ tới mà thôi. Vì thế người xưa mới nói “cầu thì được, bỏ thì mất” [61, tr.151-153]. Tuy nhiên, căn nguyên của giá trị nằm ở lòng tự giác là một chuyện, song con người trong hoạt động kinh nghiệm của mình có phát huy được ý thức giá trị hay không lại là một chuyện khác. Tóm lại, theo quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh, bản tính con người là thiện, có nguồn gốc từ trời, là cái bẩm sinh do trời phú cho. Nếu con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì có thể trở thành bậc thánh nhân. Nếu con người không biết nuôi dưỡng thiện đoan, để nó mai một đi thì sẽ trở nên nhỏ nhen, ích kỷ. 12 1.1.2. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về vai trò của con người. Nho giáo Khổng - Mạnh nhìn nhận thế giới trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, thế giới và vạn vật là một chỉnh thể thống nhất. Trong các mối quan hệ thì Nho giáo Khổng - Mạnh đặc biệt quan tâm đến hai mối quan hệ cơ bản: mối quan hệ giữa trời với người và mối quan hệ giữa con người với xã hội, từ đó nêu bật lên vị trí, vai trò của con người trong thế giới, trong xã hội. Khi đề cập về vấn đề vai trò con người, Nho giáo Khổng - Mạnh đã đặt con người trong mối quan hệ với tự nhiên (trời, đất, vạn vật) và với xã hội (biểu hiện trong quan hệ giữa người với người, con người với xã hội). Cụ thể: Thứ nhất: Vai trò của con người trong mối quan hệ với trời đất, vạn vật. Xuất phát từ quan điểm “vạn vật gốc ở trời” (Kinh Lễ), “Trời sinh ra người…thì người phải lấy Trời làm gốc” (Kinh Thi) nên theo Nho giáo Khổng - Mạnh, con người phải biết thực hành đúng “đạo trời”, “mệnh trời” (biết mệnh trời thì chẳng có thể là người quân tử) [46, tr.562]. Bàn về trời và vai trò của trời đối với con người và xã hội, Nho giáo Khổng - Mạnh đưa ra phạm trù Thiên mệnh. Mệnh của trời (Thiên mệnh) là quyền uy, sự thể hiện của trời đối với vạn vật trong sự sinh thành, biến đổi tức là cái đức, cái tính của con người,… đều là mệnh trời định sẵn không thể cưỡng lại được. Theo Khổng Tử, “tri thiên mệnh” (biết mệnh trời) là điều hết sức quan trọng. Đối với người quân tử “biết mệnh trời” là tiêu chuẩn cơ bản và là yêu cầu cần phải có: “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã” (không biết mệnh trời thì chẳng có thể làm người quân tử). Khi đã biết mệnh trời thì tất yếu phải sợ mệnh trời. Sợ mệnh trời là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt quân tử (người có đạo đức, kẻ thống trị) với tiểu nhân (không có đạo đức, kẻ bị trị) như Khổng Tử nói: “Người quân tử có 3 điều kính sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời dạy của thánh nhân, kẻ tiểu nhân 13 không biết mệnh trời nên không sợ, khinh nhờn bậc đại nhân, coi thường lời dạy của thánh nhân” [59, tr.133]. Tiếp tục tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã nêu lên quan điểm: khi con người biết mệnh Trời thì điều cơ bản là không được làm trái mệnh Trời, mà phải suy nghĩ, hành động theo mệnh Trời, nếu không sẽ bị mắc tội với Trời và bị Trời trừng phạt. Rõ ràng, quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về vai trò của con người trong mối quan hệ với trời về cơ bản là duy tâm, phản động. Trước trời, con người chỉ là một lực lượng thụ động, nô lệ. Vai trò của con người chỉ giới hạn, thu hẹp ở việc thực thi theo mệnh lệnh của trời. Thứ hai: Vai trò của con người trong xã hội (biểu hiện chủ yếu trong các quan hệ xã hội cơ bản) Theo quan niệm của Khổng Tử, con người sống trong xã hội có 5 mối quan hệ cơ bản bao gồm: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè.“Quân thần dã, phụ tử dã, phu phụ dã, con đệ dã, bằng hữu chi dao dã, ngũ dã thiên hạ, chi đạt đạo dã” (năm mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè mà đã đạt được, chính là đạo đấy) [59, tr.188]. Với mỗi quan hệ ấy, Nho Giáo Khổng - Mạnh lại đưa ra những quy phạm, những chuẩn mực đạo đức để ràng buộc, cột chặt con người vào những mối quan hệ này, định rõ yêu cầu và trách nhiệm của con người với con người trong gia đình và ngoài xã hội. Hiểu theo nghĩa thông thường, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội. Chuẩn mực đạo đức là những nguyên tắc, quy tắc đạo đức được mọi người thừa nhận trở thành những mực thước, khuôn mẫu để xem xét, đánh giá và điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Những