Luận văn tốt nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN
HUỲNH THỊ NGUYỆT
NHỮNG BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN
KHI HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: TRẦN ĐÌNH THÍCH
Cần Thơ, 5/2010
GVHD: Trần Đình Thích
1
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Kính dâng
Cha mẹ suốt đời tận tụy vì tương lai của con. Con xin chân thành cảm ơn Ba Mẹ, anh
chị cùng tất cả những người thân trong gia đình đã tận tâm lo lắng, tạo mọi điều kiện cho con
được học tập cho đến ngày hôm nay
Vô cùng tri ân
Thầy Trần Đình Thích đã hướng dẫn em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Em xin cám ơn các Thầy Cô bộ môn và các anh chị, các bạn đã hướng dẫn em tận tình
trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp và đã tạo điều kiện, giúp đỡ và chỉ bảo em
trong quá trình thực tập, giúp em có thêm những kiến thức trong thực tế và học hỏi được
nhiều kinh nghiệm quý báu.
Người viết
GVHD: Trần Đình Thích
2
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương hướng và phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Những đặc điểm chính của nền văn học Việt Nam hiện đại
2. Những khó khăn trong quá trình giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại
3. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí
Minh.
3.1 Tiểu sử
3.2 Sự nghiệp sáng tác
3.2.1 Quá trình sáng tác
3.2.2 Quan niệm sáng tác và phong cách nghệ thuật
3.3 Những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh được
giảng dạy trong nhà trường phổ thông.
Chương 2: NHỮNG BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH THPT KHẮC
PHỤC KHÓ KHĂN KHI HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH
1. Những khó khăn của học sinh khi học tác phẩm văn chương của Nguyễn
Ái Quốc- Hồ Chí Minh
1.1
Những khó khăn xuất phát từ phía tác phẩm
1.1.1 Thể loại
1.1.2 Từ ngữ
1.1.3 Thành ngữ, tục ngữ, điển tích, điển cố
1.1.4 Văn phong hiện đại
1.1.5 Tác phẩm dịch
GVHD: Trần Đình Thích
3
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
1.2
Khó khăn xuất phát từ phía học sinh
1.2.1 Sự khác biệt về thời đai
1.2.2 Sự khác biệt về quan điểm thẫm mĩ
1.2.3 Sự khác biệt về quan niệm văn học
1.2.4 Vốn sống, kinh nghiệm sống
1.3
Hạn chế xuất phát từ phía giáo viên
1.3.1 Sự bảo thủ của một số giáo viên
1.3.2 Hạn chế về năng lực chuyên môn
1.3.3 Bệnh thành tích
1.3.4 Những nguyên nhân khác
2. Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh trung học phổ thông khắc phục
khó khăn khi học tác phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh
2.1 Cơ sở đề xuất một số biện pháp giúp học sinh trung học phổ thông
khắc phục khó khăn khi học tác phẩm văn chương của Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh
2.2 Những biện pháp giúp học sinh trung học phổ thông khắc phục khó
khăn khi học tác phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh
2.2.1 Dựa vào đặc điểm nội dung tác phẩm
2.2.2 Dựa vào đặc điểm nghệ thuật
2.2.3 Dựa vào phong cách nghệ thuật tác giả
2.2.4 Dựa vào lý luận dạy học
Chương 3: THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM
1 Mục đích thể nghiệm
2 Phạm vi thể nghiệm
3 Giáo án thể nghiệm
PHẦN KẾT LUẬN
GVHD: Trần Đình Thích
4
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời Hồ Chí Minh đã từng nói “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng do
công tác cách mạng Người đã sáng tác rất nhiều để lại trong kho tàng văn học Việt
Nam một di sản văn học đồ sộ. Những tác phẩm của Người không chỉ mang tính chiến
đấu phục vụ đắc lực cho cách mạng Việt Nam mà còn mang tính giáo dục sâu sắc.
Nhận thấy được tầm quan trọng, giá trị to lớn trong văn chương của Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh các nhà biên soạn sách giáo khoa đã đưa tác gia lớn này vào giảng dạy
trong nhà trường, ngay trong chương trình tiểu học học sinh đã được tiếp xúc với
những sáng tác của Bác. Theo sự phát triển của xã hội công tác giáo dục cũng có nhiều
đổi mới để cho phù hợp với đời sống hiện đại, sách giáo khoa đã nhiều lần cải cách
nhưng những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh vẫn không bị thay thế qua
đó ta thấy được vị trí to lớn của Bác không chỉ trong công tác cách mạng mà cả trong
nền giáo dục.
Thơ văn của Bác vốn giản dị, trong sáng không trúc trắc khó hiểu nhưng để phù
hợp với công tác tuyên truyền cách mạng Bác đã sáng tác rất nhiều thể loại, mỗi thể
loại có một phong cách riêng, độc đáo, không lặp lại, không chỉ thế Bác còn sáng tác
bằng nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Pháp. Chính điều này làm cho học sinh khi tiếp
nhận tác phẩm của Bác sẽ gặp những khó khăn nhất định.
Với mong muốn giảng dạy về tác gia này được tốt hơn chúng tôi đã chọn đề tài
“Những biện pháp giúp học sinh THPT khắc phục khó khăn khi học tác phẩm văn
chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh”. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng với đề
tài này tôi chỉ mong góp một phần nhỏ bé vào việc học và dạy văn chương của Nguyễn
Ái Quốc- Hồ Chí Minh được tốt hơn và nhận thấy được cái hay cái đẹp trong sáng tác
của Bác.
2. Lịch sử vấn đề
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã để lại cho nhân dân Việt Nam, cho cả thế giới
một sự nghiệp văn chương đồ sộ bên cạnh sự nghiệp cách mạng vĩ đại. Thơ văn của
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh có một giá trị vô cùng to lớn phục vụ tích cực cho sự
nghiệp cách mạng nước nhà. Vấn đề văn chương của Người đã có nhiều công trình
nghiên cứu không chỉ trong nước mà cả ngoài nước. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu về
phương pháp giảng dạy văn chương của Người vẫn còn khá mới. Từ tên đề tài:
“Những biện pháp giúp học sinh trung học phổ thông khắc phục khó khăn khi học tác
phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh”, ta thấy có ba vấn đề cần tìm
hiểu: Thứ nhất lịch sử nghiên cứu phương pháp dạy học Văn; Thứ hai lịch sử nghiên
cứu về tác gia Hồ Chí Minh và cuối cùng là lịch sử về đề tài mà chúng tôi nghiên cứu.
GVHD: Trần Đình Thích
5
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
Qua quá trình tìm hiểu lịch sử vấn đề chúng tôi hi vọng sẽ đem lại cái nhìn sâu sắc và
toàn diện hơn về vấn đề này.
Bộ môn phương pháp giảng dạy là bộ môn còn khá non trẻ, mãi đến thập niên
50 của thế kỉ XX mới được đề cập đến. Trước đó vấn đề phương pháp còn bị bỏ ngỏ,
việc tìm hiểu phương pháp giảng dạy chưa được chú trọng đúng mức do nhiều nguyên
nhân khách quan cũng như chủ quan. Mãi đến năm 1950 khi quyển “Giảng văn Chinh
phụ ngâm” của giáo sư Đặng Thai Mai ra đời tại liên khu IV đã mở ra con đường cho
bộ môn phương pháp giảng dạy một hướng đi cụ thể. Từ đó đến nay công trình nghiên
cứu về phương pháp dạy học văn, đặc biệt là trong những năm gần đây tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này còn thiên về lý luận văn học, vấn đề về
phương pháp giảng dạy còn chung chung chưa cụ thể như “Mấy vấn đề giảng dạy văn
học sử cấp III” của Phan Trọng Luận, “Kinh nghiệm giảng dạy văn học cấp III” của
Trương Dĩnh, Phan Trọng Luận, Đỗ Quang Lưu, Vũ Ngọc Khánh. Cho đến những
năm 1970 những công trình nghiên cứu về phương pháp giảng dạy văn chương đã
được nâng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Đầu tiên là quyển “Vấn đề giảng dạy tác
phẩm văn chương theo loại thể ” do nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Đàm Gia Cẩn,
Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý, Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1987. Trong quyển
này nhóm tác giả đi vào phân tích cụ thể những yếu tố thuộc về thể loại của tác phẩm
văn học và đưa ra hướng giảng dạy tích cực. Hay ở một công trình khác: “Tu từ học
với vấn đề giảng dạy Ngữ Văn” của Đinh Trọng Lạc, tác giả giải quyết vấn đề từ góc
độ tu từ học. Nguyễn Duy Bình thì có “Dạy văn- Dạy cái hay cái đẹp”,1983. Ngoài ra
cũng kể đến “Phương pháp dạy văn” của Phan Trọng Luận, quyển này xuất bản vào
năm 1988. Đặc biệt trong những năm gần đây có nhiều công trình đã đi vào sát thực tế
hơn như: “Thử đi tìm phương pháp dạy học có hiệu quả” của Lê Nguyên Long, Nhà
xuất bản Giáo dục, 1998, “Phương pháp dạy học văn ở bậc trung học phổ thông” của
Trịnh Xuân Vũ, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, và Phan
Trọng Luận lại cho ra đời quyển “Thiết kế bài giảng tác phẩm văn chương ở nhà
trường phổ thông”, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998.
Những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy được triển khai
một cách khá đồng bộ và mạnh mẽ. Các nhà giáo dục, quản lý giáo dục và thầm chí cả
xã hội cũng đã vào cuộc để đóng góp những ý kiến, kinh nghiệm của mình cho sự
nghiệp giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy nói riêng.
Qua những công trình được đề cập ở trên, ta nhận thấy vấn đề đổi mới phương
pháp giảng dạy liên quan mật thiết với đề tài. Đồng thời thấy được thực trạng dạy học
văn hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Người học còn gặp nhiều khó khăn trong
việc cảm thụ tác phẩm văn học. Nguyên nhân là do chương trình học nặng nề, áp đặt
về lý luận. Bên cạnh đó nguyên nhân về phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng
cần phải bàn đến. Một số giáo viên còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ. Để khắc
phục điều này đòi hỏi người giáo viên phải luôn có sự tìm tòi, học hỏi nâng cao kiến
GVHD: Trần Đình Thích
6
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
thức và cần đổi mới phương pháp giảng dạy. Xây dựng giáo án phù hợp, nắm bắt được
nguyên nhân khiến học sinh học kém môn này. Làm tốt những điều ấy giáo viên không
chỉ dạy tốt mà học sinh cũng học tốt. Cho nên có thể khẳng định phương pháp giảng
dạy vẫn là một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong giảng dạy.
Về tác giả Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh từ trước đến nay có nhiều công trình
nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp của Người: Từ sự nghiệp chính trị cũng như sự
nghiệp văn chương. Bác không chỉ là nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một nhà thơ lớn
của thế kỷ XX. Sự nghiệp văn chương của Bác gắn liền với sự nghiệp cách mạng.
Trong con người Bác nhà thơ, nhà cách mạng luôn hòa quyện vào nhau. Sự nghiệp văn
chương của Bác luôn phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng nước nhà.
Vì giới hạn của đề tài nên người viết chỉ điểm qua một vài công trình tiêu biểu nghiên
cứu về thơ văn của Người trong những năm gần đây.
Năm 1978 Nhà xuất bản Giáo dục cho ra đời quyển “Nghiên cứu bình luận thơ
văn Hồ Chí Minh” do Lưu Quang Vũ tuyển chọn. Năm 1995 Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia cho xuất bản “Hồ Chí Minh toàn tập”. Đây là bộ sách tập hợp toàn bộ những
sáng tác bao gồm những bài viết, bài nói chuyện của Người theo từng giai đoạn của
cách mạng Việt Nam. Hai năm sau đó, hàng loạt những công trình nghiên cứu thơ văn
Bác ra đời. Năm 1997, quyển “Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh” do Hồ Sĩ Hiệp và Lâm
Quế Phong biên soạn, bộ sách đã trình bày về sự nghiệp sáng tác, một số tác phẩm và
những bài phê bình nghiên cứu về thơ Bác. Cũng trong năm này, Bích Hằng đã tuyển
chọn và cho ra đời cuốn “Nhật kí trong tù và những lời bình” do Nhà xuất bản Văn
hóa thông tin ấn hành, tác phẩm đã có công tập hợp được nhiều bài nghiên cứu phê
bình, bình luận về những bài thơ trong “Nhật kí trong tù” của những học giả có tên
tuổi.
Năm 1998 quyển “Văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1945” của nhóm tác giả Trần
Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng và Hà Văn Đức do
Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành cũng có trình bày về những sáng tác của Nguyễn Ái
Quốc- Hồ Chí Minh và có chương riêng nói về Nhật kí trong tù. Năm 1999 Nhà xuất
bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh lại cho phát hành quyển “Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí
Minh” do Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn.
Đặc biệt là quyển “Mấy vấn đề về phương pháp tìm hiểu và phân tích thơ Chủ
tịch Hồ Chí Minh” của Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh. Đây là một công trình khá hay,
tác giả đã đi vào trình bày quan điểm sáng tác, phong cách thơ và phương pháp tìm
hiểu và phân tích một bài thơ của Người. Kế đến là hai quyển “Thơ văn Hồ Chí MinhTác phẩm và dư luận” và “Nhật kí trong tù- Tác phẩm và dư luận”, đây là hai công
trình có giá trị, tập hợp được nhiều bài viết của nhiều nhà phê bình nghiên cứu có tên
tuổi trong nền văn học Việt Nam. Ngoài ra còn có nhiều công trình, bài viết về thơ văn
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh nhưng do đề tài này chủ yếu đi vào phương pháp
giảng dạy nên chúng tôi chỉ điểm qua vài công trình tiêu biểu.
GVHD: Trần Đình Thích
7
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
Thiết nghĩ chính vì tầm quan trọng của tác gia văn học này giáo viên nên cố
gắng hướng học sinh đến việc khám phá cái hay, cái đẹp trong thơ văn của Bác là điều
rất cần thiết.
Đề tài“Những biện pháp giúp học sinh THPT khắc phục khó khăn khi học tác
phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh” không hoàn toàn mới mẻ ở đây
đã có sự nối tiếp và kế thừa. Kế thừa ở chỗ vận dụng phương pháp dạy học Ngữ văn
vào công tác giảng dạy – đã và đang được giảng dạy trong nhà trường phổ thông hiện
nay. Những công trình trước đây chỉ đề cập đến phương pháp dạy hoặc chỉ đi vào phân
tích các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh mà chưa lồng ghép vận dụng
kiến thức vào việc giúp học sinh khắc phục những khó khăn khi học văn học hiện đại
nói chung, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh nói riêng. Với đề tài này chúng tôi sẽ
nghiên cứu trên nhiều bình diện, từ lý luận dạy học cho đến thực tiễn những khó khăn
mà học sinh mắc phải khi tìm hiểu những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí
Minh. Trên cơ sở đó hi vọng đề tài này có được tính khả thi. Lịch sử vấn đề là khâu
khá quan trọng trong đề tài này nó giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quát về vấn đề mà
mình trình bày.
3. Mục đích yêu cầu
Để xác định được những khó khăn cơ bản, phổ biến khi học sinh THPT tiếp cận
tác phẩm văn chương Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đôi khi người viết phải có sự
khảo sát toàn diện từ nhiều phía. Trước hết người viết có cái nhìn tổng quát về sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Đương nhiên những tác phẩm
được giảng dạy trong chương trình phổ thông là những tác phẩm khảo sát chính để từ
đó có thể rút ra những khó khăn xuất phát từ phía tác phẩm. Bên cạnh đó người viết sẽ
khảo sát để tìm ra những khó khăn từ phía người dạy và người học. Trên cơ sở xác
định những khó khăn người viết sẽ nêu lên những biện pháp giúp học sinh khắc phục
khó khăn. Những đề xuất của người viết chủ yếu dựa trên đặc điểm về nội dung, nghệ
thuật tác phẩm và phong cách tác giả. Người viết còn dựa vào lý luận dạy học để đề
xuất một vài biện pháp giúp học sinh thuận lợi hơn trong việc tiếp cận tác phẩm văn
chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Vấn đề không chỉ dừng lại ở những tác
phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh mà qua đề tài này chúng tôi
muốn góp phần giúp người giáo viên dạy văn ý thức được vai trò và vị trí của bản thân
và bộ môn mà mình đang giảng dạy là rất quan trọng. “Văn học là nhân học”, “văn
học phải góp phần xây dựng con người”. Từ đó thấy được tầm quan trọng của văn
học, làm thế nào để học sinh yêu thích môn văn hơn, đây là điều luôn trăn trở của
những nhà giáo có tâm huyết với nghề. Mục đích cuối cùng của người viết là để nâng
cao hơn nữa chất lượng giờ giảng văn trong nhà trường phổ thông, tạo hứng thú hơn
cho các em khi học văn học nói chung và thơ văn Bác nói riêng. Đồng thời cũng phát
huy vai trò chủ động tích cực của học sinh trong học tập, đưa các em trở thành đối
GVHD: Trần Đình Thích
8
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
tượng trung tâm của quá trình dạy học, thu ngắn khoảng cách giữa người học với tác
phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do yêu cầu của đề tài: “Những biện pháp giúp học sinh THPT khắc phục khó
khăn khi học tác phẩm văn chương của phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ
Chí Minh” nên bài viết này chúng tôi chỉ giới hạn trong phạm vi đó. Nghĩa là chỉ tìm
hiểu những khó khăn mà học sinh gặp phải khi học những tác phẩm văn chương của
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Sau đó đưa ra những biện pháp, cách thức giúp học
sinh giảm bớt những khó khăn đó. Dựa trên cơ sở: Sách giáo khoa, các tạp chí, giáo
trình phương pháp giảng dạy, các công trình nghiên cứu về tác gia Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh người viết sẽ triển khai vấn đề trong ba phần: Phần mở đầu, phần nội
dung và phần kết luận. Trong phần nội dung gồm có ba chương, chương 1: Những vấn
đề chung đề cập đến vấn đề giảng dạy văn học, đôi nét về tác giả Nguyễn Ái Quốc- Hồ
Chí Minh, cũng như những khó khăn chung của học sinh khi tiếp cận với tác phẩm văn
chương trong chương trình THPT. Ở chương 2 sẽ đi vào phân tích những khó khăn
hạn chế cụ thể và xây dựng phương án khắc phục khó khăn đó. Đây là chương trọng
tâm của đề tài. Riêng chương 3 người viết sẽ thiết kế giáo án thể nghiệm cho một số
bài giảng tác phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh được đưa vào
giảng dạy trong chương trình THPT trên cơ sở kết hợp lý luận và thực tiễn, bài giảng
sẽ kèm theo một số thông tin, hình ảnh có liên quan.
5. Phương hướng và phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành công việc nghiên cứu trước hết chúng tôi nghiên cứu kĩ yêu cầu
đặt ra của đề tài. Xác định được nội dung trọng tâm cần giải quyết, kết hợp với sách
giáo khoa và các tài liệu có liên quan đến đề tài. Người viết đã sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau như: phương pháp diễn dịch, quy nạp, loại suy đối chiếu, so sánh,
phân tích tổng hợp, nhưng chủ yếu vẫn là khảo sát, tìm hiểu thực tế thông qua thăm
dò, điều tra tại các trường THPT.
Nói tóm lại với đề tài này, người viết cần phải có sự kết hợp nhiều phương pháp khác
nhau để có thể giải quyết tốt vần đề đặt ra.
GVHD: Trần Đình Thích
9
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Những đặc điểm chính của nền văn học Việt Nam hiện đại
Nền văn học hiện đại là một nền văn học đa dạng và phong phú. Tuy không có
nhiều tác phẩm kiệt xuất nhưng số lượng tác phẩm rất nhiều. Văn học Việt Nam được
chia làm hai bộ phận: Văn học bác học (Văn học thành văn) và văn học bình dân (Văn
học dân gian). Hai bộ phận văn học này luôn tồn tại song song và tác động qua lại lẫn
nhau. Đi vào tìm hiểu bộ phận văn học viết ta thấy còn nhiều vấn đề tồn tại chưa được
nhất trí cao. Điển hình là việc phân kì văn học còn nhiều vấn đề tranh luận, thậm chí
tên gọi của từng giai đoạn cũng chưa thống nhất.
Trước đây nền văn học Việt Nam (Văn học viết) được chia thành ba thời kì:
-
Thời kỳ thứ nhất: Từ thế kỷ X--- Hết thế kỷ XIX
-
Thời kỳ thứ hai: Từ Đầu thế kỷ XX--- Cách mạng tháng Tám 1945
-
Thời kỳ thứ ba: Từ Cách mạng tháng Tám 1945--- nay
Sự phân chia này dựa vào tình hình chính trị của đất nước nên chưa phù hợp với thực
tế của nền văn học nước nhà. Hiện nay có một số quan điểm khác dựa vào đặc trưng
của nền văn học chia thành hai giai đoạn có phần hợp lý hơn.
-
Thời kì thứ nhất: Từ thế kỷ X---Hết thế kỷ XIX (Văn học Trung đại)
-
Thời kỳ thứ hai: Từ thế kỷ XX----Nay (Văn học Hiện đại)
Ở đây xin được trình bày theo quan điểm thứ hai. Lấy mốc năm 1900 trở về sau văn
học Việt Nam được coi là văn học hiện đại để phân biệt với văn học từ thế kỷ X đến
hết thế kỷ XIX. Nền văn học hiện đại gắn liền với xã hội hiện đại, một xã hội công
nghiệp mới theo chế độ dân chủ.
Nội dung của nền văn học hiện đại là nền văn học đề cao cái tôi cá nhân, không như
nền văn học Trung đại chỉ đề cao cái ta- nền văn học phi ngã. Nếu nền văn học trung
đại với thi pháp ước lệ tượng trưng, sùng cổ, thì nền văn học hiện đại đề cao tính chân
thực hiện thực. Hay ở bình diện khác nhân vật và tính cách nhân vật có sự khác nhau.
Tính cách của nhân vật trong văn học trung đại là bất biến, thống nhất, ngược lại văn
học hiện đại tính cách nhân vật luôn thay đổi, chịu tác động của hoàn cảnh.
Nền văn học hiện đại tuy mới phát triển gần trăm năm nay nhưng đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Đây là một nền văn học có nhiều biến động “Trong thế kỉ XX
văn học Việt Nam đã có những phát triển vượt bậc. Từ những năm khởi đầu thế kỉ, văn
GVHD: Trần Đình Thích
10
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
học Việt Nam đã có những tìm tòi, phát hiện, thử nghiệm đầy mới mẽ. Vượt qua những
khó khăn trở ngại để cách tân, đổi mới, để phản ánh, phục vụ và tác động ngày càng
rõ rệt, mạnh mẽ đến đời sống hiện thực. Văn học Việt Nam đã trưởng thành cùng dân
tộc, dần dần đạt được những thành tựu đáng tự hào, về các lĩnh vực có được bề thế
hùng hậu, phong phú, đa dạng, độc đáo tiến bộ cả về số lượng lẫn chất lượng, hình
thức và nội dung” [28; tr.5]
Văn học Việt Nam từ năm 1900 đến nay được chia thành nhiều giai đoạn nhỏ,
mỗi giai đoạn có những đặc điểm khác nhau.
Giai đoạn từ 1900-1930: Đây là giai đoạn nền văn học có tính chất giao thời.
Giao thời là “Khoảng không gian chuyển tiếp từ thời kì này sang thời kỳ khác, cái mới,
cái cũ đan xen vào nhau, thường có mâu thuẫn, xung đột chưa ổn định”[23; tr.378].
Những yếu tố của nền văn học cũ vẫn còn tồn tại, phát triển ở một mức độ nhất định.
Nội dung tuy có đổi mới nhưng hình thức vẫn là lối văn quen thuộc theo kiểu “bình cũ
rượu mới”. Văn học thời kì này chủ yếu chuyển tải đạo lý theo quan niệm của nho
giáo, chữ Hán vẫn được sử dụng để sáng tác, vẫn tồn tại lối văn biền ngẫu.
Nền văn học mới ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã manh nha và bắt đầu
phát triển. Nền văn học cũ chưa bị diệt vong, còn nền văn học mới chưa đủ sức thống
trị văn đàn.
Hàng loạt những nhà thơ, nhà văn của giai đoạn này là “bước đệm” của văn học
Việt Nam hiện đại. Trong sáng tác của họ tồn tại cả hai yếu tố cũ và mới. Điển hình
như: Tản Đà, Phan Bội Châu, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh,…Họ đã có những thử
nghiệm đổi mới trong sáng tác của mình, tuy vậy họ vẫn chưa thoát khỏi thi pháp trung
đại. Nhìn chung văn học giai đoạn này có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, có tình
chất trung gian giữa truyền thống và hiện đại.
Sang giai đoạn 1930-1945: Đây là giai đoạn phát triển sôi nổi, đa dạng và
phong phú của văn học Việt Nam. Đặc biệt là phong trào thơ Mới với những cây bút
trẻ xuất hiện trên văn đàn như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Lưu
Trọng Lư,…Họ ca ngợi, đề cao cái tôi cá nhân, trốn chạy thực tại tìm vào một thế giới
siêu thực. Thơ Mới mang âm hưởng buồn. Đây cũng là một tất yếu của lịch sử, khi
những nhà văn, nhà thơ chưa tìm được được lý tưởng, họ trở nên bế tắc. Tuy vậy lực
lượng sáng tác giai đoạn này đã đóng góp một phần rất lớn làm thay đổi diện mạo văn
học, đem lại cho văn học giai đoạn này những “luồng gió mới”, tiêu biểu như nhóm
Tự lực văn đoàn với tôn chỉ “Tự sức mình làm ra những sách có giá trị văn chương”,
“Trọng tự do cá nhân”, “Ca ngợi những nét hay vể đẹp của đất nước mà có tính cách
bình dân”, đề cao nội dung “Mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”.
Những cây bút của nhóm Tự lực văn đoàn đã tạo được tiếng vang mạnh và có sức ảnh
hưởng lớn đối với văn học Việt Nam giai đoạn này.
Trong giai đoạn này trên văn đàn có sự tranh luận giữa thơ mới và thơ cũ.
GVHD: Trần Đình Thích
11
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
Giai đoạn 1930-1945 tồn tại nhiều dòng học văn. Dòng văn học lãng mạn, dòng văn
học hiện thực phê phán, dòng văn học cách mạng yêu nước. Tuy nhiên có thể chia
dòng văn học này thành hai bộ phận: Văn học hợp pháp và Văn học bất hợp pháp. Có
thể nói đây là dòng văn học tồn tại nhiều “màu sắc”, khá phức tạp.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945 “Không chỉ đưa lại độc lập tự do cho dân tộc
mà còn đưa lại quyền tự do sáng tác cho văn nghệ sĩ” [6; tr.3] mà còn mở ra hướng đi
mới cho văn nghệ sĩ. Trước Cách mạng tháng Tám hầu hết các văn nghệ sĩ thường
mạng nỗi đau đời, rơi vào bế tắc, lâm vào cảnh sống mòn, chết mòn. Giờ đây đưới ánh
sáng của Đảng, của cách mạng đã đem lại một tương lai, cuộc sống mới, trang bị cho
họ thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ phục vụ nhân dân, Tổ quốc.
Văn học Việt Nam sau 1945 có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ:
+ Giai đoạn 1945-1954(Chín năm kháng chiến chống Pháp) thơ văn chủ yếu thể hiện
tâm tình, nhận thức mới của người chủ đất nước trước vận mệnh Tổ quốc. Tình yêu tổ
quốc, niềm tự hào, niềm vui của cả dân tộc ở thời điểm mở đầu cho thời đại vẻ vang và
oanh liệt nhất trong lịch sử dân tộc. Không chỉ có thơ ca, văn xuôi cũng phát triển
mạnh mẽ. Những nhà văn trước Cách mạng tháng Tám tiếp tục có những thành tựu
mới như Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Tuân,....
Thơ văn thời kì này phản ánh rất phong phú và đa dạng cuộc sống của quần
chúng nhân dân, thông qua đó tác giả thể hiện những tâm tư, tình cảm và nhận thức
của mình trước hiện thực đời sống kháng chiến. Lực lượng sáng tác thời kỳ này ngày
càng đông đảo. Hầu hết các nhà văn, nhà thơ của giai đoạn trước đều tham gia cách
mạng, họ đến với cuộc sống kháng chiến của dân tộc và có những tác phẩm thật sự có
giá trị.
+ Giai đoạn 1954-1975(Kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc). Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tuy có nhiều gian
truân, vất vả nhưng cũng rất sôi nổi, hào hùng. Đây là đề tài được các nhà văn, nhà thơ
chú ý khai thác khá nhiều như: Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Mùa lạc của Nguyễn
Khải, Vùng mỏ của Vỏ Huy Tâm, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, Sông Đà của
Nguyễn Tuân,....
Bên cạnh đó vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu là đề tài
nổi bật nhất được các nhà văn, nhà thơ thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau. Thông
qua sự cảm nhận sâu sắc về tâm hồn, tình cảm của dân tộc Việt Nam ở hình tượng
người mẹ, anh giải phóng quân và nhiều hình tượng khác như: cô giao liên, cô thanh
niên xung phong. Hiện thực hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã góp phần
làm nên sức sống mãnh liệt cho thơ ca “Những vần thơ ra đời trong hoàn cảnh này là
những bông hoa nở dọc chiến hào điểm tô thêm vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của con
người Việt Nam”[6; tr.19]
GVHD: Trần Đình Thích
12
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
Đặc điểm chung của các giai đoạn này là văn học phục vụ kháng chiến và kiến
quốc. Văn học giai đoạn này đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, không chỉ đội ngũ nhà
văn đông đảo với nhiều thế hệ và số lượng tác phẩm đồ sộ mà văn học thời kỳ này còn
mang tính thời đại, tính thời sự và tính chiến đấu rất cao, xứng đáng là nền văn học
Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài những nhà văn, nhà thơ sáng tác từ trước cách mạng, còn có lớp nhà văn,
nhà thơ trẻ đầy tài năng và nhiệt huyết như: Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân,...
Tóm lại nền văn học Việt Nam hiện đại là nền văn học gắn liền với đời sống
nhân dân, phản ánh và phục vụ đời sống nhân dân “Đây là nền văn học mang nội dung
xã hội chủ nghĩa, tính dân tộc, tính Đảng, tính nhân dân sâu sắc và được sáng tác theo
phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa”[6; tr.24].
2. Những khó khăn trong quá trình giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại
Như đã trình bày ở phần trên văn học Việt Nam hiện đại là một giai đoạn văn
học phát triển khá phức tạp. Tuy thời gian phát triển không dài như văn học trung đại
nhưng nó đa dạng và phong phú từ nội dung đến hình thức.
Trong suốt bốn thập kỉ đầu của thế kỷ XX nền văn học Việt Nam hiện đại vô cùng
phức tạp, hai yếu tố cũ và mới vẫn còn đan xen, tính chất của nền văn học cổ vẫn còn
tồn tại: thi pháp ước lệ, tượng trưng, từ ngữ cổ vẫn được dùng trong sáng tác, các thể
thơ như: Đường luật, lối văn biền ngẫu vẫn còn được các nhà thơ sử dụng. Cách viết
còn mang tính chất khuôn mẫu, gò bó.
Bên cạnh cái cũ văn học hiện đại Việt Nam đã xuất hiện những yếu tố mới. Các
nhà thơ, văn đã có những cách tân trong sáng tác của mình. Hàng loạt những từ những
từ ngữ mới, khái niệm mới của phương Tây đã được đưa vào văn chương Việt Nam.
Thậm chí môtip của một số tác phẩm cũng được xây dựng dựa trên văn học phương
Tây mà chủ yếu là văn học Pháp. Đặc biệt có nhiều thể loại mới như: Tùy bút, ký sự,
thơ tự do,...
Một khó khăn mà người dạy cũng như người học gặp phải đó là sự chênh lệch
giữa khối lượng kiến thức và thời lượng giảng dạy. Văn học Việt Nam hiện đại là giai
đoạn văn học khá đồ sộ với nhiều khuynh hướng, trào lưu khác nhau cho nên muốn
hiểu được nó thì phải nghiên cứu, tìm tòi thật sâu. Người học sẽ khó có cái nhìn tổng
quát về giai đoạn văn học này.
Mặt khác, do thực tế khách quan nên mỗi nhà văn, nhà thơ đi vào một vấn đề
riêng. Hiện thực cuộc sống vô cùng phong phú, trong khi nền văn học hiện đại chủ yếu
phản ánh hiện thực. Vì thế đòi hỏi người dạy cùng như người học phải có vốn kiến
thức thực tế nhất định mới có thể thâm nhập vào các tác phẩm một cách dễ dàng, có
hiệu quả. Hơn nữa những tác phẩm văn học giai đoạn này đều mang khuynh hướng sử
GVHD: Trần Đình Thích
13
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
thi và cảm hứng lãng mạng. Cho nên người đọc muốn hiểu được cặn kẽ vấn đề thì phải
có kiến thức về lý luận văn học. Trong khi đó thì chương trình phổ thông chưa chú
trọng lắm về vấn đề lý luận văn học.
3. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí
Minh
3.1 Tiểu sử
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại quê ngoại là làng
Hoàng Trù, lớn lên ở quê nội Kim Liên (làng Sen), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Cha của
Người là Nguyễn Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Sắc, con của một gia đình nông dân cần
cù, chất phác. Mẹ là bà Hoàng Thị Loan, một người hiền hậu, đảm đang, sống bằng
nghề làm ruộng, dệt vải và chăm lo dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị
Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm, đều tham gia phong trào chống thực dân Pháp.
Bác là con thứ ba trong gia đình. Lúc còn bé có tên là Nguyễn Sinh Cung, về
sau đổi tên là Nguyễn Tất Thành. Khi đi học, Người là một học trò thông minh, chăm
chỉ học tập và ham tìm hiểu những điều mới lạ. Ngoài những sách phải học, Người còn
ham đọc truyện và thơ ca yêu nước. Người thường được cha cho tham dự những cuộc
đàm luận về thời cuộc giữa ông với những nhà yêu nước. Chính những yếu tố đó đã
hun đúc tinh thần yêu nước thương nòi ở Người. Năm 15 tuổi, Người đã tham gia công
tác bí mật, làm liên lạc cho một số nhà nho yêu nước lúc bấy giờ.
Người lớn lên khi phong trào yêu nước như: phong trào Cần Vương mà tiêu
biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Yên Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, khởi nghĩa Yên
Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đều bị thất bại.
Vào mùa hè năm 1908, Chủ tịch Hồ Chí Minh thôi học, rời Huế đi vào Nam và
Người đã dừng chân dạy học ở trường Dục Thanh- Phan Thiết một thời gian. Trong
những ngày dạy học ở trường Dục Thanh, Người không chỉ truyền thụ những kiến
thức văn hóa mà còn chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước thương dân cho học trò
của mình.
Ít lâu sau, Người vào Sài Gòn. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, Người đã lên tàu
La touche Tréville đi ra nước ngoài với mong muốn thực hiện được hoài bão cứu nước
của mình. Người từng hoạt động ở nhiều nước thuộc Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ,
Châu Á nhưng chủ yếu ở Pháp. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam ở Pháp,
Người gởi tới Hội nghị hòa bình ở Vecxay bản yêu sách “Quyền các dân tộc”. Năm
1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Ngày 3 /2/1930,
Người chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng cộng sản Đông
Dương tại Hương Cảng- Trung Quốc. Tháng 2 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước
thành lập Mặt trận Việt Minhừ khi về nước, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí
GVHD: Trần Đình Thích
14
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
Minh, lãnh đạo quân dân cả nước làm nên cuộc cách mạng tháng Tám lịch sử, tại
quảng trường Ba Đình Người đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ. Sau đó Người tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ.
Ngoài tên gọi Hồ Chí Minh và tên Nguyễn Tất Thành do gia đình đặt, trong
cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác còn có nhiều tên gọi và bí danh khác như: Nguyễn
Ái Quốc, Paul Tất Thành, Văn Ba, Lý Thụy, Tống Văn Sơ, ông già Thu,…
Bác còn dùng hơn 50 bút danh khi viết sách, báo: Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn A.Q,
Ng.Ái Quốc, Lê Nhân, Lê Ba, Lê Nông, Tuyết Lan, …
Người mất vào ngày 2/9/1969 tại Hà Nội. Có thể nói, ngoài sự nghiệp cách
mạng vĩ đại, Bác còn để lại cho đời sau nhiều tác phẩm văn chương có giá trị nghệ
thuật mà trong số đó có tập thơ “Nhật ký trong tù”.
3.2 Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp lớn lao
về tầm vóc phong phú và đa dạng về thể loại và phong cách sáng tạo. Tác phẩm văn
học của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh được viết bằng các thứ tiếng: Pháp, tiếng Hán,
tiếng Việt. Từ lúc còn nhỏ Bác đã có năng khiếu văn chương, yêu thích văn học dân
gian, văn thơ cổ điển, thơ văn yêu nước. Đặc biệt Người am hiểu sâu sắc Hán học, thơ
Đường, thơ Tống. Trong thời kỳ hoạt động cách mạng ở Pháp, Anh, Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh say mê tìm hiểu văn học nghệ thuật phương Tây “ Bác chưa bao giờ có
ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương. Trong cảnh nước mất, nhà cách
mạng dứt khoát từ chối con đường “Văn chương khoa cử” để hiến dâng cuộc đời cho
sự nghiệp cứu nước. Nhưng trên con đường cứu nước văn chương lại đến với Người
như một phương tiện, vũ khí chiến đấu sắc bén được sử dụng thường xuyên và có hiệu
quả” [11; tr.13]
3.2.1 Quá trình sáng tác
Sự nghiệp văn chương của Bác gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Văn chương
phục vụ cách mạng, cách mạng tạo điều kiện để văn chương phát triển. Đó là mối quan
hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa sự nghiệp văn chương và sự nghiệp chính trị của
Người. Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn chương của Bác trên ba lĩnh vực.
Văn chính luận: Những tác phẩm văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí
Minh viết ra với mục đích đấu tranh chính trị, lên án chế độ thực dân và chính sách tàn
bạo của chúng. Đây là những tác phẩm có tính chiến đấu cao. Một số tác phẩm tiêu
biểu của thời kỳ này như: Bản án chế độ thực dân Pháp, Vấn đề dân tộc thuộc địa,
Những cái tốt đẹp trong nền văn minh Pháp, Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng
cộng sản Đông Dương, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Di
chúc,...
GVHD: Trần Đình Thích
15
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
Trong mảng này“Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện chính trị có giá trị lịch
sử lớn lao, phản ánh khát vọng độc lập và cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân
tộc đã giành được thắng lợi. Đây là án văn chính luận hùng hồn tuyên bố quyền độc
lập của dân tộc Việt Nam trước nhân dân trong nước và thế giới. “Tuyên ngôn độc
lập” có giá trị về nhiều mặt. Trước hết là cơ sở và giá trị pháp lý của văn kiện. Dựa
trên những luận điểm về quyền con người, quyền bình đẳng giữa các dân tộc- những
quyền lợi thiêng liêng mà tạo hóa đã ban cho con người. “Tuyên ngôn độc lập” nêu
lên những lý lẽ đanh thép, có cở sở pháp lý vững chắc, thuyết phục. Tác phẩm có giá
trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Đây còn được xem là áng văn chính luận mẫu
mực, cấu trúc chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, ngôn từ chọn lọc.
Truyện và kí: Song song bên cạnh những tác phẩm chính luận nổi tiếng còn
phải kể đến những mảng truyện và kí. Truyện và kí của Người rất cô đọng, cốt truyện
trong sáng, kết cấu độc đáo, dễ gây ấn tượng cho người đọc. Mỗi truyện đều có cách
thể hiện riêng không lặp lại, ý tưởng thâm thúy, kín đáo, chất trí tuệ tỏa sáng trong
hình tượng và phong cách giàu tính hiện đại. Bác rất quan tâm đến lối kể chuyện
truyền thống và văn xuôi của dân tộc. Đồng thời Người cũng chú ý đến việc vận dụng
lối biểu hiện mới mẻ của văn xuôi phương Tây. Các câu chuyện của Bác thường dựa
trên một câu chuyện có thật rồi hư cấu phát triển thêm để thực hiện được dụng ý của
mình.
Những tác phẩm tiêu biểu như: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Con người biết
mùi hun khói, Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Nhật ký chìm
tàu, Vừa đi đường vừa kể chuyện, Giấc ngủ mười năm.
Thơ ca: Đây là lĩnh vực nổi bật trong giá trị sáng tạo văn chương của Người, có
thể kể đến ba tập thơ của Người “Nhật ký trong tù” (gồm 133 bài), “Thơ Hồ Chí
Minh” (gồm 86 bài), “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh” (36 bài).
“Nhật kí trong tù” được viết trong thời gian Người bị chính quyền Tưởng Giới
Thạch giam cầm ở Quảng Tây (Trung Quốc) từ ngày 29.8.1942 đến ngày 10.9.1943.
Đây là tập thơ phản ánh tâm hồn, nhân cách cao đẹp của người tù cách mạng trong
hoàn cảnh thử thách khắc nghiệt của chốn lao tù:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao”
Là sự thắng thế của những giá trị tinh thần, của lý tưởng Cộng sản. Đó còn là
lòng yêu nước, niền tin tất thắng vào ngày mai. Đồng thời cũng vạch trần bộ mặt tàn
bạo của nhà tù Quốc dân Đảng.“Nhật ký trong tù” còn chứa chan một tấm lòng nhân
đạo sâu. Tình cảm nhân đạo trong “Nhật ký trong tù” thực chất là chủ nghĩa nhân đạo
của giai cấp vô sản, vượt qua mọi giới hạn của màu da tôn giáo. Về giá trị nghệ thuật
“Nhật ký trong tù” sử dụng thể thơ tứ tuyệt vừa cô đọng, vừa hàm súc, linh hoạt.
GVHD: Trần Đình Thích
16
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
“Thơ Hồ Chí Minh”: Đây là những sáng tác từ khi Bác được trả tự do về nước
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thơ của Người thể hiện tấm lòng yêu nước sâu nặng,
đó là nỗi lo lắng của vị lãnh tụ trước tình cảnh đất nước bị xâm lược. Các bài thơ tiêu
biểu như: Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Rằm tháng giêng, Lên núi,....
Thơ chữ Hán của Bác được sáng tác trong nhiều thời điểm khác nhau. Đó là
những bài cổ thi với tứ thơ phóng khoáng, nhiều đề tài. Những bài thơ tiêu biểu như:
Thu dạ, Nguyên tiêu, Đăng sơn, Tặng Bùi Công, Tầm hữu,....
3.2.2 Quan niệm sáng tác và Phong cách nghệ thuật
3.2.2.1 Quan niệm sáng tác
Bác vẫn luôn coi văn học nghệ thuật là một vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách
mạng. Người xem văn học cũng là một mặt trận mà người nghệ sĩ là những chiến sĩ
trên mặt trận ấy. “Văn chương không chỉ là chuyện thù tạc, nhàn tản của một tiểu số
người cầm bút, mà văn nghệ phải là vũ khí sắc bén và người nghệ sĩ phải là một chiến
sĩ luôn mang tinh thần cách mạng tiến công”[7; tr.9]. Văn chương của Người viết ra
chủ yếu là để phục vụ cách mạng, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc “Văn học
trong tay của người cách mạng có khả năng trở thành vũ khí rất lợi hại” [19; tr.18]
Nhận thấy văn chương là thứ vũ khí sắc bén trong đấu tranh, tuyên truyền và
giáo dục nên Bác đã đặt ra yêu cầu cho bản thân và các văn nghệ sĩ: Văn chương phải
hướng đến quảng đại quần chúng, Bác chú trọng đến đối tượng thưởng thức “Văn
chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục
vụ”. Văn chương phải chỉ rõ mục đích viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?
Viết cái gì? Người chỉ rõ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, đại đa số nhân dân
có trình độ thấp, không có thời gian để đọc nhiều, đọc dài nên người cầm viết càng
viết ngắn càng tốt. Điều này cho thấy Bác luôn giáo dục ý thức, trách nhiệm cho người
cầm bút.
Mặt khác, yêu cầu đặt ra của Người là văn chương phải có tính chân thực. Nội
dung tác phẩm phải trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc. Người uốn nắn hướng
đi “chất thơ mộng quá nhiều mà cái chất hiện thực của sinh hoạt rất ít. Người nghệ sĩ
phải biết miêu tả cho hay, cho chân thực, cho hấp dẫn. Cần chú ý khai thác những
hiện thực cách mạng, nêu gương người tốt việc tốt, uốn nắn cái xấu”. Đặc biệt Người
luôn quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Theo Bác tác phẩm văn
chương phải thể hiện được tinh thần dân tộc, tính nhân dân và được nhân dân yêu thích
thì đó mới là một tác phẩm văn học chân chính và có giá trị.
Tóm lại có thể hiểu quan niệm của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh về văn
nghệ: “Văn nghệ là một hoạt động xã hội nên không thể tách rời, không thể đứng
ngoài chính trị và kinh tế. Lãnh đạo văn nghệ có nghĩa là lãnh đạo những con người
là văn nghệ, tức là phải tranh thủ được sự tự nguyện của họ. Làm văn nghệ là một
GVHD: Trần Đình Thích
17
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
công việc sáng tạo vì vậy người làm văn nghệ phải có sự độc lập chủ động thì tác
phẩm mới có giá trị.[25; tr.10]
3.2.2.2 Phong cách nghệ thuật
“Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là người bước đầu đặt nền móng và mở đường
cho nền văn học cách mạng. Văn chương của Hồ Chí Minh đã kết hợp sâu sắc tự bên
trong mối quan hệ giữa chính trị và văn học, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa truyền
thống và hiện đại. Mỗi loại hình của Người đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp
dẫn và có giá trị bền vững. Bác chính là người đầu tiên đã sử dụng có hiệu quả thể
loại văn chính luận hiện đại. Văn chính luận của Người mang cốt cách, đặc điểm của
văn chính luận của giai cấp vô sản.
Văn chính luận của Người bộc lộ tư duy sắc sảo, giàu tri thức văn hóa, gắn lý
luận với thực tiễn và giàu tính luận chiến, vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức
biểu hiện”.[2; tr.111]
Về mảng truyện và ký ta nhận thấy lối kể hết sức chân thực, giọng điệu sắc sảo,
châm biếm tinh tế, thâm thúy, giàu chất trí tuệ, tính hiện đại. Về thơ ca, rất đa dạng
nhiều bài được viết theo hình thức cổ thi, uyên thâm, hàm xúc “Thơ Người nói ít mà
gợi nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đâm, có âm thanh trầm lắng không phô diễn
mà như cố khép lại đường nét để cho người đọc tự thưởng thức lấy cái phần ở ngoài
lời”(Roogie Đơnuy- Pháp). Không chỉ thế mà thơ của Bác còn có tính hiện đại.
Nói tóm lại nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh là sự phong phú, đa dạng, ngắn gọn, súc tích và trong sáng. Linh hoạt
sáng tạo, hoàn toàn làm chủ trong việc sử dụng các hình thức thể loại và ngôn ngữ. Tư
tưởng, hình tượng luôn hướng về sự sống, áng sáng và tương lai. Đặc biệt tài năng sử
dụng ngôn ngữ, cách viết câu văn, câu thơ đậm nét dân tộc, mang âm hưởng của ca
dao, dân ca. Văn thơ Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân
đạo và nhân cách cao cả của Người.
3.3 Những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh được giảng dạy
trong nhà trường phổ thông
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh là một trong chín tác giả tiêu biểu được giảng
dạy trong chương trình phổ thông với tư cách là tác gia cùng Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu, Nam Cao, Tố Hữu.
Trong nhà trường phổ thông, tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh
gồm có: Chiều tối (Mộ) được giảng dạy ở lớp 11, Tuyên ngôn độc lập dạy ở lớp 12.
GVHD: Trần Đình Thích
18
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
Chương 2
NHỮNG BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH THPT KHẮC PHỤC
KHÓ KHĂN KHI HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH
1. Những khó khăn của học sinh khi học tác phẩm văn chương của Nguyễn
Ái Quốc- Hồ Chí Minh
Văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh thuộc phạm trù văn học hiện
đại cho nên nó sẽ mang những đặc điểm cơ bản về nội dung và hình thức của dòng văn
học này. Đó là nền văn học Cách mạng, nền văn học chống thực dân phong kiến
“Hành trình thơ văn của Nguyễn Ái Quốc bắt đầu từ những năm 20 trong bối cảnh
sinh hoạt ở Paris mà Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia với rất nhiều tư cách.
Nhưng dẫu ở bất cứ tư cách nào, ở khu vực hoạt động nào, Nguyễn Ái Quốc vẫn là
người tìm được sự nhất trí tối ưu giữa tư tưởng và hành động”[12; tr.58]
Chính vì thế các em học sinh sẽ được tiếp cận với nền văn học hiện đại qua
những tác phẩm văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Những tác phẩm văn
chương của Bác được giảng dạy trong nhà trường phổ thông sẽ mang đầy đủ những
đặc trưng của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Những tác phẩm các em được học ở chương trình THPT là những tác phẩm ưu
tú nhất của Bác. Nó có giá trị cả nội dung tư tưởng cũng như giá trị nghệ thuật. Đây
không chỉ là những tác phẩm văn chương bất hủ, những áng thiên cổ hùng văn như
Tuyên ngôn độc lập, mà nó còn là những tác phẩm được phổ biến rộng rãi được nhiều
người biết đến. Song nói như vậy, không có nghĩa là những tác phẩm này đơn giản, dễ
hiểu, dễ tiếp cận. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tác phẩm văn chương của
Bác có thể quy lại thành các vấn đề cơ bản, đó là những khó khăn xuất phát từ phía tác
phẩm; những khó khăn xuất phát từ phía học sinh; những khó khăn xuất phát từ phía
giáo viên; và một vài nguyên nhân khác.
Mặc dù, không thể không nhắc đến những tồn tại yếu kém trong cách truyền đạt
kiến thức đến học sinh từ phía một vài giáo viên ở phổ thông hiện nay. Song về
nguyên nhân cơ bản vẫn là sự đa dạng và phong phú từ nội dung đến hình thức văn
chương của Bác. Bên cạnh đó những giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ trong thơ văn của
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh còn nhiều nét khác biệt đối với người dạy cũng như
người học hiện nay. Đó là, thơ văn của Bác vẫn còn mang đặc trưng thẩm mĩ của nền
văn học trung đại. Điều đó được thể hiện rất rõ trong tập thơ Ngục trung nhật ký (Nhật
ký trong tù) và một số bài thơ chữ Hán khác. Qua tập Ngục trung nhật ký ta thấy khó
khăn đầu tiên mà học sinh gặp phải khi tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh là tác phẩm của Người vừa mang đậm tính cổ điển, vừa mang tính hiện
GVHD: Trần Đình Thích
19
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
Luận văn tốt nghiệp
đại. Thơ văn của Người vừa có “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” nhưng đồng
thời cũng có “Nay ở trong thơ nên có thép”. “Chất thép” đó chính là tính hiện đại,
tính chiến đấu trong văn chương của Bác.
Đối với Hồ Chí Minh, văn học trước hết là một vũ khí, một hoạt động cách mạng. Có
nghĩa là mỗi bài văn, bài thơ viết ra phải hướng vào một đối tượng cụ thể nào đó, phải
nhằm đạt tới một mục đích thiết thực nào đó. Quan điểm sáng tác ấy đã đem đến cho
văn thơ Người tính chất phong phú, đa dạng ít thấy ở những cây bút khác. Bởi lẽ trải
qua hơn nửa thế kỉ hoạt động cách mạng, khi ở Tây Âu, khi ở Trung Quốc, Thái Lan,
khi trên đất mình, yêu cầu cách mạng từng nơi, từng lúc đã đặt cho Người biết bao
nhiệm vụ cụ thể phải giải quyết, đã khiến Người đối phó với biết bao kẻ thù trong
những tình huống khác nhau, phải liên kết với biết bao bè bạn, phải thuyết phục nhiều
người thuộc sắc tộc khác nhau, tôn giáo, giai cấp, đảng phái khác nhau, giới tính lứa
tuổi, nghề nghiệp, trình độ...Mỗi bài viết, vì thế, tuy cùng chiến đấu cho một lí tưởng
cách mạng duy nhất nhưng phải theo từng đối tượng, từng mục đích cụ thể mà lựa
chọn nội dung viết và hình thức viết cho phù hợp.
Chính những yếu tố này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp nhận nội
dung tác phẩm của học sinh. Đó là một thực tế mà mọi người phải thừa nhận.
1.1 Những khó khăn xuất phát từ phía tác phẩm
1.1.1 Thể loại
Tính đa dạng của sự nghiệp văn học Hồ Chí Minh thể hiện nổi bật ở bình diện
thể loại sáng tác và phong cách nghệ thuật. Đây là một cây bút lớn, tài năng nhiều mặt,
có khả năng thể hiện trong nhiều phong cách khác nhau- có thể gọi là cây bút nhiều
phong cách.
Văn chương của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh bao gồm nhiều thể loại: Thơ
ca, Truyện ký, Văn chính luận,...được viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Có loại
được viết bằng chữ Hán, có loại được viết bằng chữ Quốc ngữ, có loại được viết bằng
bằng tiếng Pháp (chủ yếu là truyện và kí)
Vậy thể loại là gì? Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì: “Thể loại là một
hình thức sáng tác văn học nghệ thuật phân chia theo phương pháp phản ánh hiện
thực”,...[23; tr.900]. Tác phẩm văn chương là nơi để tác giả gửi gấm những tư tưởng,
tình cảm, khát vọng của mình vào đó. Vì vậy việc thể hiện dưới hình thức như thế nào
cũng là một vấn đề. Phải lựa chọn hình thức thể hiện như thế này, hoặc như thế kia để
đạt được mục đích của mình.
Trước hết tài năng của Người bộc lộ ở văn chính luận. Văn chính luận không thuyết
phục người đọc bằng hình tượng nghệ thuật mà bằng lập luận logic. Về thể văn này,
Hồ Chí Minh đã sáng tạo nên những tác phẩm có thể coi là mẫu mực và bất hủ. Tuyên
ngôn độc lập là một ví dụ. Người ta thường đánh giá tác phẩm này như một áng “thiên
GVHD: Trần Đình Thích
20
SVTH: Huỳnh Thị Nguyệt
- Xem thêm -