quy phạm, chuẩn mực đạo đức mà Nho giáo Khổng - Mạnh đưa ra, gộp lại thành đạo làm người. Thông qua những mối quan hệ này có 14 thể nhận thức rõ hơn quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về vai trò của con người. Trong đó, vai trò của con người được đề cập nhiều nhất và được quan tâm nhiều là ở trong ba mối quan hệ đầu tiên: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Theo Nho giáo Khổng - Mạnh, để thực hiện tốt các mối quan hệ xã hội thì con người cần phải có các phẩm chất đạo đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Hiếu, Trung, v.v… Khi đề cập đến các chuẩn mực cần phải có của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội cơ bản, Mạnh Tử đã lên tứ đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí. Bốn đức này theo ông là, khi con người vừa sinh ra đã có sẵn và nó có nguồn gốc, đầu mối là lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi. Trong từng mối quan hệ, Nho giáo Khổng - Mạnh lại đưa ra những chuẩn mực đạo đức cụ thể để ràng buộc con người vào những mối quan hệ này. Cụ thể: Trong gia đình: Tuy Nho giáo Khổng - Mạnh đưa ra 3 mối quan hệ (cha - con, chồng - vợ, anh - em) nhưng chỉ có hai mối quan hệ được Khổng Tử và Mạnh Tử tập trung lý giải, đó là quan hệ cha - con, chồng vợ. Quan hệ cha - con là một trong những mối quan hệ cơ bản của con người, là tiền đề, điều kiện duy trì trật tự, tôn ti trong gia đình và nhằm góp phần củng cố trật tự, kỷ cương xã hội. Theo đó, cha mẹ phải thương yêu, dưỡng dục con cái, con cái phải chăm sóc, kính trọng cha mẹ. Người cha có vai trò là bề trên của con cái, sinh ra con cái cho nên Khổng Tử coi trọng đức “Hiếu”, tức là nhấn mạnh trách nhiệm, nghĩa vụ của con cái với cha mẹ. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử đã nhiều lần khẳng định, trong các việc phụng sự thì phụng sự cha mẹ là trọng đại hơn hết, là gốc vậy. Và khi người con đạt được đức hiếu đó mới là người có nhân, nghĩa, lễ, trí. Quan hệ chồng - vợ được Nho giáo Khổng - Mạnh nhìn nhận là “phu phụ hữu biệt”. Do vậy, vợ chồng phải có nghĩa với nhau. “Nghĩa” là chuẩn 15 mực đạo đức để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ vợ - chồng với nhau.Theo đó, chồng - vợ phải yêu thương và có trách nhiệm với nhau. Tuy nhiên, người vợ (người phụ nữ nói chung), trong quan niệm của Khổng Mạnh có vị trí, vai trò thấp hơn so với người chồng, (người đàn ông nói chung), do vậy nhìn chung Nho giáo Khổng - Mạnh coi trọng, đề cao vai trò của người chồng so với người vợ. Trong xã hội, Nho giáo Khổng - Mạnh đưa ra mối quan hệ vua dân, vua - tôi, quan - dân trong đó tinh thần chung của Nho giáo Khổng Mạnh là quan tâm tới mối quan hệ vua - tôi (quân - thần). Khổng Tử đã từng nói: “Nếu vua thương yêu (nhân) bề tôi thì bề tôi phải trung thành với vua”, còn Mạnh Tử thì cho rằng, nhà vua mà coi bề tôi như chó ngựa thì bề tôi coi vua như giặc thù. Cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều đưa ra các quy phạm đạo đức Nhân, Nghĩa, Hiếu, Trung nhằm ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ lẫn nhau giữa vua và bề tôi. Vì vậy có thể nói, quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về quan hệ vua - tôi ít nhiều có tính nhân văn, nhân bản sâu sắc. Theo Nho giáo Khổng - Mạnh, vua là cha mẹ (phụ mẫu) của dân nên vua phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức, phải yêu thương dân, phải hợp lòng dân, phải nuôi dưỡng và giáo hóa dân…Có như vậy, dân mới có đạo đức, mới có khuôn phép. Còn dân (bề tôi) thì phải có đức “Trung”, đức “Hiếu” và hơn nữa là phải tận trung, tận hiếu với vua. Trong một chừng mực nhất định, Nho giáo Khổng - Mạnh khi bàn về quan hệ giữa vua - tôi, cụ thể là bàn về vai trò của dân đã đưa ra được những quan niệm có yếu tố hợp lí khi coi dân có vai trò nhất định trong việc sáng tạo của cải vật chất, sự hưng vong của triều đại, quốc gia. Tuy nhiên, Nho giáo Khổng - Mạnh lại đề cao quá mức địa vị và vai trò của nhà vua, của sự tu dưỡng đạo đức, sự giáo hóa dân của nhà vua. Do đó, mặc dù đề cao vai trò con người như thế nào đi chăng nữa nhưng xét cho cùng, quan niệm ấy về cơ bản là duy tâm, siêu hình và chủ yếu là nhằm duy trì, bảo vệ trật tự, cơ cấu giai cấp của xã hội phong kiến đương thời. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan